Thứ Năm, 30 tháng 12, 2021

Việt Á chỉ là phần nổi của tảng băng chìm

BÀI VIẾT MỚI CỦA NHÀ NGHIÊN CỨU QUAN HỆ QUỐC TẾ NGUYỄN QUANG DY:

  • Việt Á chỉ là phần nổi của tảng băng chìm
    Tác giả: Nguyễn Quang Dy
    Câu chuyện Việt Á là chủ đề nóng. Nếu bạn vào google gõ từ “Việt Á”, sẽ ra cả đống thông tin, đọc mỏi mắt và đau đầu. Dư luận lên án Việt Á tham lam trục lợi trước nỗi đau và sinh mạng của người dân - “ăn của dân không từ cái gì”. Nhưng Việt Á chỉ là “phần nổi của tảng băng chìm”. Chặt được cái vòi này thì con bạch tuộc sẽ mọc ra cái vòi khác kinh khủng hơn. Đó là con quái vật “thân hữu” (cronyism) được nuôi dưỡng bởi các nhóm lợi ích. Nói cách khác, đó là căn bệnh ung thư mãn tính đã di căn nhiều nơi, đặc biệt là y tế.
    Theo dòng sự kiện
    Tháng 10/2019, Nguyễn Minh Hùng (cựu Chủ tịch, kiêm TGĐ VN Pharma) đã bị tòa tuyên án 17 năm tù vì tội buôn bán thuốc giả để chữa bênh (ung thư), trị giá khoảng 151 tỷ đồng, gây thiệt hại cho người bệnh 50,6 tỷ đồng. CQĐT đã kết luận đằng sau sai phạm của VN Pharma có trách nhiệm của lãnh đạo Bộ Y Tế. Thứ trưởng Bộ Y tế Trương Quốc Cường đã bị bắt tạm giam để điều tra về việc “thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”.
    Tháng 4/2020, Phó Giáo sư, Tiến sỹ Y khoa Nguyễn Nhật Cảm (cựu Giám đốc CDC Hà Nội) và Nguyễn Ngọc Nhất (cán bộ Công ty Phát triển Khoa học Vitech), đã bị bắt để điều tra về các vi phạm quy định đấu thầu hệ thống Realtime PCR tự động, “gây hậu quả nghiêm trọng”. Hai ông Cảm và Nhất đã bắt tay với nhau nâng giá hệ thống PCR lên 7 tỷ đồng để bán cho CDC Hà Nội, và sau đó đã chi 15% “hoa hồng” cho ông Nguyễn Nhật Cảm.
    Cũng tháng 4/2020, PGS-TS Nguyễn Quốc Anh (cựu Giám đốc Bệnh viện Bạch Mai) và Phạm Đức Tuấn (Giám đốc Công ty Công nghệ y tế BMS) đã bị truy tố vì bắt tay với nhau lắp đặt hệ thống robot Rosa tại Bệnh viện Bạch Mai. Ông Tuấn thừa nhận rằng tổng giá trị hệ thống robot Rosa gồm cả chi phí vận chuyển, lắp đặt cho đến khi vận hành chỉ mất 7,4 tỷ đồng, nhưng họ đã hợp thức hóa thủ tục định giá robot Rosa lên đến 39 tỷ đồng.
    Ngày 17/2/2020, Bộ trưởng Bộ KH&CN Chu Ngọc Anh đã ký phê duyệt đề án Nghiên cứu và chế tạo bộ sinh phẩm Real Time PT-PCR & RT PCR đầu tiên “made in Vietnam” để phát hiện virus SARS-CoV-2 do “Học Viện Quân Y chủ trì, phối hợp với công ty Việt Á thực hiện”. Bộ KH & CN đã nghiệm thu “thần tốc” đề tài (3/3/2020) và đề nghị Bộ Y tế cấp phép. Ngay hôm sau (4/3/2020), Bộ Y tế đã “thần tốc” cấp phép lưu hành cho bộ xét nghiệm này. Đó là một quy trình nghiên cứu khoa học “thần tốc”, chắc chỉ có ở Việt Nam.
    Báo chí lề phải dẫn nguồn Bộ KH&CN thông báo bộ xét nghiệm của Việt Á “đã được WHO chấp thuận” (số đăng ký EUL 0524-210-00) và “Bộ Y tế Anh cấp chứng chỉ tiêu chuẩn chất lượng châu Âu”. Thông tin này đăng trên website của Bộ KH&CN (26/4/2020), vừa được gỡ (20/12/2021). Việt Á không chỉ được Bộ Y Tế và Bộ KH&CN đỡ đầu, mà còn được Vingroup tiếp sức. Khi lập VinBioCare (3/6/2021), Vingroup góp 69%, Việt Á 30%, bà Thu Hương 1%. VinBioCare được Arcturus Therapeutics của Mỹ nhượng quyền sản xuất vaccine Mỹ. Nhưng Phan Quốc Việt đã rút khỏi VinBioCare, như “ve sầu thoát xác”.
    Theo báo chí, từ tháng 2 đến tháng 11/2021, CDC Hải Dương đã hợp thức ký kết và thanh toán cho Việt Á 5 hợp đồng cung cấp vật tư, thiết bị y tế, với tổng số 151 tỷ đồng. Trong vụ này, Giám đốc CDC Hải Dương Phạm Duy Tuyến được Việt Á “lại quả” 30 tỷ đồng (20%). Việt Á được độc quyền cung cấp bộ xét nghiệm cho 62/63 tỉnh/thành. CDC Hải Dương là ví dụ điển hình (case study). Nhiều CDC tại các tỉnh/thành khác chắc khó thoát, nếu mở rộng điều tra như Thủ tướng chỉ đạo. Giám đốc CDC Nghệ An Nguyễn Văn Định đã được triệu tập vì nhận “lại quả” của Việt Á. Nhưng họ chỉ là “phần nổi của tảng băng chìm”.
    Trách nhiệm của hai Bộ
    Theo thông tin của Bộ Y Tế và Bộ KH&CN, test kit của Việt Á “có hiệu suất gấp 4 lần nhưng giá chỉ bằng 1/4 so với test kit tương tự của nước ngoài”. Tháng 3/2021, Việt Á đã được tặng Huân chương Lao động hạng 3 do “thành tích xuất sắc trong việc nghiên cứu, chế tạo và ứng dụng sinh phẩm Real-time RT-PCR phát hiện virus SARS-CoV-2”. Từ một kẻ vô danh tiểu tốt, CEO của Việt Á đã biến thành “đại gia”, trước khi trở thành tội phạm. Liệu lãnh đạo Bộ Y Tế, Bộ KH&CN, và Học Viện Quân Y có vô can trong vụ việc này?
    Với giấy phép “thần tốc” của Bộ Y tế, bộ xét nghiệm của Việt Á được bán cho 62 tỉnh/thành. Bộ Y tế cũng công bố giá bộ xét nghiệm của Việt Á là 470.000 đồng, làm cơ sở cho các địa phương tham chiếu để mua của Việt Á. Tháng 4/2020, Bộ KH&CN cũng thông báo chính thức trên cổng thông tin điện tử của Bộ là test kit của Việt Á “đã được WHO chấp thuận” (trong khi WHO chưa từng chấp thuận). Đây là “sơ xuất” do Bộ KH&CN nhầm lẫn, hay cố tình đánh tráo khái niệm, biến việc “WHO cấp mã số” thành “WHO chấp thuận”.
    Theo Bộ Y tế, “Tất cả các sản phẩm cấp phép đều được đánh giá đạt yêu cầu, đáp ứng tiêu chuẩn, chất lượng của Việt Nam và đảm bảo đúng theo các quy định hiện hành” (luôn “đúng quy trình!”). Trong khi Bộ Y tế viện dẫn Luật Giá: “trang thiết bị y tế và sinh phẩm xét nghiệm không thuộc danh mục mặt hàng phải quản lý giá”, thì Việt Á đã nâng giá bộ xét nghiệm để bán cho các bệnh viện và cơ quan phòng chống dịch trên cả nước, thu về ít nhất 4.000 tỷ đồng và chi khoảng 800 tỷ đồng để “lại quả” cho các đối tác có liên quan.
    Dư luận báo chí chính thống cũng như các trang mạng xã hội đã phản ứng mạnh về cách lý giải của Bộ Y tế. Dư luận cho rằng bộ này đang “lấp liếm”, “ngụy biện”, và “phủi tay”. Trong những ngày qua, nhiều người đã truy tìm những thông tin từ đầu năm ngoái khi Bộ KH & CN và Bộ Y Tế đã “thần tốc” cấp phép và quảng bá cho bộ xét nghiệm Covid-19 của Việt Á, làm cho doanh thu của công ty Việt Á tăng gấp 6 lần trong năm 2020. Nhưng dù sao Việt Á chỉ là “phẩn nổi của tảng băng chím”, và Phan Quốc Việt chỉ là quân tốt để thí.
    Theo báo Pháp Luật (21/12/2021), Việt Á được chỉ định thầu ở 62 tỉnh/thành trên cả nước (gần như độc quyền), trong khi năng lực thực sự của công ty này là một dấu hỏi chưa làm rõ. Vậy trách nhiệm của Bộ Y tế và Bộ KH & CN đến đâu trong đại án này? Việt Á chi “hoa hồng” 30 tỉ đồng (20%) cho Giám đốc CDC Hải Dương, trong khi các giám đốc CDC khác (như Nghệ An) còn đang chờ điều tra. Nhưng thế lực nào đứng sau tiếp tay cho Việt Á chiếm vị thế “độc quyền” để trục lợi, bất chấp tính mạng và tài sản của nhân dân?
    Nhiều người cho rằng Bộ Y tế không thể “vô can” khi bộ này có vai trò chính trong việc ban hành nhiều công văn thúc ép xét nghiệm “thần tốc” và “trên diện rộng”. Chính Bộ Y Tế đã giới thiệu với các tỉnh/thành và các đơn vị y tế liên quan mức giá được thổi lên 470.000 đồng/bộ xét nghiệm, để họ phải mua của Việt Á. Dư luận tại Việt Nam cho rằng Phan Quốc Việt và công ty Việt Á không thể dễ dàng lừa đảo và bán hàng với giá cao nếu không có sự tiếp tay, thậm chí là “bảo kê” của ít nhất là Bộ Y tế và Bộ Khoa học & Công nghệ.
    Thay lời kết
    Trong bối cảnh “khủng hoảng y tế toàn cầu” do đại dịch Corona gây ra, Việt Á là một loại “sân sau” được các nhóm lợi ích thân hữu dựng lên để trục lợi, như “phần nổi của tảng băng chìm”. Cải cách thể chế chậm sẽ tạo điều kiện cho các nhóm lợi ích thao túng chính sách và lũng đoạn thể chế. Chúng tham lam và vô cảm, nâng giá thiết bị và vật tư y tế phục vụ xét nghiệm, làm các doanh nghiệp và người dân khốn cùng phải trả giá cao hơn để bị ngoáy mũi. Vì lợi ích nhóm, chúng bất chấp nỗi thống khổ và sinh mạng của hàng triệu người dân.
    Trong giai đoạn đầu “chống dịch như chống giặc”, Việt Nam đã nổi lên như một ngôi sao thành công về kiểm soát dịch, làm cho người dân tin tưởng, đồng thuận, và thế giới khâm phục. Nhưng sang giai đoạn sau khi đại dịch bùng phát rộng với biến thể mới Delta khó kiểm soát, Việt Nam bất lực và bộc lộ nhiều yếu kém. Từ đứng đầu, nay Việt Nam tụt xuống đứng cuối, trong đó có vai trò không nhỏ của Việt Á. Bộ xét nghiệm để trục lợi đã góp phần làm mất lòng tin của người dân và gây khó khăn cho việc kiểm soát dịch bệnh. Tham nhũng chính sách là một tội ác tồi tệ nhất, và nhóm lợi ích y tế cũng nguy hiểm không kém biến thể Delta.
    Tham khảo
    1. Chủ nghĩa cộng sản thân hữu tại Trung Quốc, Minxin Pei, NYT, October 17, 2014
    2. Lợi ích nhóm và chủ nghĩa tư bản thân hữu - cảnh báo nguy cơ, Vũ Ngọc Hoàng, Dân Trí, 02/06/2015
    3. Chủ nghĩa thân hữu ăn sâu bám rễ và đầu tư nước ngoài chệch hướng, NQD, Viet-studies, 20/6/2020
    4. Scandal Việt Á: Đâu là đầu bạch tuộc? VOA, 20/12/2021
    5. Đã đến lúc dẹp loạn sân sau trong lĩnh vực y tế, VNN, 20/12/2021
    6. Thấy gì qua vụ Việt Á? Dương Quốc Chính, Tiếng Dân, 20/12/2021
    7. Hai bộ đã ở đâu khi WHO từ chối phê duyệt test kit của Việt Á? KTSG, 20/12/2021
    8. Phải công khai chất lượng kit xét nghiệm Covid 19 của Việt Á, NLĐ, 21/12/2021
    9. Có thế lực nào trải đường cho Việt Á hay không? Pháp Luật, 21/12/2021
    10. Bốn câu hỏi cần được giải đáp về vụ Việt Á, Luật Khoa, 22/12/2021
    NQD. 23/12/2021

Chủ Nhật, 28 tháng 11, 2021

Đài Loan là cục xương khó nuốt

 

Bài mới của Nhà nghiên cứu độc lập về Quan hệ Quốc tế NGUYỄN QUANG DY mới gửi cho chủ blog. (Nguyễn Vĩnh Blog)

-----

Đài Loan là cục xương khó nuốt


Tác giả: Nguyễn Quang Dy


Kẻ nhân nhượng cho cá sấu ăn với hy vọng nó sẽ ăn thịt mình cuối cùng(an appeaser is someone who feeds a crocodile hoping it will eat him last – Churchill).  

Gần đây, câu hỏi Trung Quốc có đánh chiếm Đài Loan không và bao giờ, làm giới nghiên cứu đau đầu và dư luận lo ngại, nhưng vẫn chưa có lời giải thỏa đáng, và các giả thuyết vẫn chưa rõ ràng. Trong thế giới “hậu chiến tranh lạnh” (Mỹ-Xô) hay “chiến tranh lạnh kiểu mới” (Mỹ-Trung), yếu tố “bất định” (uncertain) và “khó lường” (unpredictable) ngày càng tăng, làm cho điều chỉnh chiến lược thời Trump và thời Biden vẫn chưa hoàn chỉnh. 

Trung Quốc muốn gì

Cố tổng thống Nixon trước khi mất đã ví Trung Quốc như “Frankenstein”. Trung Quốc đã trỗi dậy mạnh mẽ và quyết đoán không chỉ vì ý chí của chính họ, mà còn được Mỹ và đồng minh khuyến khích và nhân nhượng (appeasement). Qua mấy đời tổng thống Mỹ, họ đã ngộ nhận về Trung Quốc và theo đuổi chủ trương “can dự” (engagement). Trong khi Obama “tránh rủi ro” (risk aversion) thì Biden “mập mờ chiến lược” (strategic ambiguity).   

Hai năm qua, Mỹ đã sa vào khủng hoảng y tế do đại dịch Covid-19 làm tám mươi vạn người chết, và khủng hoảng chính trị mà đỉnh điểm là vụ chiếm nhà Quốc Hội (6/1/2021). Tập Cận Bình đã tranh thủ thời cơ củng cố quyền lực, mà đỉnh điểm là “nghị quyết lịch sử” được Trung Ương 6 thông qua, không chỉ khẳng định quyền lực của Tập như “Hoàng đế Trung Hoa, mà còn tăng cường áp lực ở Biển Đông và eo biển Đài Loan để nắn gân Mỹ.

Tại cuộc họp Trung Ương 6 (khóa 19), với sự hỗ trợ của Chủ tịch Quốc hội Lật Chiến Thư, Tập Cận Bình đã áp đảo được tiếng nói phản kháng và kiểm soát được tình hình. Nhưng theo nhà bình luận chính trị Ngụy Kinh Sinh (24/11/2021), thì đó chỉ là tuyên truyền bên ngoài, còn bên trong tranh luận rất gay gắt. Vụ 500 ý kiến phản đối đã đẩy đấu tranh quyền lực bên trong “cái hộp đen” Trung Quốc lên cao trào mới. Nói cách khác, Tập Cận Bình muốn nâng một tảng đá nhưng tảng đá đó lại đập vào chân ông ta, nên tiến thoái lưỡng nan.

Các chuyên gia cho rằng Tập Cận Bình đã chuẩn bị hậu trường để trở thành “Hoàng đế Trung Hoa” một khóa nữa (vào năm 2022), nên ông có thể muốn chinh phục Đài Loan làm viên ngọc cho “vương miện của mình”. Nếu chiến tranh lạnh kiểu mới kèm theo “chiến tranh nóng” thì Đài Loan là nơi dễ xảy ra nhất. Tuy xung đột là rủi ro, nhưng Tập Cận Bình cho rằng lúc này là cơ hội tốt nhất, hơn là chờ mười năm nữa. (Will Xi move on Taiwan? History warns he might: Niall Ferguson, Mikio Sugeno, Nikkei Asia, September 10, 2021).

Trong một cuốn sách mới xuất bản, David Shambaugh (George Washington University) đánh giá lại năm lãnh đạo đã dẫn dắt Trung Quốc từ 1949 đến nay. Đó là Mao Trạch Đông (1949-1976), Đặng Tiểu Bình (1979-1989), Giang Trạch Dân (1989-2002), Hồ Cẩm Đào (2002-2012), và Tập Cận Bình (2012-đến nay). Tuy chặng đường dẫn Tập Cận Bình đến khóa thứ 3 có vẻ rộng mở, nhưng đằng sau hậu trường, những người chống đối suy nghĩ khác. (China Leaders: from Mao to now, David Shambaugh, Polity Press, October 2021).

Chính sách của Tập Cận Bình đang gây tranh cãi. Khi Đại hội 20 càng gần, thì căng thẳng về chính trị ngày càng cao. Từ đầu năm đến nay, lãnh đạo Đảng đã thanh trừng lực lượng cảnh sát, an ninh, viện kiểm sát, và trấn áp những nhà tư bản lớn (như Jack Ma). Nhiều người coi “nghị quyết lịch sử” mới được thông qua là một bước cốt yếu để đưa Tập Cận Bình vào “ngôi đền của Đảng”. Trong khi người Trung Quốc lo lắng về Tập Cận Bình tập trung quá nhiều quyền lực, thì các lãnh đạo trẻ hơn thất vọng vì thiếu chuyển giao quyền lực.

Mỹ và đồng minh muốn gì

Theo Elbridge Colby (nguyên phó trợ lý bộ trưởng bộ quốc phòng dưới thời Trump), Trung Quốc đã dành 25 năm qua để xây dựng quân đội hiện đại nhằm đánh chiếm Đài Loan, nên họ có thể hành động vào năm 2025. Để tránh xung đột, Mỹ phải hành động nhanh hơn và ưu tiên giúp Đài Loan tăng cường năng lực quốc phòng để răn đe Bắc Kinh. Mỹ cần thay thế chủ trương “mập mờ chiến lược” bằng cam kết mạnh hơn với Đài Loan. (The Fight for Taiwan Could Come Soon, Elbridge Colby, Wall Street Journal, October 27, 2021). 

Đô đốc Philip Davidson (nguyên tư lệnh vùng Indo-Pacific) cho rằng Trung Quốc chưa sẵn sàng chiếm Đài Loan trước năm 2027, và không có bằng chứng nào cho thấy họ định “đánh úp” (sneak attack). Trung Quốc hy vọng gây áp lực ngày càng mạnh về ngoại giao, kinh tế, và quân sự với Đài Loan sẽ giúp Quốc Dân Đảng (thân Bắc Kinh) giành thắng lợi trong bầu cử tổng thống vào năm 2024. Nhưng, nếu phó tổng thống Lại Thanh Đức (thân Mỹ) thắng thì Trung Quốc có thể buộc phải chọn giải pháp quân sự. (Taiwan is safe until at least 2027, but with one big caveat, Derek Grossman, Nikkei Asia, November 10, 2021).

Sau cuộc gặp Mỹ-Trung đầy kịch tính ở Anchorage (19/3), hai bên đều muốn giảm nhiệt bằng một cuộc gặp cấp cao. Tiếp theo điện đàm giữa Biden và Tập (9/9) Jake Sullivan (cố vấn an ninh quốc gia) gặp Dương Khiết Trì (phụ trách đối ngoại) tại Thụy Sỹ (26/10) để thu xếp cuộc gặp cấp cao (15/11). Hội đàm kéo dài ba tiếng rưỡi, tuy trao đổi nhiều chủ đề khác như thương mại và nhân quyền, nhưng Đài Loan vẫn là chủ đề nóng nhất.

Tuy trước mắt (bên ngoài) hai bên có vẻ hạ nhiệt vì Biden và Tập là “bạn cũ”, nhưng về lâu dài (bên trong) mâu thuẫn vẫn còn nguyên. Trong khi Biden nhấn mạnh sự cần thiết phải thiết lập “một số đảm bảo thông thường” để tránh hiểu lầm dẫn đến xung đột ngoài ý muốn, Tập Cận Bình không có một thỏa hiệp đáng kể nào. (Biden and Xi Discuss Taiwan Trade and Human Rights: Live Updates, New York Times, November 16, 2021).

Gần đây, quan điểm về Trung Quốc của Úc đã thay đổi nhiều và phân hóa sâu sắc. Theo Peter Jennings (ASPI Executive Director), “bảo vệ Đài Loan là sống còn đối với an ninh của Úc”, và “còn quá sớm để chịu đầu hàng Trung Quốc”. Nhưng Huge White (Lowy Institute) lại cho rằng phải tránh chiến tranh vì cái giá của chiến tranh cao hơn nhiều so với phải sống dưới trật tự khu vực do Trung Quốc dẫn đầu. Đó là một quan điểm trái chiều. (Too soon to be waving the White flag on China, Peter Jennings, ASPI, November 24, 2021).

Paul Keating (cựu thủ tướng Úc) cũng cho rằng lập trường chính thức của Úc không nên giúp Đài Loan vì đó là “vấn đề nội bộ” của Trung Quốc. Keating không chỉ ngộ nhận về “nhân nhượng”, mà còn bi quan về sự thay thế. Nhân nhượng được đề xuất nhằm tránh xung đột, tuy trong trường hợp Đài Loan không dễ xảy ra. (Paul Keating may be the Grand Appeaser but is he wrong? Simon Cotton, Lowy Interpreter, 24 November 2021).

Đài Loan và Biển Đông

Trong bối cảnh đó, Đài Loan và Việt Nam vẫn lo ngại “lịch sử sẽ lặp lại” nếu Mỹ-Trung thỏa thuận riêng sau lưng họ. Đó có thể là lý do Việt Nam vẫn chưa vội nâng cấp quan hệ với Mỹ lên “đối tác chiến lược”, nhưng là lý do để Nhật và Việt Nam nâng quan hệ đối tác chiến lược sâu rộng lên một “cấp độ mới”.  Tại cuộc gặp cấp cao ở Tokyo (23/11) giữa thủ tướng Nhật Fumio Kishida và thủ tướng Việt Nam Pham Minh Chính, hai bên đã ra tuyên bố chung “cực lực phản đối những ý đồ đơn phương thay đổi nguyên trạng tại khu vực”.    

Theo một báo cáo của CNAS (26/10), Trung Quốc có thể chiếm đảo Ba Bình (Taiping hay Pratas) tại Biển Đông và biến nó thành một tiền đồn. Mỹ không chỉ cần bảo vệ Đài Loan, mà còn phải ngăn xung đột leo thang ra ngoài Biển Đông. Các nhà phân tích cho rằng Mỹ có thể chơi trò “chọi gà” (chicken game) với Trung Quốc tại Ba Bình, nhưng thiếu Nhật hỗ trợ thì Mỹ và Đài Loan yếu thế, làm Lầu Năm Góc khó xử. (In Taiwan war game, few good options for US to deter China, Dan Lamothe, Washington Post, October 26, 2021).

Trong cuốn sách “Hindsight, Insight, Foresight: Thinking about Security in the Indo-Pacific (do Alexander Vuving chủ biên và APCSS xuất bản (9/2020), Vuving lập luận rằng Biển Đông tuy có thể gặp nguy hiểm, nhưng khó rơi vào “bẫy Thucydides” như giáo sư Graham Allison cảnh báo, vì Biển Đông theo luật chơi “chọi gà” (chicken game) chứ không theo luật chơi “thế lưỡng nan của người tù” (prisoner’s dilemma) . Nói cách khác, nếu Đài Loan cũng theo luật chơi “chọi gà” như Biển Đông thì cũng có thể tránh được “bẫy Thucydides”.

Đây không phải là lần đầu tiên Trung Quốc đe dọa Đài Loan. Trong cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần trước (1995-1996) Mỹ đã triển khai hai nhóm tác chiến tàu sân bay tới khu vực, buộc Trung Quốc phải xuống thang. Tổng thống Thái Anh Văn đã tuyên bố, “Đài Loan đứng trên tuyến đầu của cuộc tranh chấp toàn cầu giữa nền dân chủ và nền độc tài. Nếu Đài Loan thất bại, thì đó sẽ là một thảm họa cho hòa bình và dân chủ. (Taiwan and the Fight for Democracy, Tsai Ing-wen, Foreign Affairs, November/December 2021).

Kurt Campbell (Asia-Pacific Coordinator) phát biểu tại Institute of Peace (19/11) đã nhấn mạnh, “Ấn Độ là một đối tác chủ chốt” (a key fulcrum player) trên trường quốc tế và “Việt Nam là một quốc gia thiết yếu” (a critical swing state) tại Indo-Pacific. Ấn Độ và Việt Nam đứng đầu danh sách các nước thiết yếu sẽ định hình tương lai Châu Á”. Lãnh đạo Mỹ và Việt Nam cần làm quen, và chia sẻ tầm nhìn chiến lược thực sự”. (India and Vietnam will define the future of Asia, says Kurt Campbell, Ken Moriyasu, Nikkei, November 20, 2021).

Theo Derek Grossman (RAND’s senior defense analyst), trong khi chính quyền Joe Biden có thể tiếp tục đà tích cực trong quan hệ song phương với Việt Nam, thì vẫn chưa rõ Hà Nội muốn điều gì cụ thể từ Washington để giúp họ đối phó với Bắc Kinh một cách hiệu quả. Trong khi cố gắng cân bằng giữa hai siêu cường, Việt Nam tuy muốn tăng cường quan hệ an ninh quốc phòng nhưng còn ngại “đối tác chiến lược” với Mỹ. (What Does Vietnam Want from the US in the South China Sea? Derek Grossman, Diplomat, January 4, 2021).  

Thay lời kết

Tóm lại, Trung Quốc không bao giờ từ bỏ ý đồ thâu tóm Đài Loan vì “lợi ích cốt lõi”, kể từ khủng hoảng Kim Môn, Mã Tổ (1958) đến khủng hoảng eo biển Đài Loan (1995-1996). Trong khi Trung Quốc trỗi dậy thành một siêu cường, thì Đài Loan cũng đã phát triển thành một cường quốc hiện đại bậc trung. Đài Loan là một cục xương khó nuốt hơn nhiều so với Hong Kong, không chỉ vì nó có tiềm lực kinh tế và quân sự đáng kể, mà còn được Mỹ, Nhật và các nước đồng minh khác bảo vệ, vì những lợi ích sống còn trong khu vực.    

Nếu Mỹ quyết tâm bảo vệ Đài Loan thì phải tăng cường khả năng “răn đe kết hợp” (integrated deterrence), và điều chỉnh chủ trương “mập mờ chiến lược” để giúp Đài Loan đối phó hiệu quả hơn với Trung Quốc. “Mập mờ chiến lược” không đem lại “ổn định chiến lược”, mà chỉ duy trì “khoảng lặng trước một cơn bão”. Washington đã điều chỉnh chiến lược dưới thời Trump, và nay tiếp tục điều chỉnh chiến lược dưới thời Biden. Nhưng quá trình điều chỉnh chiến lược của Washington để đối phó với Bắc Kinh đến nay vẫn chưa hoàn chỉnh. 

Bắc Kinh gia tăng sức ép với Đài Loan chủ yếu để nắn gân Mỹ và củng cố quyền lực của Tập. Nếu muốn đánh úp Đài Loan họ không cần “rung cây dọa khỉ” như “bên miếng hố chiến tranh” (brinkmanship). Biden gặp Tập (15/11) trước khi Mỹ có Chiến lược An ninh Quốc gia (NSS) và Chiến lược Quốc phòng (NDS). Đã mười tháng qua, nhóm đặc nhiệm liên ngành của Ely Ratner vẫn chưa soạn xong chiến lược đối phó với Trung Quốc. Trong ván cờ lớn Mỹ-Trung, hai bên vẫn đang chơi cờ thế (hedging) tại eo biển Đài Loan và Biển Đông.     

Tài liệu tham khảo

1.  What Does Vietnam Want from the US in the South China Sea? Derek Grossman, Diplomat, January 4, 2021 

2. Will Xi move on Taiwan? History warns he might: Niall Ferguson, Mikio Sugeno, Nikkei Asia, September 10, 2021

3. China Leaders: from Mao to now, David Shambaugh, Polity Press, October 2021

4. In Taiwan war game, few good options for US to deter China, Dan Lamothe, Washington Post, October 26, 2021

5. The Fight for Taiwan Could Come Soon, Elbridge Colby, Wall Street Journal, October 27, 2021 

6. Taiwan is safe until at least 2027, but with one big caveat, Derek Grossman, Nikkei Asia, November 10, 2021

7. Biden and Xi Discuss Taiwan Trade and Human Rights: Live Updates, New York Times, November 16, 2021

8. India and Vietnam will define the future of Asia, says Kurt Campbell, Ken Moriyasu, Nikkei Asia, November 20, 2021).

9. Too soon to be waving the White flag on China, Peter Jennings, ASPI, November 24, 2021

10. Paul Keating may be the Grand Appeaser but is he wrong? Simon Cotton, Lowy Interpreter, November 24, 2021

11. Taiwan and the Fight for Democracy, Tsai Ing-wen, Foreign Affairs, November/December 2021

NQD. 27/11/2021

 

Thứ Hai, 7 tháng 6, 2021

Mỹ - Nga - Trung trong định hình trật tự thế giới mới

 Từ lâu nay 3 nước lớn Mỹ, Trung Quốc và Nga luôn tồn tại mối "liên hệ tay ba", nó dựa vào nhau và lợi dụng lẫn nhau nhằm chống hoặc cản trở với nước thứ 3 kia. 

Sau chiến tranh thế giới thứ 2, được coi là thời kỳ chiến tranh lạnh kéo khá dài, mối quan hệ Nga - Trung Mỹ chủ yếu là liên minh Nga - Trung một bên và Mỹ một bên (thế giới 2 cực). Sau chiến tranh lạnh, thế giới bước vào toàn cầu hóa mối quan hệ tay 3 kia vận hành trong một tế giới đa cực, trong đó Mỹ hoăc Trung hoặc Nga đều có những lợi ích riêng, tính toán riêng, không còn liên kết 2 nước (Nga và Trung) chống lại Mỹ như thời kỳ trước.

Vào lúc này (từ 1972, nhất là từ 1977 khi Trung Quốc ngồi vào ghế Ủy viên thường trực Hội đồng Bao )do sự vươn lên mạnh mẽ của Trung Quốc (chính là do Mỹ "tạo điều kiện" cho quá trình này) nên sự đối đầu giữa 2 cường quốc này ngày càng tăng cao và sâu sắc, trong khi đó Nga yếu thế hơn (về kinh tế nhưng lại có quả đấm quan sự rất mạnh) nên lúc này Trung Quốc tìm cách liên kêt theo một cách mới. Hình thành lên liên minh tạm thời Nga - Trung cản mũi Mỹ. Song mặt khác, do thế mạnh dẫn đầu (nhìn chung) của Mỹ trên nhiều lĩnh vực nên Nga và Mỹ cũng biết cách quan hệ với nhau để giành lợi thế trước Trung Quốc. Tóm lại mối quan hệ tay 3 thời toàn cầu hóa này hết sức đa dạng và phức tạp trong một thế giới chuyển biến hết sức mạnh mẽ. 

Dưới đây là bài viết phân ích khá sâu sắc đăng trên tạp chí đối ngoại The Diplomat số đầu tháng 6/2021 vừa qua. Bản tiếng Việt đăng trên trang mạng Nghiên cứu Quốc tế.

-----     

Mỹ - Nga - Trung trong định hình trật tự thế giới mới

Từ khi Chiến tranh Lạnh nổ ra giữa thế kỷ 20, cục diện giữa ba nước lớn là Mỹ, Trung Quốc, Nga (Liên Xô trước đây) luôn đóng vai trò chi phối trật tự quan hệ quốc tế. Từ những năm Xô – Trung hòa thuận, cho tới thời khắc lịch sử Nixon tới Trung Quốc, quan hệ tay ba ấy luôn là hai nước này đi với nhau để chống nước kia.

Quan hệ ngày càng nồng ấm giữa Moscow và Bắc Kinh lúc này, như một cách ứng phó lại chính sách cạnh tranh chiến lược của Washington, cho thấy xu hướng cũ trong cục diện tay ba đang tiếp tục hiện hữu. Tuy nhiên, những đặc điểm mới ngày càng phức tạp đòi hỏi cần có thêm những đánh giá trước khi có thể đưa ra nhận định về quan hệ Mỹ – Trung – Nga.

Quan hệ Mỹ – Trung dường như đã rơi vào vòng xoáy cạnh tranh chiến lược không thể đảo ngược, “Chiến tranh Lạnh 2.0” đã trở thành khái niệm ngày càng phổ biến khi nhắc tới sự đối đầu giữa hai nước.

Tuy nhiên, trong khi một số đặc điểm của cạnh tranh chiến lược hiện đại khá tương đồng với Chiến tranh Lạnh của thế kỷ 20, kỷ nguyên toàn cầu hóa của thế kỷ 21 đồng nghĩa đối đầu Washington – Bắc Kinh không diễn ra trong trật tự hai cực, mà là trật tự thế giới đa cực. Trong bối cảnh ấy, lợi ích đan xen phức tạp giữa các nước sẽ ảnh hưởng tới gần như mọi khía cạnh của cuộc đối đầu.

Trong trật tự đa cực hiện nay, dù có sự nổi lên của Liên minh châu Âu, Ấn Độ, Nhật Bản hay một số nước khác, quyền lực chủ yếu vẫn tập trung vào bộ ba cũ, trong đó Mỹ và Trung Quốc ở hai cực. Cực còn lại thuộc về Nga.

Dù mô hình nhân khẩu học và sức mạnh kinh tế cho thấy Moscow không còn đủ sức duy trì vị thế siêu cường toàn cầu, kho vũ khí hạt nhân và sức mạnh quân sự của Nga, cùng chính sách ngoại giao quyết liệt và hiện diện ở nhiều điểm nóng toàn cầu vẫn giúp Điện Kremlin ngồi chung mâm với hai cực còn lại của bộ ba.

Liên kết Nga – Trung

Những năm gần đây, khi Mỹ gia tăng áp lực lên các đối thủ chiến lược, Nga và Trung Quốc cũng mở rộng hợp tác song phương giữa hai nước tại các cơ chế đa phương.

Bằng cách phối hợp chặt chẽ, Bắc Kinh và Moscow cùng nhau đối trọng lại ảnh hưởng của Washington tại các diễn đàn đa phương, cản trở một trật tự quốc tế do Mỹ dẫn dắt.

Tuần trước, trong cuộc điện đàm với Chủ nhiệm Văn phòng Ủy  ban Công tác Ủy ban Công tác đối ngoại Trung ương ĐCS Trung Quốc - ông Dương Khiết Trì, Tổng thống Nga Vladimir Putin đã thốt lên rằng quan hệ song phương hai nước đang ở giai đoạn “tốt đẹp nhất trong lịch sử”.

Xu hướng này dĩ nhiên không bị các học giả cũng như giới hoạch định chính sách bỏ qua, đặc biệt ở Washington. Giới chức Mỹ, bất kể dưới thời Trump trước đây hay thời Biden hiện nay, thường xuyên báo động về mối liên kết ngày càng mật thiết giữa Nga và Trung Quốc.

Mới nhất, trong bản báo cáo có tên “Các xu hướng toàn cầu 2040”, cộng đồng tình báo Mỹ đánh giá Moscow và Bắc Kinh “nhiều khả năng tiếp tục liên kết” trong tương lai. Câu hỏi là liên kết này sẽ được duy trì theo cách nào?

Một mặt, liên kết Nga – Trung không nên bị coi chỉ có tính tạm thời, bất kể hai nước tồn tại những vấn đề chưa thể giải quyết. Quan hệ đối tác chiến lược toàn diện giữa Nga và Trung Quốc dựa trên khuôn khổ hợp tác lâu đời, với một mục tiêu chiến lược rõ ràng đã tồn tại thông qua hai văn kiện có từ 1997 và 2001.

Chừng nào hai nước vẫn tiếp tục mâu thuẫn với Mỹ và phương Tây, họ sẽ vẫn có động lực vượt qua những tồn tại trong quá khứ, phối hợp thúc đẩy một trật tự quốc tế có lợi hơn.

Mặt khác, quan hệ đối tác này vẫn tồn tại những giới hạn. Dù chung mục tiêu chống lại Mỹ và trật tự quốc tế do phương Tây dẫn dắt, Nga và Trung Quốc không chia sẻ những lợi ích tương đồng để duy trì hợp tác tự nhiên, bền vững.

Đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế, sự khác biệt ngày càng thể hiện rõ giữa một bên là nền kinh tế đơn sơ, phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên của Nga, với bên kia là nền kinh tế đa dạng, hiện đại của Trung Quốc.

Một trong những lợi ích kinh tế song trùng lớn giữa hai nước là năng lượng. Nga cần một thị trường xuất khẩu ổn định để bù đắp thiệt hại vì bị phương Tây cấm vận. Trong khi đó, Bắc Kinh cần đa dạng hóa nguồn cung năng lượng, tránh rủi ro trong cuộc chiến tranh thương mại với Mỹ.

Công bằng mà nói, dù Nga và Trung Quốc đang duy trì quan hệ bền vững và sâu rộng, độ bền liên kết giữa hai nước vẫn phụ thuộc vào chính sách của Mỹ.

Tờ báo nhà nước Trung Quốc Global Times mới đây thậm chí đánh giá quan hệ gần gũi giữa Nga và Trung Quốc là hệ quả từ hành vi chèn ép từ “Mỹ và các nước đồng minh chủ chốt”.

Vậy điều gì sẽ xảy ra khi “hành vi chèn ép” nói trên biến mất?

Không còn cục diện “hai chọi một”

Điều đáng lưu ý là, dù Nga và Trung Quốc đều có mâu thuẫn với Mỹ, không nước nào sẵn sàng đánh liều với nguy cơ đổ vỡ hoàn toàn quan hệ với nền kinh tế lớn nhất thế giới. Vào những thời điểm quan trọng, hợp tác với Mỹ luôn được ưu tiên.

Bằng chứng là những sự kiện như Mỹ mở đường cho Trung Quốc gia nhập WTO năm 2001, hay khi chính quyền Barack Obama – Dmitry Medvedev thúc đẩy tái khởi động quan hệ giai đoạn 2009-2011, những lúc ấy, quan hệ song phương Moscow – Bắc Kinh dường như trở thành thứ yếu.

Cho đến tận ngày nay, tâm lý bài Hoa, bài Nga, cùng nhận thức về mối đe dọa từ hai nước này nhắm vào vị thế siêu cường của Mỹ, đã dẫn đến chính sách cạnh tranh chiến lược của Washington với cả Moscow và Bắc Kinh.

Nhưng cạnh tranh chiến lược trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay có những khác biệt cơ bản với cuộc đối đầu mang tính một mất một còn trong Chiến tranh Lạnh, nơi các liên kết gần như đồng nghĩa với quan hệ liên minh.

Chính yếu tố này, cùng thực tế Mỹ không đủ nguồn lực cần thiết để xung đột toàn diện với đồng thời cả Nga và Trung Quốc, là lý do Washington không loại bỏ hoàn toàn hợp tác với hai đối thủ.

Tuy nhiên, bởi Trung Quốc ngày càng vươn lên trở thành đối thủ về hệ thống chính trị – xã hội với Mỹ, chính quyền Tổng thống Joe Biden hiện ưu tiên hợp tác với Moscow trong lĩnh vực mà hai bên có lợi ích chung.

Những chính sách cứng rắn với Nga vẫn còn đó, nhưng phần lớn chỉ còn mang tính biểu tượng, chủ yếu để thỏa mãn những lực lượng chống Moscow trong nội bộ Mỹ.

Hai bên đã đạt được những kết quả thực sự trong hợp tác song phương, như việc gia hạn hiệp định kiểm soát vũ khí New START, hay cuộc điện đàm sớm được tổ chức giữa lãnh đạo hai nước sau khi ông Biden nhậm chức, cũng như việc Mỹ không trừng phạt đường ống dẫn khí đốt Nord Stream 2 từ Nga sang châu Âu.

Tất cả những thành tựu ấy cho thấy một mục tiêu bao quát Washington theo đuổi, như Ngoại trưởng Antony Blinken miêu tả, là “mối quan hệ ổn định và dễ đoán hơn” với Nga.

Lúc này, động lực trong quan hệ tay ba đang diễn ra theo chiều hướng rất đáng chú ý. Trong khi cạnh tranh Mỹ – Trung là cục diện dường như không thể thay đổi, cả hai đều tìm cách lôi kéo Nga.

Mỹ tiếp tục tập hợp các đồng minh và đối tác quanh một trật tự thế giới dựa trên luật lệ, với Trung Quốc và Nga đóng vai “phản diện”. Trong cục diện ấy, Bắc Kinh có nhiều lợi thế hơn để lôi kéo Moscow.

Dù vậy, Mỹ vẫn nắm trong tay những con bài có thể sử dụng trong quan hệ với Nga, mà đáng chú ý nhất là ảnh hưởng của Washington ở châu Âu – vũ đài có lẽ là quan trọng nhất trong chính sách đối ngoại của Điện Kremlin.

Nói cách khác, động lực quan hệ giữa ba nước lúc này không phải là “hai chọi một”, thế trận dường như thiên về hướng “một chọi một” giữa Mỹ và Trung Quốc, cộng với sự hiện diện của Nga song hành cùng đối đầu ấy.

Không giống như những liên minh bền chặt của Chiến tranh Lạnh, những liên kết trong thời hiện đại cho phép các quốc gia linh hoạt hơn.

Vì thế Nga lúc này có quyền lựa chọn vị trí phù hợp, đồng thời làm việc với cả Mỹ và Trung Quốc, thay vì bị bó buộc đứng hẳn về một phe như Trung Quốc trong Chiến tranh Lạnh.

Hai hằng số, một biến số

Trong xu thế toàn cầu hóa ổn định, cùng chênh lệch sức mạnh ngày càng gia tăng giữa Mỹ – Trung so với Nga, hình hài hiện tại của quan hệ ba bên sẽ tiếp tục tồn tại trong những năm tới.

Mỹ và Trung Quốc, những siêu cường về sức mạnh tổng hợp mắc kẹt trong cuộc cạnh tranh chiến lược dài hạn, sẽ là “hằng số” của trật tự thế giới hiện đại. Trong khi đó, Nga chính là một “biến số”.

Moscow sẽ không tìm cách đối đầu với Washington hay Bắc Kinh. Thay vào đó, Nga sẽ tận dụng tối đa những đòn bẩy mà nước này có, khai thác cuộc đối đầu giữa hai siêu cường để thu được lợi ích cho mình.

Về phần mình, trong khi tập trung các nguồn lực cho cạnh tranh với Trung Quốc, Mỹ sẽ tìm cách ổn định quan hệ với Nga, giữ cho liên kết Moscow – Bắc Kinh ở mức có thể kiểm soát, đảm bảo Điện Kremlin không làm đảo lộn cân bằng quyền lực giữa bộ ba, cũng như tránh thay đổi trật tự thế giới.

Hội nghị thượng đỉnh giữa Tổng thống Biden và người đồng cấp Putin tới đây sẽ là cơ hội để Washington đặt ra những điều kiện rõ ràng cho quan hệ hợp tác với Nga, vừa không khiến các đồng minh châu Âu bối rối, vừa giữ nguyên các thông điệp tổng thể từ trước đến nay của Washington trong quan hệ với Moscow.

Tương tự, Trung Quốc sẽ tiếp tục tập trung vào cạnh tranh với Mỹ, đồng thời làm sâu sắc thêm quan hệ với Nga.

Bắc Kinh có thể thúc đẩy quan hệ gần gũi giữa hai nhà lãnh đạo, biến chúng thành những liên kết lợi ích mới, cũng như những nỗ lực chung chống lại Mỹ tại các diễn đàn đa phương. Thậm chí, Trung Quốc có thể đưa ra những sáng kiến kinh tế hấp dẫn để dần lôi kéo Nga vào quỹ đạo của mình.

Mặt khác, Bắc Kinh sẽ không tìm cách đối đầu trực diện với Washington, thay vào đó là theo đuổi hợp tác trong các vấn đề toàn cầu như biến đổi khí hậu, Covid-19, hay chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt.

Với Nga, điều then chốt là tiếp tục duy trì vị trí của nước này trong thế cục giữa bộ ba, bất chấp ngày càng bị bỏ xa về kinh tế. Điều này đồng nghĩa Moscow phải tận dụng vị thế “biến số” của mình trong tương tác với hai cực còn lại, khiến Bắc Kinh và Washington phải nhượng bộ.

Nhưng, lòng tự hào dân tộc vốn có, cùng sự thiếu vắng lòng tin chiến lược với Trung Quốc và Mỹ, sẽ hạn chế phạm vi hợp tác đặc biệt trong các không gian mà Nga coi là vùng ảnh hưởng truyền thống của nước này như Đông Âu hay Trung Á.

Tác động khu vực và toàn cầu

Về tổng thế, động lực trong cạnh tranh giữa ba cường quốc mang tới cả cơ hội và thách thức cho các quốc gia nhỏ và tầm trung.

Nếu quan hệ bộ ba được kiểm soát phù hợp, phát triển theo hướng dễ đoán định và hạn chế đối đầu, ba cường quốc sẽ tạo ra một môi trường thuận lợi để các nước bên ngoài đồng thời hợp tác với mỗi cực của bộ ba mà không phải luôn lo lắng quan sát thái độ của hai cực còn lại.

Mặt khác, nếu căng thẳng leo thang, đối đầu tiếp diễn, phá vỡ sự cân bằng của quan hệ bộ ba và đẩy cạnh tranh chiến lược thành cuộc chiến ý thức hệ, các quốc gia bên ngoài cuối cùng sẽ buộc phải chọn phe. Toàn cầu hóa nhiều khả năng sẽ không để kết quả này xảy ra, nhưng nguy cơ thì luôn hiện hữu và không thể bị xem nhẹ.

Trong khi châu Âu và Trung Đông sẽ tiếp tục đóng vai trò quan trọng nổi bật với cả Trung Quốc, Mỹ và Nga, thì Ấn Độ – Thái Bình Dương đang nổi lên là vũ đài cho cạnh tranh giữa các cường quốc, đặc biệt khi xu thế xoay trục kinh tế và quân sự từ phương Tây sang phương Đông ngày càng rõ nét.

Đa phần các quốc gia trong khu vực đã từng là một phần trong các cuộc xung đột vũ trang giữa các cường quốc, một số nước thậm chí phải chống lại các cường quốc.

Dù mỗi nước có lợi ích riêng biệt, tất cả đều coi duy trì hòa bình là ưu tiên an ninh quốc gia. Vì thế, trong khi các nước hoan nghênh cạnh tranh nước lớn giúp Ấn Độ – Thái Bình Dương phát triển thịnh vượng hơn, không quốc gia nào muốn đánh đổi lại bằng an ninh và ổn định khu vực.

Bởi vậy, các quốc gia đều mong đợi quan hệ bộ ba phù hợp với lợi ích của khu vực. Điều này đồng nghĩa với tôn trọng các cơ chế khu vực như ASEAN, coi các quốc gia trong khu vực là những đối tác thực sự có chung lợi ích, thay vì con tốt địa chính trị, cũng như kiến tạo hơn nữa cho hòa bình, an ninh và thịnh vượng của khu vực.

Nếu bộ ba có thể kiềm chế cạnh tranh, đối đầu nhau trong khi chấp nhận lợi ích hợp pháp của các nước khác, tranh giành ảnh hưởng nhưng tạo điều kiện cho hợp tác vì lợi ích chung, khi đó cạnh tranh giữa các cường quốc sẽ là điều được khu vực đón nhận.

Nguồn: The Diplomat, 04/06/2021 (bài The Modern China-Russia-US Triangle)

Thứ Tư, 2 tháng 6, 2021

"HIỆN TƯỢNG TRUYỀN THÔNG" & GỢI Ý 1 CÁCH TIẾP CẬN MỚI...

 "HIỆN TƯỢNG TRUYỀN THÔNG" & GỢI Ý 1 CÁCH TIẾP CẬN MỚI...

Ai cũng biết trận chiến chống covid đang mạnh mẽ triển khai khắp toàn xã hội thì hiện tượng chờ tin, "hóng" tin từ một người đàn bà doanh nhân tỉnh Bình Dương cũng đang là một cơn sốt ngày càng tăng nhiệt.
Trên đây và dưới đây tôi sẽ không cần nói ra tên tuổi cụ thể của bà doanh nhân cũng như những người khác mà bà "bóc phốt" nhưng vẫn tin chắc thế giới mạng chúng ta đều biết rõ bà là ai, và những người mà bà nói đến là những ai rồi. Không nói ra tên tuổi cụ thể cũng là muốn câu chuyện bà doanh nhân phanh phui cái sai cái xấu, cái biến chất của con người và xã hội ở đây nên được hiểu khái quát, mang tính xu hướng chung, đáng được cộng đồng ủng hộ, hỗ trợ.
Quay lại sự việc. Thực ra sự việc lùm xùm này đã khởi nguồn từ vài ba tháng trước - với việc bà doanh nhân vạch trần sự bịp bợm trong chữa bệnh của một "thần y", đồng thời tố cáo vị lang vườn này lừa lọc gia đình bà doanh nhân này cả trăm tỉ đồng (200 tỉ như lời tố giác) mà bà muốn đòi lại sự đúng đắn và công bằng.
Nhưng phải sang đầu tháng 5 cho tới nay sự việc bà doanh nhân mỗi lần "lên sóng" là gây lên một hiệu ứng truyền thông ngày một mạnh dần lên Khán thính giả chờ đợi và rồi xem-nghe bà doanh nhân nói (bà đều thông báo trước). Rồi hàng chục hàng trăm facebooker, youtuber khắp nơi hưởng ứng, ăn theo nên độ phủ sóng, sức lan tỏa càng rộng rãi hơn lên rất nhiều.
Cần nhắc ở đây là khi sự việc mới đầu xảy ra, báo đài chính thống không nói gì tới việc này cả, coi như một "tranh chấp dân sự" giữa 2 cá nhân với nhau. Thế nhưng gần đây do dự luận dậy sóng, hơn nữa vấn đề trở nên "có tính xã hội", thậm chí động chạm đến các quy định, đến vi phạm pháp luật... thì chính báo chí có giấy phép của nhà nước đã đưa lên khá nhiều tin tức xung quanh vụ việc này.
Sự vụ như càng nóng và hấp dãn hơn lên khi bà doanh nhân đề cập, xới xáo tới những góc khuất, có chuyện động trời xung quanh giới showbiz Việt mà trong đó có nhiều ngôi sao sân khấu, ca sĩ, MC đình đám.
Càng "tưng bừng" hơn nữa khi bà doanh nhân vừa đây nêu lên chuyện tiền bạc huy động của các mạnh thường quân cả chục tỉ đồng để "cứu trợ bão lụt miền Trung" mà 6 tháng đã qua đi vẫn chưa giải ngân - một đề tài mà lâu nay vấn đề cứu trợ, vấn đề lá lành đùm lá rách, vấn đề đạo lý xung quanh chuyện những người nghèo, hộ nghèo bị thiệt hại vì thiên tai mà trong xã hội chúng ta luôn được sự lưu tâm bởi tính hết sức nhạy cảm của nó.
Vì những lẽ đó mà buổi livestream tối 25/5 của "hãng thông tấn" Đại Nam kia được biết có tới 500.000 người xem trực tiếp, có lẽ là một kỷ lục trên mạng xã hội youtube và facebook.
Nên nhớ đây chỉ là "đếm" trên số lượng của các tài khoản mạng xã hội chứ nhiều nơi người ta đâu chỉ "ngồi một mình" xem trên chiếc điện thoại cá lẻ mà đã mở nó trên Ipad với màn hình to, rồi laptop, rồi ti-vi... để cả nhà, cả nhóm cùng nhau xem (như tấm ảnh post kèm dưới đây).
Vì thế tôi cho rằng số liệu người theo dõi trực tiếp buổi livestream kia có thể còn cao hơn con số "nửa triệu" đã nêu.
VẬY LIỆU CÓ THỂ GỌI ĐÂY LÀ MỘT "HIỆN TƯỢNG TRUYỀN THÔNG" Ở TA ĐƯỢC HAY CHƯA?
Ngoài vài dòng tạm nhận định và đánh giá đó, với tư cách là một người từng nhiều năm làm báo, tôi chợt nghĩ về một "gợi ý khác".
Giá như năng lực thu hút quần chúng tới cả nghìn, cả vạn người như thế, lại với tài năng "bóc phốt", "bóc mẽ" đậm chất cá tính quyết liệt của bà doanh nhân kia nếu sau đây không chỉ giới hạn ở giới showbiz và mấy cá nhân bịp bợm hại người kia nữa mà nhà nước ta có cách nào đó gợi ý và "tạo điều kiện" cho bà doanh nhân chuyển qua các đề tài xã hội đáng quan tâm khác thì có tốt hơn không, có nên làm theo hướng mới này không?
Chẳng hạn như để bà doanh nhân tiếp tục đăng đàn như ít lây nay nhưng là hướng sang vạch mặt những thói tham ô, lãng phí, tham nhũng ngoài xã hội. Và rồi đến lượt cộng đồng, xã hội sẽ cùng người nói, người nêu lên đồng lòng "tấn công" vào những tiêu cực và tham nhũng thì chắc chắn sẽ rất hữu ích cho xã hội chúng ta (dĩ nhiên công việc vừa nói tới cần được bà doanh nhân này thuận lòng nhận làm).
Ý kiến các bạn ra sao?

Vinh Nguyen Van
(https://www.facebook.com/vinh.nguyenvan.165)

Thứ Tư, 12 tháng 5, 2021

Bỏ bảo hộ quyền sáng chế vaccine...?

Bỏ bảo hộ quyền sáng chế vaccine...?

 


NẾU SỰ BẢO HỘ SÁNG CHẾ VACCINE KHÔNG ÁP DỤNG NỮA?..., thì đó sẽ là niềm hy vọng cho nhiều quốc gia đang phòng chống dịch covid-19...

Bài viết dưới đây đăng trên trang điện tử Soha ngày hôm nay, 11/5/2021, đã nêu một vấn đề khá thú vị về quan hệ giữa sự từ bỏ "độc quyền" của Mỹ trong sáng chế, sản xuất vaccine, một điều có thể thắp lên tia hy vọng cho rất nhiều quốc gia. Họ đang chịu đựng bùng phát dịch mà không có, hoặc chưa có, có nghĩa là chưa có sức (tiền bạc, kỹ thuật) để tiếp cận được với nguồn vaccine ngừa covid-19. Đây sẽ là cơ hội cho họ có thể được tiêm vaccine...
Vinh Nguyen Van g-th
------
Bỏ bảo hộ quyền sáng chế vaccine, Mỹ sẽ giúp thế giới thoát khỏi đại dịch Covid-19?
Việc chính quyền Tổng thống Mỹ Joe Biden ủng hộ từ bỏ bảo hộ quyền sáng chế đối với vaccine ngừa Covid-19 đã thắp lên hy vọng giúp các nước nghèo có thêm vaccine và đẩy nhanh quá trình chấm dứt đại dịch toàn cầu.
Ý kiến trái chiều về bảo hộ quyền sáng chế vaccine Covid-19


Khi chính quyền ông Biden vào tuần trước thông báo sẽ ủng hộ từ bỏ bảo hộ quyền sáng chế vaccine Covid-19 nhằm chống lại sự lây lan của dịch bệnh trên toàn cầu, Tổ chức chăm sóc sức khỏe toàn cầu (Global Health Advocates) ca ngợi động thái này có thể cứu sống nhiều người.
Tuy nhiên, cho đến nay, thông báo của Tổng thống Biden vẫn mới chỉ là một tuyên bố.
Các nhà lãnh đạo của một số quốc gia giàu có ở châu Âu đã phản đối việc nới lỏng bảo hộ quyền sáng chế vaccine Covid-19. Các chuyên gia y tế toàn cầu nói rằng, ngay cả khi từ bỏ bảo hộ quyền sáng chế vaccine, vẫn cần một lượng lớn viện trợ quốc tế để phân phối vaccine một cách hiệu quả.
Trước những cam kết mà ông Biden đưa ra với vai trò là một nhà lãnh đạo, chính quyền Mỹ hiện nay đang đối mặt với một thực tế u ám: Đó là không ai an toàn cho tới khi virus được kiểm soát ở mọi nơi. Vì thế, khi việc tiếp cận vaccine chủ yếu tập trung ở những nước giàu nhất, một giải pháp toàn cầu cho việc này vẫn còn xa vời.
“Chúng ta cần có một giải pháp toàn diện để đưa vaccine đến với một bộ phận dân số lớn trên toàn cầu”, Saad Omer, Giám đốc Viện Y tế Toàn cầu Yale cho biết.
Các nhà dịch tễ học đồng ý rằng, cho đến khi dịch Covid-19 được kiểm soát trên thế giới, các biến thể nguy hiểm sẽ tiếp tục phát triển ở nhiều khu vực. Điều này sẽ đe dọa người dân ở tất cả các quốc gia, kể cả những quốc gia mà người dân đã được tiêm chủng rộng rãi.
“Có một lý do nhân đạo để giúp đỡ thế giới, nhưng cũng có một lý do vị kỷ, vì chúng ta, đặc biệt là khi chúng ta biết có những biến thể sẽ xuất hiện. Đây là một loại virus không phân biệt biên giới”, Leana Wen, bác sĩ cấp cứu và giáo sư sức khỏe cộng đồng tại Đại học George Washington nói.
Katherine Tai, đại diện thương mại Mỹ, thông báo hôm 5/5 rằng, ông Biden sẽ ủng hộ việc từ bỏ bảo hộ quyền sáng chế các vaccine ngừa Covid-19.
“Đây là một cuộc khủng hoảng y tế toàn cầu, điều kiện vô cùng bất thường của đại dịch Covid-19 cần phải có những biện pháp đặc biệt. Chính quyền tin tưởng mạnh mẽ vào các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ nhưng để chấm dứt đại dịch này, chúng tôi ủng hộ việc từ bỏ các biện pháp bảo hộ đó đối với vaccine Covid-19”, bà Katherine Tai cho biết trong một tuyên bố ngày 5/5.
Một số nhà lãnh đạo châu Âu như Tổng thống Pháp Emmanuel Macron và Thủ tướng Đức Angela Merkel đã phản đối động thái này, nói rằng các công ty dược phẩm của Mỹ phải xuất khẩu vaccine ra các nước trên thế giới với số lượng lớn, nhưng không nên từ bỏ bảo hộ quyền sáng chế vaccine. Đây là sự đồng thuận trước lập luận của các nhà sản xuất vaccine cho rằng, việc từ bỏ bản quyền vaccine sẽ đe dọa lợi nhuận của họ và giảm khuyến khích nghiên cứu trong tương lai.
Irwin Redlener, Giám đốc Sáng kiến ​​Nguồn lực và Ứng phó Đại dịch tại Viện Trái đất Đại học Columbia nói rằng, lập luận trên không có cơ sở, vì năm 2020 Mỹ đã đầu tư rất nhiều tiền vào việc nghiên cứu và phát triển vaccine Covid-19. Ông cũng chỉ ra thực tế vaccine đã mang lại hàng trăm triệu USD lợi nhuận cho các công ty Mỹ.
“Những nhà sản xuất này đã thành công và phần lớn chi phí phát triển do chính phủ Mỹ chi trả”, Tiến sĩ Irwin Redlener nói.
Bỏ bảo hộ quyền sáng chế vaccine có thực sự giúp chấm dứt đại dịch?
Tổng thống Biden luôn quy định rằng, ông sẽ đặt việc phân phối vaccine trong nước lên hàng đầu, chỉ giúp đỡ các quốc gia khác khi tất cả người Mỹ có cơ hội được tiêm chủng. Nhưng hiện tại, khi nhu cầu tiêm vaccine ở Mỹ giảm mạnh và một số bang thậm chí từ chối đề nghị của Nhà Trắng về việc cung cấp nhiều vaccine hơn.
Mỹ và một số quốc gia giàu có khác đã cung cấp hàng triệu liều vaccine cho các quốc gia có nhu cầu. Tuy nhiên, chỉ khoảng 1% lượng vaccine trên toàn thế giới đã đến tay người dân ở các nước nghèo và hầu hết dân số thế giới vẫn chưa được tiếp cận với vaccine Covid-19.



Ngày 5/5, một số người tụ tập ở Washington DC kêu gọi chính phủ Mỹ từ bỏ bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với vaccine Covid-19. Ảnh: AFP

Ông Biden đã cam kết đầu tư 4 tỷ USD vào chương trình COVAX, một chiến dịch tiêm chủng toàn cầu do Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) sáng lập. Đồng thời, Mỹ hỗ trợ sản xuất vaccine ở Ấn Độ, nơi đang đối mặt với cuộc khủng hoảng Covid-19 nghiêm trọng.
Ngày 5/5, một số người tụ tập ở Washington DC kêu gọi chính phủ Mỹ từ bỏ bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với vaccine Covid-19. Ảnh: AFP
WHO tuần trước đã phê duyệt vaccine Sinopharm do Trung Quốc sản xuất để sử dụng trong chương trình COVAX. Tuy nhiên, động thái này sẽ không mang lại nhiều hiệu quả vì Trung Quốc, với khoảng 1,4 tỷ dân, vẫn chưa thể đáp ứng nhu cầu vaccine trong nước của họ so với Mỹ.
“Tăng cường sản xuất vaccine không chỉ bằng việc từ bỏ bảo hộ quyền sáng chế vaccine. Sẽ cần một nỗ lực phối hợp để chuyển giao công nghệ cho những nước còn lại trên thế giới”, Richard Besser, người từng là quyền giám đốc của Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh dưới thời Tổng thống Barack Obama nói.
Tiến sĩ Besser cũng tán thành việc gửi vaccine sản xuất tại Mỹ ra nước ngoài với số lượng lớn. “Chúng tôi nhận thấy lượng vaccine các bang sử dụng đang giảm, điều đó khiến tôi nghĩ rằng có thể cung cấp vaccine Pfizer, Moderna hoặc Johnson & Johnson cho những nơi khác”, ông Besser nói.
Việc sản xuất đủ vaccine chỉ là một phần của những điều cần thiết để ngăn chặn dịch Covid-19. CARE, một tổ chức phi lợi nhuận quốc tế, ước tính rằng chi phí trung bình để phân phối hiệu quả vaccine cao gấp 5 lần so với việc sản xuất vaccine. Ngay cả ở những quốc gia đã nhận được số lượng vaccine lớn, nhiều liều vaccine vẫn chưa được sử dụng vì thiếu cơ sở hạ tầng phân phối và thiếu các chuyên gia y tế để tiêm chủng cho người dân.
Tại Ấn Độ, quốc gia đông dân thứ hai trên thế giới, các vấn đề sản xuất đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc tiếp cận vaccine. Cho đến nay, chưa đến 3% dân số Ấn Độ được tiêm chủng đầy đủ.
"Dụ dỗ" dân đi tiêm vaccine COVID-19 kiểu Mỹ: Tặng bia, tặng tiền, đưa bạn đến tiêm cũng có thưởng!
Tiến sĩ Leana Wen nói rằng, việc nới lỏng các hạn chế về bản quyền vaccine sẽ không giải quyết được vấn đề cốt lõi của nguyên liệu thô, cụ thể là nhu cầu sản xuất nhiều tác nhân hóa học được sử dụng để sản xuất vaccine. “Dựa trên hiểu biết của tôi, hạn chế chính là nguyên liệu thô và khả năng sản xuất, vì vậy tôi không hiểu việc nới lỏng các hạn chế về bản quyền vaccine sẽ khắc phục những vấn đề này như thế nào. Những điểm bế tắc chính chúng ta đang thấy hiện tại không phải là về bảo hộ quyền sáng chế đối với vaccine Covid-19”, bà Wen nói.
Nhiều chuyên gia lập luận rằng, khoản đầu tư 4 tỷ USD của chính quyền ông Biden vào chương trình COVAX, bao gồm 2 tỷ USD cam kết chi trong năm nay và 2 tỷ USD cam kết chi cho năm 2022, cũng đóng vai trò quan trọng như việc ủng hộ từ bỏ bảo hộ quyền sáng chế vaccine.
Tiến sĩ Saad Omer nói rằng, chính quyền ông Biden nên sử dụng cam kết của mình để gây áp lực buộc các nước giàu khác tham gia ở mức tương xứng, với mục tiêu đầu tư khoảng 20 tỷ USD vào nỗ lực phân phối vaccine trên toàn cầu.
“Đối với một chương trình tiếp cận vaccine toàn cầu nhắm mục tiêu vào 50-70% người dân trên thế giới, sẽ cần khoảng 20 tỷ USD”, ông Omer nói.
Theo Tiến sĩ Omer, cộng đồng y tế toàn cầu đang chạy đua với thời gian. “Thời điểm để tham gia cuộc chiến với dịch bệnh một cách nghiêm túc ở cường độ cao là vào tháng 6/2020. Chúng ta đã chậm trễ. Chúng ta cần phải có chiến lược”, ông Omer nói.
(MAI TRANG, Biên dịch từ báo nước ngoài).
----

Việt Á chỉ là phần nổi của tảng băng chìm

BÀI VIẾT MỚI CỦA NHÀ NGHIÊN CỨU QUAN HỆ QUỐC TẾ NGUYỄN QUANG DY: Việt Á chỉ là phần nổi của tảng băng chìm Tác giả: Nguyễn Quang Dy Câu chuy...