Thứ Hai, 24 tháng 6, 2019

CÁCH MẠNG LẦN THỨ BA VÀ TƯƠNG LAI TRUNG QUỐC

CÁCH MẠNG LẦN THỨ BA VÀ TƯƠNG LAI TRUNG QUỐC

Qua ngày 21/6 thì email của tôi nhận được bài (đầu đề như đã post) của cây viết chuyên phân tích quan hệ quốc tế NGUYỄN QUANG DY (8g15 sáng nay, 22/6, thì thư đến). Như vậy là đã vượt qua ngày Báo chí Việt Nam rồi nhưng Nguyễn Quang Dy lại nhắn tôi mấy chữ kèm bài: “Gửi ông bài viết nhân ngày báo chí cách mạng”.

Đọc hết bài tôi không hề thấy gì là viết nhân “ngày báo chí cách mạng” như tác giả nhắn gửi cả. Tuy nhiên ngẫm nghĩ kỹ thì cái ý gắn với “ngày báo chí” là có lý. Bởi vì nghĩ cho cùng, báo chí hiện nay của chúng ta luôn luôn cần những bài viết phân tích và dự báo về những vấn đề thiết thân đến đời sống vật chất và tinh thần, đến sinh mệnh và đòi hỏi của đất nước; chung qui lại là những chuyện đang xảy ra, thời sự, “thời cuộc” mới đầu tưởng như xa vời nhưng lại thiết thân, gắn liền với đời sống, đến tương lai của mọi người dân Việt như tác giả Nguyễn Quang Dy nêu lên và đặt ra.
Chứ báo chí đừng dành giấy bút sóng tiếng - sóng hình để trình diễn, để bàn ra tán vào về những chuyện chẳng mấy thiết thực, hoặc là tào lao nhạt hoét… cuối cùng chỉ để nhằm câu view câu khách, và tệ hơn là kiếm xu kiếm xèng của các doanh nghiệp, của ngôi sao, người giàu có... thì rất không nên.

Mời các bạn cùng đọc và chia sẻ với bài viết mới của Nguyễn Quang Dy.

Vinh Nguyen Van giới thiệu

-----

CÁCH MẠNG LẦN THỨ BA VÀ TƯƠNG LAI TRUNG QUỐC

Nguyễn Quang Dy
Chuyên gia nghiên cứu quốc tế

Cách mạng thường có nghĩa là thay đổi để tiến lên. Nhưng trong lịch sử hãn hữu có trường hợp cách mạng giật lùi (regression) như cách mạng Hồi giáo cực đoan tại Iran (1978-1979) do giáo chủ Avatollah Khomeini cầm đầu. Không hiểu tại sao người ta lại gọi đó là “cuộc cách mạng vĩ đại thứ ba trong lịch sử” (sau Cách mạng Pháp và Cách mạng Nga).

Gần đây, “Cách mạng Lần thứ ba” tại Trung Quốc do Tập Cận Bình cầm đầu (từ 2012) đã làm ngược lời khuyên của Đặng Tiểu Bình là “Dấu mình Chờ Thời” và khôi phục Sùng bái Cá nhân như thời Mao Trạch Đông. Tập Cận Bình đã trở thành “Hoàng đế Đỏ” quá sớm như “Cao Biền dậy non”, dẫn đến đối đầu Mỹ-Trung và chiến tranh lạnh về kinh tế.

Gần đây, chủ trương kiểm soát cực đoan đã xô đầy hàng triệu người Hong Kong xuống đường phản đối luật dẫn độ đang đe dọa quy chế tự do dân chủ của Hong Kong. Nếu nhà cầm quyền không nhân nhượng, phái diều hâu ở Mỹ sẽ có thêm lý do để chống Trung Quốc. Hong Kong Policy Act và Taiwan Act có giá trị răn đe Trung Quốc không được vi phạm cam kết. Hong Kong và Đài Loan là hai quả bom nổ chậm làm Bắc Kinh đau đầu.

Theo Minxin Pei, khi đối đầu Mỹ-Trung leo thang làm Trung Quốc khó tiếp cận nguồn vốn và công nghệ Mỹ, vai trò Hong Kong càng quan trọng hơn. Trừ phi lãnh đạo Trung Quốc sẵn sàng chấp nhận thảm họa, “Bắc Kinh nên rút bỏ dự luật này trước khi quá muộn”. (China Is Courting Disaster in Hong Kong, Minxin Pei, Project Syndicate, June 13, 2019).

Trong đối đầu chiến lược Mỹ-Trung đầy biến số, tương lai Trung Quốc phụ thuộc nhiều vào nguồn vốn và công nghệ cao. Ngày 24/5/2019, chương trình SpaceX của Elon Musk đã phóng thành công 60 vệ tinh đầu tiên của dự án Starlink, nhằm cung cấp Internet tốc độ cao cho toàn thế giới. Starlink có thể làm hệ thống 5G của Huawei trở nên lạc hậu.

Cách mạng lần thứ ba

Theo các học giả, kể từ khi lập quốc (1949) Trung Quốc đã trải qua ba cuộc cách mạng hiện đại. Lần thứ nhất là khi Hồng quân của Đảng Cộng sản do Mao Trạch Đông cầm đầu đã giải phóng lục địa và thống nhất Trung Quốc. Nhưng sau chiến tranh Triều Tiên (1950-1953), Mao đã nôn nóng phạm sai lầm nghiêm trọng về “Đại Nhảy vọt” (1958-1961) làm hơn 30 triệu người chết và “Cách Mạng Văn Hóa” (1966-1976) làm Trung Quốc suy sụp.

Lần thứ hai là khi Đặng Tiểu Bình lên cầm quyền trong hai thập niên (1970 và 1980), đã triển khai cải cách kinh tế thị trường triệt để với khẩu hiệu thực dụng “Mèo trắng mèo đen, miễn là bắt được chuột”, nới lỏng kinh tế nhà nước và kiểm soát chính trị. Đó là thời kỳ mở cửa ngoại giao mà Richard Nixon và Henry Kissinger đã bắt tay hòa hoãn với Bắc Kinh (1972) để rút quân khỏi Việt Nam và chống Liên Xô trong thời kỳ chiến tranh lạnh.

Quan hệ hợp tác Mỹ-Trung đã phát triển sâu rộng trong suốt ba nhiệm kỳ tổng thống Mỹ, với chủ trương can dự (constructive engagement) giúp Trung Quốc trỗi dậy mạnh mẽ, bất chấp vụ đàn áp đẫm máu tại Thiên An Môn (1989). Bill Clinton đã cho Trung Quốc hưởng quy chế “tối huệ quốc” và gia nhập WTO (năm 2001). Đó là những điều kiện tiên quyết để Trung Quốc trỗi dậy và “cất cánh”, vượt Nhật Bản (2010), và cạnh tranh với Mỹ.

Elizabeth Economy (CFR) đã liệt kê những biến chuyển sâu rộng mà Tập Cận Bình đã tạo ra và coi đó là “cuộc cách mạng lần thứ ba” (third revolution) hay chính xác hơn là “phản cách mạng” (counterrevolution) như Orville Schell đã điểm cuốn sách này. Economy phân tích tại sao thách thức của Trung Quốc đối với trật tự do Mỹ dẫn đầu lại nghiêm trọng như vậy, và các mâu thuẫn trong chính sách của Bắc Kinh lại đe dọa các tham vọng của Tập.

Cuối cùng, Economy đã lạnh lùng truy cứu những nghịch lý trong chiến lược của Tập Cận Bình với câu hỏi cơ bản đặt ra khi ông theo đuổi “Giấc mộng Trung Hoa” nhằm “làm Trung Quốc vĩ đại trở lại”: Một quốc gia phi dân chủ muốn lãnh đạo một trật tự thế giới dân chủ (an illiberal state seeking leadership in a liberal world order). (The Third Revolution: Xi Jinping and the New Chinese State, Elizabeth Economy, Oxford University Press, 2018).

Sự quyết đoán của Trung Quốc đã bùng nổ cùng với sự trỗi dậy củng cố quyền lực của Tập Cận Bình (từ 2012). Năm 2014, Tập bắt đầu kêu gọi Trung Quốc “không chỉ sẵn sàng viết lại luật chơi mà còn xây dựng sân chơi toàn cầu”. Tập không chỉ khôi phục “Sùng bái Cá nhân” như thời Mao Trạch Đông, mà còn xây dựng một hệ thống kiểm soát xã hội và cho điểm công dân (social credit system) như trong một tác phẩm của George Orwell.

Trong hệ thống đó, tin tặc được nhà nước bảo trợ và thể chế hóa để ăn cắp công nghệ của Mỹ, vi phạm bản quyền và nhân quyền. Kết cục là người Mỹ buộc phải lên tiếng chống lại (backlash). Cuốn sách của Economy phản ánh sự điều chỉnh trong tư duy chiến lược của Mỹ về Trung Quốc trong 50 qua, cũng như biến động trong quan hệ đối ngoại Mỹ-Trung.

Theo một tài liệu nghiên cứu của nhóm đặc nhiệm gồm 15 chuyên gia hàng đầu về Trung Quốc, (như Elizabeth Economy, David Shambaugh, Winston Lord) do Asia Society và University of California tổ chức, Mỹ-Trung “đang đối đầu” (on a collision course) và “nguy cơ xung đột công khai” (overt conflict) lớn hơn trước. Tuy họ hoan nghênh Trump đã chống lại (pushback) Trung Quốc, nhưng bản thân sự chống lại đó không phải là một chiến lược.

Họ cho rằng Trump đã làm tăng nguy cơ tính toán sai lầm và khả năng xung đột với Trung Quốc bằng cách làm giảm giá trị hai lợi thế lớn nhất của Mỹ là “hệ thống đồng minh/đối tác và những cơ chế đa phương toàn cầu”. Việc Trump bỏ rơi TPP là một sai lầm tai hại. Trump làm giảm giá trị của pháp quyền và uy tín của Mỹ, làm đồng minh lo lắng và làm đối tác bị mắc kẹt giữa Mỹ và Trung Quốc. Trump khen các nhà độc tài (như Tập và Putin) làm Bắc Kinh càng thêm cứng rắn, và làm khó dễ những người Trung Quốc muốn cải cách chính trị.

Theo Michael Pillsbury (Hudson Institute), Tập Cận Bình ngày càng hung hăng là một phần của chiến lược nhằm “thay thế vị trí bá quyền của Mỹ”. Pillsbury đã lập luận một cách thuyết phục rằng Mỹ đã hiểu sai về Trung Quốc. Trong khi giới tinh hoa tiếp tục bị phân hóa, thì Pillsbury lên án các chuyên gia Mỹ đã nhất quán coi thường giới diều hâu Trung Quốc, nay mới tỉnh ngộ nhận ra Trung Quốc là mối đe dọa lớn nhất đối với vị thế của Mỹ và trật tự thế giới dân chủ (the liberal world order). (The Hundred Year Marathon: China's Secret Strategy to Replace America As the Global Superpower, Michael Pillsbury, St Martin Press, 2015).

Cuốn sách của Economy tuy không gây tranh cãi bằng cuốn của Pillsbury, nhưng đã nêu bật được các điểm yếu và nghịch lý trong chiến lược của Tập Cận Bình, có thể làm hỏng tham vọng của ông. Economy nghi ngờ sức mạnh của Bắc Kinh đã cản trở giáo dục và Internet, nạn trộm cắp bản quyền và hệ thống bất cập đã ngăn cản sự phát triển của một môi trường hậu thuẫn cho nghiên cứu cơ bản với chất lượng cao. Theo David Shambaugh, chỉ có khoảng 2,2 triệu trong số 4 triệu sinh viên Trung Quốc du học từ 1987 đã trở về nước. Trung Quốc không thể bước lên các bậc thang giá trị gia tăng để thoát khỏi “bẫy thu nhập trung bình”.

Tương lai Trung Quốc

Theo Ali Wynes (RAND), GNP của Trung Quốc đã tăng 9 lần trong những năm 2001-2016, (từ US$1,340 tỷ lên US$11,200 tỷ) trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới (sau Mỹ). Năm 2009, Trung Quốc vượt Đức trở thành nước xuất khẩu lớn nhất, và năm 2013 trở thành nước buôn bán lớn nhất. Đóng góp của Trung Quốc cho kinh tế toàn cầu đã tăng bốn lần (từ 4% lên 16%). Đến năm 2016, Trung Quốc đã chiếm 34% tăng trưởng kinh tế toàn cầu.

Hiện nay, 4 ngân hàng lớn nhất thế giới là của Trung Quốc: (1) Industrial and Commercial Bank of China (US$4,000 tỷ), (2) China Construction Bank (US$3,400 tỷ), (3) Agriculture Bank of China (US$3,240 tỷ), (4) Bank of China (US$2,990 tỷ), trong khi JP Morgan Chase được xếp thứ 6 hoặc 7 trong danh sách các ngân hàng đứng đầu thế giới. Nhưng China Development Bank (CDB) lớn bằng tất cả các ngân hàng đó cộng lại. Người ta nói “Nếu Đảng Cộng sản là Chúa Trời (God) tại Trung Quốc, thì CDB là Nhà Tiên tri (Prophet).

CDB đã thuê những nhân vật nổi tiếng trên thế giới tham gia “Hội đồng Cố vấn Quốc tế” (International Advisory Council): Hank Greenberg (cựu chủ tịch AIG), Henry Kissinger (cựu ngoại trưởng), Fred Bergsten (economist), và Frenkel (cựu thống đốc Bank of Israel). Họ đem lại uy tín cho CDB, và các thương vụ ngầm (behind closed doors).

Tạp chí Forbes (năm 2018) đã liệt kê 5 nền kinh tế đứng đầu thế giới là: USA, China, Japan, Germany, và UK. Nhưng theo các nhà kinh tế, đến năm 2030 thì danh sách này sẽ bị đảo lộn theo một thứ tự khác: China, USA, India, Japan, và Indonesia. Theo tạp chí Fortune (năm 2018), trong danh sách 500 công ty đứng đầu thế giới thì Mỹ có 126 công ty, Trung Quốc có 120 công ty, Nhật có 52 công ty, Ấn Độ có 7 công ty. Trong danh sách 100 công ty đứng đầu thế giới thì Mỹ có 30, Trung Quốc có 18, Nhật có 8, và Ấn Độ có 1 công ty.

Trung Quốc có dự trữ ngoại hối lớn nhất, gấp hai lần rưỡi Nhật Bản là nước có dự trữ ngoại hối đứng thứ hai thế giới. Nếu cộng dự trữ ngoại hối của Trung Quốc và Hồng Kong lại, thì tổng số là US$3,600 tỷ. Ấn Độ xếp thứ 8 (năm 2018) với forex reserves là US$403,7 tỷ, trong khi của Mỹ là US$123,5 tỷ và của Anh là US$187,4 tỷ. Theo Joe Nye, Trung Quốc tuy có tiềm lực kinh tế hùng mạnh như vậy, nhưng vẫn là “người khổng lồ chân đất sét”.

Cuộc chiến thương mại đang phơi bày những tử huyệt của Trung Quốc. Nay người ta thấy rõ Huawei, niềm tự hào của Trung Quốc về công nghệ cao, cùng với ZTE, đang bị “bẻ nanh” (defanged). Có thể nói Trung Quốc đã chậm chân về công nghệ ít nhất 10 năm. Tình trạng tương tự đang diễn ra trong các ngành quốc phòng, công nghiệp ô tô, hàng không vũ trụ và nhiều lĩnh vực khác. Vấn đề của Huawei cho thấy những ảo tưởng của Trung Quốc, vì đến nay chìa khóa công nghệ cao vẫn nằm trong tay Mỹ, Đức, Nhật và Hàn Quốc. (The trade war shows China’s economic dream is dying, South China Morning Post, June 11, 2019).

Theo Asia Times (23/5/2019), 14 nhà lập pháp đảng Dân chủ và đảng Cộng hòa, đại diện bởi thượng nghị sĩ Marco Rubio, đã đệ trình lên Quốc Hội dự luật trừng phạt các cá nhân và tổ chức Trung Quốc có dính líu đến hoạt động quân sự hóa ở Biển Đông và Hoa Đông. Theo quy trình, Ngoại trưởng Mike Pompeo sẽ là người chịu trách nhiệm phải báo cáo định kỳ với Quốc Hội danh sách những tổ chức và cá nhân Trung Quốc nào sẽ bị cấm vận.

Danh sách ban đầu có thể gồm 25 công ty lớn của Trung Quốc, như CCCC Dredging Group (thuôc Tập đoàn Xây dựng viễn thông Trung Quốc, tham gia xây các đảo nhân tạo ở Biển Đông), Tập đoàn Dầu khí Trung Quốc (Sinopec), Tổng công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc (CNOOC), Tổng công ty Viễn thông Trung Quốc (China Telecom), Tập đoàn Khoa học và công nghiệp hàng không vũ trụ Trung Quốc (CASIC), và China Mobile…

Theo TNS Rubio, Trung Quốc “là mối đe dọa toàn diện nhất mà đất nước này từng đối mặt”, trong các lĩnh vực viễn thông, điện toán lượng tử, AI và bất kỳ ngành công nghiệp nào thu thập dữ liệu lớn (big data). Quan điểm của Mỹ về Trung Quốc cứng rắn hơn, với sự đồng thuận và hợp nhất ý tưởng trong bộ máy chính sách đối ngoại, bao gồm các thành viên của 2 đảng trong Quốc hội, Bộ Ngoại giao, Lầu Năm Góc, Bộ Tư pháp, các cơ quan tình báo và Hội đồng An ninh Quốc gia của Tổng thống Trump và Phó Tổng thống Mike Pence…

Nếu “Đạo luật Cấm vận Biển Hoa Đông và Biển Đông” được thông qua, Mỹ có quyền tịch thu tài sản của Trung Quốc ở Mỹ và thu hồi hoặc hủy bỏ thị thực Mỹ đối với bất kỳ ai liên quan tới “các hành động hoặc chính sách đe dọa hòa bình, an ninh và ổn định tại Biển Đông”. Theo Bonnie Glaser (CSIS) khoảng 73% các sự vụ chính xảy ra ở Biển Đông từ năm 2010 có liên quan tới các tàu chấp pháp của Trung Quốc…“Dự thảo này không nhằm vào những đối tượng xấu khác, mà thực sự nhằm vào Trung Quốc”. Glaser nhấn mạnh Biển Đông chưa bao giờ được chú ý đặc biệt như thế trong chính sách của chính quyền Trump…

Lầu Năm Góc vừa lập ra một cơ quan mới là “Văn phòng Phân tích Kinh tế và Thương mại” có nhiệm vụ rà soát các hợp đồng quốc phòng có liên quan đến các công ty Trung Quốc thông qua bên cung ứng thứ ba. Theo James Mulvenon (một chuyên gia về an ninh mạng) Lầu Năm Góc đã coi chất bán dẫn là “ngọn đồi” mà họ phải chiến đấu đến cùng để bảo vệ. Đó là ngành công nghiệp mà Mỹ phải dẫn đầu vì mọi thứ khác đều dựa vào đó. Trong khi đó, Kiron Skinner (Bộ Ngoại giao) cho rằng xung đột giữa các nền văn minh và sắc tộc đang diễn ra, và nhấn mạnh rằng Mỹ cần ngăn chặn Trung Quốc như trước đây đối với Liên Xô.

Gần đây, Bộ Tư lệnh Tuần duyên Mỹ đã điều hai tàu USCGC Bertholf và USCGC Stratton tham gia các hoạt động cùng Hạm đội 7 đóng tại Okosuka, Nhật Bản, đến hoạt động ở khu vực Biển Đông với mục đích giúp các nước khu vực thực thi pháp luật, và xây dựng năng lực trong hoạt động đánh cá. Đây là một chủ trương mới nhằm đối phó với lực lượng “dân quân biển” của Trung Quốc, lâu nay vẫn áp đảo và bắt nạt các nước trong khu vực.

Phát biểu trong một cuộc họp báo (11/6/2019), Phó đô đốc Linda Fagan, Tư lệnh Vùng Thái Bình Dương của Tuần duyên Mỹ cho biết họ đang theo dõi các hoạt động xâm lấn của “dân quân biển” Trung Quốc ở Biển Đông. Chuyến tuần tra đầu tiên của tàu Tuần duyên Mỹ tại Biển Đông đã diễn ra sau 7 năm, và Fagan cho biết sự trở lại của Tuần duyên Mỹ hoàn toàn phù hợp với luật quốc tế cho phép các tàu được đi qua các vùng biển quốc tế. Động thái này của Tuần Duyên Mỹ mở ra triển vọng hợp tác về tuần duyên trong khu vực.

Triển vọng Việt Nam

Theo Alexander Vuving (Vũ Hồng Lâm), phái “thu tô” hay “trục lợi” (rent-seeking) được hiểu là một trường phái chính sách (chứ không hẳn là một phe phái chính trị), không vì lợi ích dân tộc, cũng chẳng vì lý tưởng chủ nghĩa nào, mà chỉ lợi dụng quyền lực nhà nước để “thương mại hoá” quyền lực ấy. Họ thường lập luận “giữ ổn định để phát triển” nhưng thực tế họ muốn “giữ ổn định bằng mọi giá, kể cả không phát triển”. (Việt Nam với bộ máy trục lợi và nhân sự Đảng trước Đại Hội 13, Joaquin Nguyễn Hòa, BBC, June 8, 2019).

Khi bước vào thời kỳ “đổi mới” (từ cuối 1986), lúc đầu có hai trường phái chính sách chủ yếu là “bảo thủ” và “đổi mới”, nhưng sau đó đã xuất hiện trường phái thứ ba là phái “thu tô/trục lợi”, được hiểu là “các tổ hợp chính trị-thương mại” (hay các nhóm lợi ích thân hữu) đã thao túng nền kinh tế Việt Nam trong suốt giai đoạn quá độ (chuyển đổi). Không có gì đáng ngạc nhiên nếu “nhà nước thu tô” đẻ ra tình trạng “không chịu phát triển” như chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan đã nhận xét. Tinh thần “chấn hưng” của người Việt chưa bao giờ vượt qua được cửa ải “giữ ổn định”, làm “nhà nước thu tô” mạnh hơn hẳn “nhà nước kiến tạo”.

Đó là bức tranh đối nội, còn về đối ngoại, Vuving cho rằng quan hệ Việt-Mỹ ngày càng “nồng ấm hơn”, trong khi quan hệ Việt-Trung “có vẻ tốt đẹp bên ngoài nhưng lạnh nhạt bên trong”. Tuy thuyết “cái bẫy Thucydides” (Graham Allison) được nhiều người đề cập, nhưng ít có khả năng (unlikely) xảy ra xung đột quân sự giữa Mỹ và Trung Quốc.

“Yếu tố Nga” tuy có thể giúp Việt Nam phần nào để chống lại sức ép từ Trung Quốc nhưng không nhiều, và khả năng Nga chống lưng cho Việt Nam “khá mong manh”. Để chống lại sức ép Trung Quốc, Việt Nam phải tăng cường quan hệ với một loạt cường quốc có lợi ích chiến lược trong khu vực như Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ, và các nước khác như Anh, Pháp, Úc, Canada, Hàn Quốc, Đài Loan, cũng như các nước láng giềng có ảnh hưởng trực tiếp đến không gian sinh tồn của khu vực như Lào và Campuchia, cũng như ASEAN...

Xu thế chung của Việt Nam hiện nay là dịch chuyển “gần Mỹ hơn và xa Trung Quốc hơn”, nhưng với tốc độ nhỏ giọt để “không gây ra chấn động”. Tuy nhiên, lãnh đạo Việt Nam vẫn “không muốn quá gần Mỹ hoặc quá xa Trung Quốc”. Nhưng gần đây, lãnh đạo Việt Nam tỏ ra lo ngại về Trung Quốc nhiều hơn (trước đây thường lo ngại về Mỹ nhiều hơn). Xu thế xích lại gần Mỹ “nay nhỉnh hơn” so với xu thế thích gần Trung Quốc.

Các yếu tố truyền thống như ý thức hệ và sự níu kéo của Trung Quốc, vốn nuôi dưỡng tham nhũng và cản trở đổi mới, nay sẽ bớt tác dụng hơn. Điều đó khiến người Việt lạc quan hơn về triển vọng cất cánh của Việt Nam trong tương lai. Về lâu dài, xu hướng ‘thoát Trung” (dịch chuyển khỏi quỹ đạo Trung Quốc) sẽ làm giảm môi trường nuôi dưỡng các phái “thu tô/trục lợi”. Tuy nhiên, chiến lược của Mỹ đối với Việt Nam là gì thì chưa rõ. Bản thân chiến lược của Mỹ đối với khu vực và Trung Quốc vẫn còn đang hình thành.

Nói cách khác, sau 2 năm rưỡi cầm quyền, chính quyền Trump vẫn “trống đánh xuôi kèn thổi ngược” về chiến lược. Trong khi ngoại trưởng Mike Pompeo nhấn mạnh “hiện thực, kiềm chế, và tôn trọng” (realism, restraint, and respect), John Bolton (cố vấn ANQG) vẫn muốn “thay đổi chế độ” (như Maduro ở Venezuela, Assad ở Syria và Khomeni ở Iran). Tuy trước mắt Trump có thể vận dụng sự lộn xộn đó làm thiên hạ khó lường, nhưng về lâu dài đó không phải là chiến lược. Điều duy nhất Trump có thể vận dụng để chống Trung Quốc là “đồng thuận lưỡng đảng”.
(American Foreign Policy Adrift”, Foreign Affairs, June 5, 2019).

Muốn kiến tạo, Việt Nam phải chuyển sang tâm thế bứt phá để bung ra. Chỉ khi nào chuyển từ vai trò nhà nước quản lý sang nhà nước giải phóng sức sáng tạo của xã hội thì Việt Nam mới có thể cất cánh được. Người Việt phải nuôi dưỡng bản lĩnh dám đương đầu với khó khăn, đặc biệt là thách thức trong cuộc chạy đua công nghệ lần thứ 4 và trong cuộc cạnh tranh chiến lược Mỹ-Trung, vì “thách thức tuy lớn nhưng cơ hội không nhỏ”. Nếu không bồi dưỡng bản lĩnh để chơi những cuộc chơi mới, thì Việt Nam không bao giờ cất cánh được.

Hiện nay, sức ép đối với các tập đoàn kinh tế nhà nước đến chủ yếu từ hai nguồn. Thứ nhất, sự yếu kém về quản trị, là hang ổ của nạn tham nhũng đã lộ diện ngày càng nhiều, khiến TBT/CTN Nguyễn Phú Trọng, vốn ủng hộ mạnh mẽ kinh tế nhà nước, nay cũng phải đặt lại vấn đề kinh tế tư nhân tại Hội nghị Trung ương 10 vừa qua. Thứ hai, cả 2 hiệp định thương mại tự do (CPTPP và EVFTA) tuy không có Mỹ tham gia, nhưng đã thay đổi phần nào luật chơi và sân chơi, khiến các doanh nghiệp nhà nước bị cắt giảm thêm khá nhiều quyền ưu đãi.

Theo Vuving, vai trò các nhóm vận động cho xã hội dân sự và dân chủ ở Việt Nam trong bối cảnh chính trị nội bộ trước mắt vẫn phụ thuộc chủ yếu vào tương tác giữa họ với chính quyền và người dân trong nước, “chứ không phải vào chiến lược của Mỹ”. Tuy nhiên, về lâu dài nếu Việt Nam dịch xa quỹ đạo Trung Quốc thì sẽ phải xích lại gần hơn các nước Mỹ, Nhật, Ấn, Úc để tạo đối trọng. Các nước này có xã hội dân sự phát triển mạnh, nên bản thân Việt Nam với xu hướng hội nhập, sẽ phải coi trọng hơn vai trò của xã hội dân sự tại Việt Nam.

Lời cuối

Người ta nói Việt Nam có “rừng vàng, biển bạc”, nhưng nay tài nguyên thiên nhiên đang bị khai thác đến cạn kiệt, và bị lấn chiếm và ngăn cấm bởi người hàng xóm mạnh hơn và tham lam đang muốn kiểm soát Biển Đông. Chỉ có cái mỏ người là vô tận và tự tái sinh, nếu biết nâng cao dân trí và thay đổi thể chế để giải phóng năng lực sáng tạo. Israel là một bài học về “quốc gia khởi nghiệp” và Hong Kong là một bài học về dân trí cao, tuy có 7 triệu dân nhưng là một mỏ vàng. Việt Nam có 97 triệu dân (2019) là một cái mỏ vàng tiềm ẩn khổng lồ, nhưng đáng tiếc vì đất nước vẫn nghèo nàn, tụt hậu và năng suất lao động thấp nhất khu vực.

Tài liệu tham khảo

1. The Hundred Year Marathon: China's Secret Strategy to Replace America As the Global Superpower, Michael Pillsbury, St Martin Press, 2015
2. The Third Revolution: Xi Jinping and the New Chinese State, Elizabeth Economy, Oxford University Press, 2018
3. American Foreign Policy Adrift”, Foreign Affairs, June 5, 2019.
4. The trade war shows China’s economic dream is dying. Beijing now has a choice: open up or stagnate, Graeme Maxton, SCMP, June 11, 2019
5. China Is Courting Disaster in Hong Kong, Minxin Pei, Project Syndicate, June 13, 2019
6. Việt Nam với bộ máy trục lợi và nhân sự Đảng trước ĐH 13, Joaquin
Nguyễn Hòa, BBC, (phỏng vấn Alexander Vuving), June 8, 2019.
NQD. 20/6/2019

    Chủ Nhật, 9 tháng 6, 2019

    Đoàn tầu Việt Nam và định vị quốc gia

    Đoàn tầu Việt Nam và định vị quốc gia

    BÀI VIẾT MỚI CỦA TÁC GIẢ NGUYỄN QUANG DY.
    Xin phép tác giả được đưa lên đây để bạn bè cùng chia sẻ, tham khảo.
    ------

    Đoàn tầu Việt Nam và định vị quốc gia


    Nguyễn Quang Dy
    Chuyên gia nghiên cứu quốc tế

    Trong bài này, tôi mượn hình tượng “đoàn tàu Việt Nam” để dễ hình dung và chia sẻ, với những ẩn ức và ám ảnh trong tâm thức người Việt.

    Đã lâu tôi không đi tầu, nhưng những kỷ niệm khó quên về tầu hỏa vẫn còn đọng lại từ thời niên thiếu và thời chiến tranh. Nay tôi ngại đi tầu không phải chỉ vì nó chạy quá chậm, mà còn vì những ám ảnh trong tâm thức.

    Đoàn tầu Việt Nam đang ở đâu

    Mỗi lần nghe bài hát “tầu anh qua núi” tôi lại thấy buồn, tuy bài hát đó có giai điệu vui. Tôi nhớ có lần (cuối thập niên 1980), đã theo một đoàn làm phim Úc đi từ Bắc vào Nam để quay phim tài liệu về tầu hỏa. Tôi vẫn nhớ hình ảnh tuyệt đẹp khi đầu tầu hơi nước hú còi và phun khói trắng hòa vào mây trời trước khi đoàn tàu trườn mình vượt đèo Hải Vân.

    Từ đó đến nay, “đoàn tàu Việt Nam” hầu như không có gì thay đổi. Vẫn là những đầu tàu cũ kỹ ỳ ạch kéo những chiếc toa cũ kỹ lầm lũi chạy trên tuyến đường sắt chật hẹp (1,100m). Vẫn là cái barrier chắn đường thời trước để chặn dòng chảy đường bộ cho “tầu anh qua phố”, làm du khách nước ngoài ngỡ ngàng thích thú như xem bộ phim “Oriental Express”.

    Hình tượng đó vẫn ám ảnh tâm thức về một đất nước giàu đẹp nhưng “không chịu phát triển”, như hoài niệm về câu truyện cho trẻ em thời trước là “Mít Đặc và Biết Tuốt” (tại bến “lần sau tầu chạy”). Trong khi “chính phủ kiến tạo” nói nhiều về công nghệ 4.0, thì hệ tư duy (mindset) và hệ quy chiếu (paradigm) của người Việt vẫn dừng lại ở ngã ba đường.

    Từ cuối thập niên 1990, tuyến đường sắt Hà Nội-Lào Cai đã có mấy toa “tàu Victoria” chủ yếu để phục vụ khách nước ngoài của khách sạn Victoria ở Sapa. Tại sao họ làm được một đoàn tầu tử tế cho khách hàng của họ, mà ngành đường sắt Việt Nam sau mấy thập kỷ vẫn chưa làm được những toa tầu tử tế như vậy cho người Việt mình? Thật là vô lý!

    Hơn bốn thập kỷ sau chiến tranh, Việt Nam tuy nhiều tài nguyên, nhưng khai thác đến cạn kiệt mà vẫn chưa công nghiệp hóa và hiện đại hóa, vẫn tụt hậu so với nước láng giềng. Bộ GTVT thừa nhận Việt Nam chưa làm được cao tốc Bắc-Nam, mà “chỉ có Trung Quốc làm được”, bất chấp bài học đau đớn về dự án đường sắt trên cao Cát Linh-Hà Đông.

    Ám ảnh về “đoàn tàu Việt Nam” là hệ quả của mấy thập kỷ cải cách kinh tế thị trường què quặt, những bất cập được duy trì quá lâu làm triệt tiêu các nguồn lực tích cực dựa trên hệ giá trị cốt lõi của dân tộc và hậu thuẫn cho nó là các nguồn lực tiêu cực dựa trên lợi ích nhóm “thân hữu” (cronyism).
    Tại sao phải định vị quốc gia

    Muốn phát triển, các doanh nghiệp thường phải “định vị” (positioning) trên thị trường. Các quốc gia cũng phải định vị (hoặc tái định vị) nước mình, nhất là khi bàn cờ quốc tế biến đổi. Mấy năm qua, trật tự thế giới đã bị đảo lộn đến chóng mặt và khó lường. Nếu không định vị lại và điều chỉnh chiến lược, Việt Nam dễ bị mắc kẹt vào thế “lưỡng nan” (ketch 22).

    Hãy thử so sánh Việt Nam với nước láng giềng Thailand (trong ASEAN). Năm 2012, Per Capita của Việt Nam là US$ 1.373, bằng Thailand năm 1981 (tụt hậu 30 năm). Theo dự đoán của IMF, đến năm 2019, Per Capita của Việt Nam sẽ là US$ 2.473, bằng Thailand năm 1985 (tụt hậu 34 năm). Việt Nam đã từng tuyên bố đến năm 2020 sẽ là một nước công nghiệp, nhưng đến nay vẫn chưa công nghiệp hóa, năng suất lao động vào loại thấp nhất khu vực.

    Hàn Quốc là một nước Đông Á, cũng bị thuộc địa, chiến tranh, và chia cắt Bắc-Nam, nhưng sau ba thập kỷ (1960-1990) đã vươn lên thành cường quốc. GDP Hàn quốc (năm 1960) là US$ 155, trong khi Việt Nam (năm 1981) là US$ 251. Nhưng sau 30 năm, GDP của Hàn Quốc tăng 34 lần, trong khi GDP của Việt Nam tăng có 4,25 lần (bằng 1/8 Hàn quốc).

    Hàn Quốc là một nước độc tài, nhưng để trở thành cường quốc, họ phải chuyển sang thể chế dân chủ (theo quy luật tất yếu). Tuy cùng vạch xuất phát tương tự, nhưng Hàn Quốc nay đã giàu mạnh. Việt Nam tuy thống nhất, nhưng nay vẫn nghèo nàn, tụt hậu. Việt Nam phải trả giá quá đắt cho sự ngộ nhận và nhầm lẫn, dẫn đến thất bại trong thời hậu chiến.

    Trong bốn thập kỷ thực dân Pháp đô hộ Việt Nam, tuy 95% người dân mù chữ, nhưng họ đã xây dựng được đường sắt, đường bộ, cầu cống, cảng biển, sân bay, thành phố Hà Nội và Sài Gòn (như “hòn ngọc Viễn Đông”). Nay với trình độ công nghệ cao hơn gấp nhiều lần, tuy 95% người dân biết chữ, nhưng hệ thống đường sắt vẫn kém hơn thời Pháp thuộc.

    Hệ thống đường bộ, cầu cống, cảng biển, tuy có mở rộng, nhưng cơi nới và chắp vá. Đường phố Hà Nội nay mấp mô, lồi lõm, đầy “ổ trâu”, như đường nông thôn. Các nắp cống đủ kiểu lồi lên, tụt xuống thành những cái bẫy như “thập diện mai phục’. Vỉa hè năm nào cũng bị đào bới lát lại, để nhóm lợi ích kiếm chác như cái mỏ lộ thiên. Điều đó cứ hồn nhiên lặp đi lặp lại như chuyện tất nhiên (hay “new normal”). Lạ thay, chẳng thấy ai chịu trách nhiệm.

    Không phải do thiếu kinh phí hay thiếu công nghệ, mà cơ chế độc quyền đã làm cho ngành giao thông công chính và điện/nước trở thành nhóm lợi ích “không chịu phát triển” và bị phân liệt (dysfunctional). Hình ảnh những cột điện với các búi dây điện nhằng nhịt như mạng nhện đã làm Bill Gates ngỡ ngàng, trong khi đường ống nước Sông Đà vỡ tới 21 lần.

    Khi đã ngoài 40 tuổi (giai đoạn trưởng thành) người ta thường không nhầm lẫn nữa. Theo khoa học tổ chức, bốn thập kỷ là quá đủ để mỗi công ty hay mỗi quốc gia trưởng thành, với ít nhất ba thế hệ kế tục, đủ thời gian cho các giá trị cốt lõi của dân tộc định hình. Nhưng ngành giáo dục Việt Nam vẫn đang bê bối với nạn chạy điểm, làm hỏng cả thế hệ trẻ.

    Đã hơn bốn thập kỷ sau chiến tranh, Việt Nam vẫn loay hoay tại ngã ba đường, vẫn chưa hòa giải dân tộc và chưa thoát khỏi cái bẫy ý thức hệ, nên quốc gia vẫn chưa trưởng thành (vẫn tiếp tục “nation building”). Theo quy luật tự nhiên (sinh-lão-bệnh-tử), đã đến lúc Việt Nam phải đổi mới thể chế toàn diện, như khuyến nghị của “Báo cáo Việt Nam 2035”.

    Chiến tranh lồng ghép

    Hiện nay, Trung Quốc đang tiến hành một cuộc “chiến tranh lồng ghép” (Hybrid warfare) là khái niệm mới được Bộ Quốc phòng Mỹ đề cập đến từ năm 2008. Đó là một cuộc chiến tranh không dùng quân đội và vũ khí, mà sử dụng những biện pháp “phi vũ trang” để triệt hạ toàn diện các mục tiêu của đối phương.

    Theo Wikipedia, “Hybrid warfare” lồng ghép chiến tranh thông thường với những biện pháp không thông thường khác như chiến tranh mạng (cyberwarfare), pháp lý (lawfare), tin vịt (fake news), và can thiệp vào bầu cử, v.v…

    Nói cách khác, đó là binh pháp Tôn Tử (không đánh mà thắng) vận dụng linh hoạt nhiều biện pháp trong “vùng sám” (grey area), để phá hoại không gian sinh tồn, cơ sở hạ tầng, và làm biến đổi hệ giá trị cốt lõi của đối phương. Trung Quốc có thể cho vay dài hạn để lũng đoạn kinh tế. Vietjet Airs và Bamboo Airways lấy tiền đâu để mua 110 máy bay Boeing?

    Việt Nam phải nhập 60% nguyên liệu đầu vào từ Trung Quốc. Các nhà thầu Trung Quốc nắm hơn 90% các gói thầu EPC, chiếm 77/106 các dự án lớn trọng điểm của Việt Nam. Đến nay, Việt Nam đã cho Trung Quốc thuê 300.000 Ha rừng đầu nguồn (thời hạn 50 năm) và thuê cảng nước sâu Vũng Áng cùng Formosa (thời hạn 70 năm). Hai nhà máy bauxite Tân Rai và Nhân Cơ lỗ hàng trăm tỷ VNĐ/năm, và gây hiểm họa môi trường miền Trung.

    Theo Kiểm toán Nhà nước (2018), dự án đường sắt trên cao Cát Linh-Hà Đông, vốn đầu tư là 8.770 tỷ VNĐ, đã bị đội vốn lên 18.000 tỷ VNĐ (tăng 205%), dự kiến hoàn thành 6/2014 và chính thức khai thác thương mại 6/2015 (nay chậm tiến độ 4 năm). Nếu thu mỗi ngày 100 triệu VNĐ (theo bộ GTVT) thì phải mất 10.000 năm mới thu hồi được vốn. Theo NHK, đây là “tuyến đường tai tiếng nhất thế giới” (vừa chậm, vừa xấu, vừa không an toàn).

    Nhưng bộ GTVT vẫn muốn Trung Quốc làm đường Cao tốc Bắc-Nam, một dự án chiến lược quan trọng hơn cả ba đặc khu. Trung Quốc muốn dùng cái bẫy ý thức hệ để buộc chặt Việt Nam vào cộng đồng “cùng chung vận mệnh” (chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa, xã hội, giáo dục). Việt Nam có thể bị xô đẩy vào vòng Bắc thuộc mới (như ông Nguyễn Cơ Thạch đã cảnh báo), vì vậy phải tỉnh ngộ để thoát khỏi cái vòng kim cô “16 chữ vàng”.

    Theo Minxin Pei, trật tự thời “hậu Thiên An Môn” đã chấm dứt từ năm 2012 khi Tập Cận Bình lên cầm quyền, và từng bước thay đổi những nguyên tắc mà Đặng Tiểu Bình đã xác lập. Trung Quốc đã tăng cường “chế độ tư bản nhà nước” (state capitalism), và triển khai các tham vọng địa chính trị trên toàn cầu, xô đẩy Mỹ và phương Tây phải chống lại họ. (The Lasting Tragedy of Tiananmen Square, Minxin Pei, Project Syndicate, May 31, 2019).

    Henry Paulson (cựu bộ trưởng tài chính) kêu gọi Trung Quốc và Mỹ thỏa thuận về “các dự án hữu hình để xây dựng lòng tin”, là điều quan trọng lúc này. (America and China must manage their rivalry or risk disaster, Economist, May 16, 2019). Nhưng David Dollar (Viện (Brookings) cho rằng cách đây không lâu Mỹ và Trung Quốc đa cố gắng làm giảm căng thằng bằng cách hứa hẹn mở rộng thương mại, “nhưng nay đã quá muộn để làm việc đó”.

    Theo Hal Brands (Johns Hopkins), siêu cường nào muốn thắng trong cuộc chiến sắp tới phải hiểu đúng nguyên nhân của nó. (The Real Origins of the US-China Cold War, Charles Edel & Hal Brands, Foreign Policy, June 2, 2019). Stephen Walt (Harvard) lập luận rằng chủ nghĩa dân tộc là động lực mạnh mẽ và lâu dài trong chính trị quốc tế, để tăng cường năng lực quốc gia, nhưng phải hiểu được giá trị thực sự và hạn chế tác hại của nó. (You Can’t Defeat Nationalism, So Stop Trying, Stephen Walt, Foreign Policy, June 4, 2019).

    Thay lời kết

    “Đoàn tầu Việt Nam” đã bị các nhóm lợi ích thân hữu thao túng (hijacked), chạy theo hướng có lợi cho họ (như câu chuyện AVG, BOT, Đặc khu Kinh tế, v.v.). Họ tìm cách lũng đoạn chính quyền để tham nhũng chính sách (là tham nhũng tệ hại nhất), nên đã bẻ ghi cho đoàn tầu Việt Nam đi chệch hướng khỏi các mục tiêu dân tộc và dân chủ. Về lâu dài, chống tham nhũng và kiểm soát quyền lực của các nhóm lợi ích thân hữu là mục tiêu hàng đầu.

    Muốn định vị quốc gia, phải “kiến tạo” và đổi mới “vòng hai”, với khẩu hiệu “đổi mới hay là chết” (như lúc đổi mới “vòng một”). Để đổi mới “vòng hai”, phải đổi mới thể chế toàn diện để thoát khỏi cái “vòng kim cô” về ý thức hệ đã kìm hãm và làm đất nước tụt hậu.

    Tại đối thoại Shangri-La (Singapore, 31/5/2019) thái độ cứng rắn của Mỹ và Trung Quốc làm mấy nước khu vực lo ngại vì 2 xu thế: (1) Mỹ-Trung vừa đánh vừa đàm, trước mắt rất khó thỏa thuận; (2) Biển Đông và Đài Loan đang trở thành tiêu điểm của đối đầu Mỹ-Trung.

    Cuộc chiến tranh thương mại Mỹ-Trung thực chất là một cuộc chiến tranh lạnh kiểu mới, như thế cờ vây của Mỹ với Trung Quốc. Đó là một cơ may lớn cho Việt Nam, vì nó đang làm Trung Quốc suy thoái. Chỉ khi nào Trung Quốc suy yếu thì Việt Nam mới có cơ hội thoát khỏi ảnh hưởng của họ, để đối mới và phục hưng quốc gia. Cơ hội đó đã từng bị tuột mất vào năm 1978 và năm 1990, nay hy vọng không để cơ hội đó bị tuột mất lần nữa.

    NQD. 6/6/2019


    Thứ Năm, 6 tháng 6, 2019

    Một dòng cải chính, thưa ông!

    Một dòng cải chính, thưa ông!

    Thông minh, tài giỏi ở đâu không biết, nhưng nhắc đến Campuchia giai đoạn 1979-1990 như ông viết trên facebook cá nhân và nói tại Diễn đàn an ninh Shangri-La (ảnh ông ở dưới stt) thì hớ quá, thậm chí là tệ với các quốc gia láng giềng Asean của ông quá đi rồi!

    Hỏi thật ông nhé, nếu không có sự "invasion" và "occupation" của bộ đội VN năm tháng đó (1/1979) và các năm sau thì liệu lúc này nước CPC sẽ ra làm sao? Một khi họa diệt chủng hoành hành thì các nước láng giềng có yên ổn được hay không? Mà diệt chủng ở CPC là một thực tế mà thế giới văn minh ngày nay đã chứng thực, Liên hợp quốc đã mở tòa án và hoàn tất việc kết án.


    Lại nữa, ông nói thế viết thế là xúc phạm đến hàng vạn binh sĩ VN và CPC đã ngã xuống để đánh đuổi Khơ-me Đỏ, giữ bình yên cho một nước nay là thành viên Asean, một cộng đồng trong đó có nước ông.

    Tôi thiển nghĩ rằng, chính khách, dù là giỏi đến thế nào nhưng chớ bao giờ hoạt đầu. Nói gì, viết gì cũng phải cẩn trọng nhất có thể. Nghĩa là bao giờ cũng cần một thứ suy nghĩ chín, thật chín, chứ không rất dễ bị hớ hênh, sai sót, bởi buột miệng ra là "tứ mã nan truy"; và sau hết cả, nó có thể chôn vùi sự nghiệp chính trị của một ai đó. Còn nhẹ ra cũng bị mất đi uy tín đã dày công tạo dựng lên được qua thời gian...

    Tiếc ông là con nhà nòi. Ông lại đang là thủ lĩnh một đất nước hùng cường ở vùng đông và nam của châu Á, đất nước từ lâu được nhiều quốc gia nể trọng..., thì sự tiếc này càng nhân lên bội số.

    Dư luận chờ một lời cáo lỗi, hoặc chí ít là errata của ông. (--> errata là đính chính).

    PS- Nếu có lời gì nặng nề, va chạm hoặc không phải thì xin được so-rì ông.

    VỆ NHI


    @ trên mạng người ta gắn ảnh ông với dòng chữ "shame on you" nghĩa là "nỗi xấu hổ về ông". Đau. Nhưng đó là cái giá đắt phải trả chứ biết sao khác được...



    Quy hoạch gì đây?

    Quy hoạch gì đây?

    Nhà cửa xây như thế này thì ăn ở, hít thở ra sao đây? Con người như bị nhốt vào một rừng bê-tông, trùng trùng các khối thép + xi măng.

    Thật là kinh hoàng với cách quy hoạch và xét cấp giấy phép xây dựng ở 2 thành phố Hà Nội và Tp HCM. Và ai sẽ phải chịu trách nhiệm trước thực trạng này?

    NV/VN







    Thứ Hai, 3 tháng 6, 2019

    ÔNG TRUMP "SÁT MUỐI" VÀO VẾT THƯƠNG BREXIT CỦA NƯỚC ANH

    ÔNG TRUMP "XÁT MUỐI" VÀO VẾT THƯƠNG BREXIT CỦA NƯỚC ANH

    Hôm nay bắt đầu chuyến thăm nước Anh (từ 3 - 5/6) của tổng thống Donald Trump.

    Mới cách đây chưa đến 1 năm, tháng 8/2018, ông Trump đã tới thăm Anh, được cho là với "đầy tranh cãi” - cả về sự đón tiếp kiểu tẩy chay vị tổng thống này (thả khinh khí cầu hình Trump Baby rất bôi bác ngay trước điện Buckingham mà người viết stt này đang ở đó cũng nhìn thấy và chụp được vài kiểu ảnh), đồng thời ông Trump cũng như những phát biểu bất cần, coi thường Anh, trong đó có những cử chỉ rất “phô” đối với chủ nhà là bà thủ tướng Theresa May.

    Lần thăm chính thức năm nay, trước khi lên đường sang Luân Đôn, ông Donald Trump đã có những “đóng góp ý kiến” cho đồng minh như cách diễn đạt của báo chí Mỹ và phương Tây vài ngày qua.
    Khi được hỏi về Brexit, ông Trump quả quyết “Nếu không đạt được thỏa thuận như mong nuốn, với tôi, thì tôi đã bỏ bàn đàm phán”, tờ Sunday Times của Anh tường thuật lại như vậy. Như cách vẫn có ở ông Trump, ông còn nhấn mạnh thêm vào chủ đề này: “và nếu tôi là người Anh, tôi sẽ không trả cho châu Âu 50 tỷ đô-la đâu”. (--> đây là món tiền Anh phải "thanh toán" cho EU nằm trong Thỏa thuận Anh và EU khi đàm phán).

    Tổng thống Mỹ còn cho rằng chính phủ của bà Theresa May đã “sai lầm” khi không cho lãnh đạo đảng Brexit, Nigel Farage, tham gia tiến trình đàm phán với EU. Theo ông Trump, giả sử như vị lãnh đạo này tham gia, kết quả đàm phán “chắc sẽ khác”.

    Hãng tin AFP còn cho biết, ông Donald Trump chờ Anh Quốc rút khỏi EU để nước Mỹ của ông có thể nhanh chóng đàm phán thỏa thuận thương mại song phương Anh-Mỹ.

    Trong khi đó các hãng thông tấn Mỹ còn đưa tin thêm, rằng những ngày qua, ông Donald Trump liên tục nhắc những “nội tình” được coi là rất tế nhị của nền chính trị Anh. Ví dụ ngày 1/6, khi được báo chí đặt câu hỏi về nhân vật nào có thể lên thay thế bà Theresa May sau ngày 7/6 tới, tổng thống Mỹ “không ngần ngại” chấm điểm ngay cho cựu ngoại trưởng nước Anh, ông Boris Johnson. Ông này luôn chống lại bà May rất quyết liệt quanh hồ sơ Brexit, và là 1 trong 13 chính trị gia đang cùng ngắm tới chiếc ghế ở 10 Downing Street.

    Đúng là một cách xát thêm muối vào vết thương chia rẽ nước Anh suốt từ sau khi Referandum để Brexit kể từ 23/6/2016 cho đến hôm nay.

    Được biết sau khi thăm Anh, ông Donald Trump sẽ bay sang Pháp dự lễ kỷ niệm 75 năm cuộc đổ bộ Normandie, sự kiện quan trọng trong cuộc Thế chiến II, 1939-1945.

    Không hiểu với đồng minh Pháp và các nước Tây Âu khác, lúc đó ông Trunp sẽ còn những “đóng góp ý kiến gì” nữa?

    Để ra bên những cách hiểu, cách đánh giá khác nhau về những "ý kiến" của ông Tr
    ump, nhưng một điều phải công nhận rằng ngài tổng thống này "rất ưa nói thẳng" không văn vẻ, uốn éo về bất cứ điều gì. Làm chính trị như ông Trump là "khác biệt".

    @ Ảnh ông bà Donald Trump vừa tới London ngày hôm nay, 3/6. --> ảnh search trên mạng.


      Việt Nam trước các nguy cơ tiềm ẩn khó lường Nguyễn Quang Dy Trong bối cảnh thế giới đang biến động khó lường, các nước đang chuyển đổi nh...