Ngoại giao thời hội nhập quốc tế toàn diện
Bài trả lời phỏng vấn anh Phạm Bình Minh, Bộ trưởng Ngoại giao với VOV1 (Đài Tiếng nói Việt Nam ) là một bản trình bày và tổng kết về ngành ngoại giao Việt Nam . Sau Hội nghị Ngoại giao lần thứ 27 hồi cuối năm qua, đây là một dấu hiệu tốt, công khai rộng rãi chính sách và hoạt động ngoại giao.
Bài dài, tới 21 câu hỏi nên chủ blog tôi chỉ trích câu 9 và giật cái tít phù hợp với ý trả lời. Và cá nhân tôi có theo dõi ngành hoạt động này thấy có điểm gì đó mới so với trước đây là chỉ nhấn đến hội nhập kinh tế, các lĩnh vực khác "để ngỏ", hoặc là hiểu kín đáo không đề cập... Vì thế tôi cũng chỉ giới thiệu chính ở nội dung này. Còn các bạn nào thấy cần đọc cả bài, xin mời xem toàn văn để ở phần cuối trang.
Tôi chọn ra vậy, có thể trúng hay trật - vì cũng chưa kiểm chứng được - với cái ý lớn, cái ý bao trùm muốn nói tới của vị bộ trưởng ngoại giao mới được Quốc hội phê chuẩn vào chức vụ chính thức hồi tháng 8/2011. Bộ trưởng mới cũng là vị bộ trưởng ngoại giao trẻ tuổi đời nhất (sinh 1959), được học hành đào tạo về đối ngoại cơ bản nhất, được đào luyện và trưởng thành trong ngành ngoại giao lần lần từ thấp lên cao, sử dụng thành thạo tiếng Anh - ngôn ngữ thông dụng số 1 về ngoại giao -, các yếu tố đó đương nhiên tạo thêm mặt thuận để bộ trưởng mới phát huy năng lực và sở trường của mình.
Ngoại giao Việt Nam bước vào thời hội nhập quốc tế toàn diện, là những công dân Việt ai cũng đều mong mỏi như thế... Tuy nhiên nói thì vậy, liệu có mạnh dạn, bứt phá lên để ngoại giao nước Việt làm được những điều như đã nói lên hay không thì vẫn phải đợi thời gian trả lời. Còn với công luận rộng rãi, chớ có biến việc này như là “hô khẩu hiệu” với bên ngoài và cũng là cách tự trấn an mình là đã hội nhập toàn diện và đầy đủ. Bởi vì đầu tiên là sẽ “chẳng đi đến đâu”, chẳng có kết quả tích cực gì; thứ nữa là “quốc tế” người ta cũng chẳng vì thế mà mất mát gì, và nhất là sẽ chẳng có ai chờ đợi mình đâu! Chuyến tàu hội nhập và phát triển thật sự với thế giới lại bỏ lỡ...
Vệ Nhi g-th
--------
Câu hỏi 9
Câu hỏi 9: Thưa Bộ trưởng, Việt Nam đã chuyển sang một thời kỳ hội nhập sâu hơn với thế giới. Không chỉ hội nhập về kinh tế,chúng ta sẽ hội nhập toàn diện, cả về chính trị, văn hóa, xã hội…. Ngành ngoại giao Việt Nam sẽ tham gia thúc đẩy quá trình này như thế nào? Theo ông, trong quá trình này, chúng ta phải chú ý những vấn đề gì?
Bộtrưởng Phạm Bình Minh:Đại hội XI của Đảng ta đã đề ra đường lối đưa nước ta bước sang thời kỳ hội nhập toàn diện với thế giới, từ hội nhập kinh tế thuần túy, chúng ta sẽ mở rộng hợp tác sâu rộng sang các lĩnh vực chính trị, an ninh, quân sự, văn hóa, xã hội…
Tại Hội nghị Ngoại giao 27 vừa qua, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng khi giao nhiệm vụ cho ngành ngoại giao cũng đã nhấn mạnh như vậy. Lãnh đạo Đảng và Nhà nước đã giao Bộ Ngoại giao cùng các Bộ, ngành khác chuẩn bị xây dựng nhiều văn kiện quan trọng cho tiến trình này, trong đó có Chiến lược tổng thể về hội nhập quốc tế từ nay đến 2020.
Tôi muốn nhấn mạnh một số nội dung chính của Hội nhập quốc tế là:
- Hội nhập kinh tế quốc tế vẫn là ưu tiên hàng đầu nhằm tranh thủ nguồn lực bên ngoài cho phát triển đất nước. Trong 5 năm tới, chúng ta sẽ phải xây dựng các kếhoạch, mục tiêu, tập trung thu hút các nguồn lực đầu tư, ODA, mở rộng thịtrường, xuất khẩu lao động, du lịch… phù hợp với các định hướng phát triển mới của đất nước.
- Đồng thời thúc đẩy quan hệ chính trị, an ninh, quân sự văn hóa, giáo dục, khoa học kỹ thuật, … nhằm góp phần tạo dựng môi trường thuận lợi phục vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc và nâng cao thế và lực của Việt Nam.
Trong quá trình đó, chúng ta cũng phải có nghiên cứu, đề xuất, xây dựng những quyếtđịnh dài hạn về hội nhập; chủ động và tích cực tham gia các diễn đàn đa phương quốc tế và khu vực; đưa ra những sáng kiến vừa phù hợp với lợi ích của ta, vừađóng góp vào việc giải quyết các công việc quốc tế, qua đó bảo vệ tốt nhất cho các lợi ích an ninh và phát triển của Việt Nam.
Tuy nhiên, hội nhập quốc tế toàn diện đặt ra cho chúng ta một số thách thức mới. Hội nhập toàn diện đòi hỏi khối lượng công việc khổng lồ để bổ sung, hoàn thiện thể chế, cải cách và hiện đại hóa nền hành chính quốc gia, phát triển nguồn nhân lực… Tuy nhiên cần khẳng định một điều, mọi mối quan hệ quốc tế trong bất kỳ điều kiện nào cần phải tôn trọng sự khác biệt về thể chế chính trị như một sự tự do lựa chọn mô hình phát triển của nhân loại.
Những mặt trái của hội nhập cũng có thể ảnh hưởng tới nước ta nếu không chuẩn bị kỹ.Ví dụ, bất ổn không chỉ về kinh tế mà cả về an ninh chính trị, xã hội từ bên ngoài có thể sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống kinh tế xã hội của đất nước. Phạm vi và tốc độ lây lan của những biến động từ bên ngoài cũng tăng lên.
------
Toàn văn bài phỏng vấn (dành cho người muốn tham khảo):
Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh: Thời kỳ dân chủ hóa các quan hệ quốc tế
(VOV) - VOV online giới thiệu cuộc đối thoại với Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh trên VOV1, ngày 6/1/2012.
Mặc dù tình hình thế giới có những biến động hết sức phức tạp, khó lường trong năm 2011, song Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận trong việc giữ vững ổn định chính trị- xã hội, tạo tiền đề vững chắc cho việc phát triển kinh tế, hướng tới sự phồn vinh, thịnh vượng.
Đài TNVN mời ông Phạm Bình Minh, Uỷ viên BCH Trung ương Đảng CS Việt Nam, Đại biểu Quốc hội khoá XIII, Bộ trưởng Bộ Ngoại Giao, tới trao đổi về những thành tựu của ngoại giao Việt Nam, các trọng tâm ưu tiên trong hoạt động ngoại giao ở giai đoạn trước mắt cũng như lâu dài.
VOV online xin giới thiệu cuộc đối thoại với Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh trên VOV1, ngày 6/1/2012:
Câu hỏi 1: Thưa Bộ trưởng, 1 năm qua, tình hình thế giới và các khu vực xuất hiện nhiều diễn biến phức tạp mới, khó lường như bất ổn ở Trung Ðông - Bắc Phi, thảm họa thiên tai hoành hành, khủng hoảng kinh tế- tài chính chưa được khắc phục... Đây là những thách thức lớn đối với ngành ngoại giao. Song với những hoạt động phong phú, tích cực, ngoại giao Việt Nam vẫn đạt được những thành tựu đáng ghi nhận. Điều này cũng đã được tổng kết tại Hội nghị toàn ngành ngoại giao lần thứ 27. Còn theo Bộ trưởng, đâu là những điểm sáng nhất trong công tác ngoại giao của Việt Nam trong năm qua?
Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh: Đúng như nhà báo đã nói, năm 2011 thế giới trải qua nhiều khó khăn và thách thức. Nhưng tôi cho rằng thuận lợi cũng rất cơ bản. Những thuận lợi đó được tạo bởi sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Nhà nước, bởi xu thế vận động theo hướng dân chủ hóa của mối quan hệ quốc tế, bởi thế và lực của đất nước đang lên cao. Nắm bắt được cơ hội, vượt qua khó khăn thách thức, đất nước ta đã giành được nhiều thành tựu quan trọng:
1. Thành công của Đại hội Đảng lần thứ XI là điểm sáng nhất về chính sách đối ngoại. Đại hội đã sáng suốt đánh giá và dự báo chính xác tình hình thế giới với những khó khăn và thuận lợi cơ bản đối với đất nước ta. Tình hình thế giới diễn ra cho tới nay đã minh chứng cho những đánh giá đúng đắn này. Đại hội đã đề ra đường lối đối ngoại đổi mới theo hướng tích cực và chủ động hơn nữa hội nhập quốc tế, trong khi vẫn quán triệt chủ trương lớn là độc lập, tự chủ, vì hòa bình, hợp tác và phát triển; Đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ nhưng vẫn là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.
2. Từ đường lối đối ngoại đúng đắn, đã tạo tiền đề cho những điểm sáng tiếp theo trong việc thực thi chính sách đối ngoại của đất nước: Hoạt động đối ngoại của đất nước đã triển khai rất tích cực, toàn diện cả về song phương và đa phương; đặc biệt là các chuyến thăm của Lãnh đạo Cấp cao tới các nước láng giềng, khu vực, các đối tác chủ chốt đã đưa quan hệ nước ta với các đối tác đi vào chiều sâu, thực chất, hiệu quả hơn, mở ra cơ hội to lớn nhằm nâng tầm quan hệ với một số đối tác quan trọng khác. Sự tham gia tích cực, chủ động của nước ta tại các tổ chức và diễn đàn quốc tế và khu vực quan trọng như ASEAN, APEC, WTO… đã đem lại nhiều kết quả cụ thể, thiết thực, nâng cao vị thế và uy tín của nước ta trên trường quốc tế, tạo môi trường thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
3. Tình hình Biển Đông năm qua có nhiều biến động, nhưng Ngoại giao đã góp phần tích cực bảo vệ chủ quyền biển đảo, toàn vẹn lãnh thổ, trong khi chúng ta vẫn duy trì và tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước liên quan, hòa bình, ổn định ở khu vực.
4. Trong bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều tác động không thuận đến kinh tế nước ta, ngoại giao kinh tế được đẩy mạnh, tham gia cùng với những ngành kinh tế đối ngoại tranh thủ những nguồn lực từ bên ngoài phục vụ cho đất nước. Lần đầu tiên trong lịch sử, xuất khẩu của đất nước đạt gần 200 tỷ USD. Mặc dù các nước tài trợ khó khăn nhưng vẫn cam kết viện trợ ODA cho ta gần 8 tỷ USD, nguồn FDI vẫn được đăng ký ở mức gần 14 tỷ USD.
5. Công tác bảo hộ công dân năm qua đã làm được nhiều việc quan trọng: đưa được gần 10.000 công nhân trở về an toàn từ Lybia, sơ tán an toàn toàn bộ học sinh và người Việt Nam ra khỏi vùng ảnh hưởng hạt nhân do động đất sóng thần Nhật Bản,... Công tác bảo vệ ngư dân và ngư trường truyền thống của nước ta tiếp tục là trọng tâm của ngành ngoại giao năm qua. Cùng với đó là công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài vẫn được thường xuyên chú trọng.
6. Ngoại giao văn hóa tuy còn non trẻ nhưng cũng dành được nhiều thành tựu: năm qua 3 di sản văn hóa của đất nước đã được UNESCO công nhận: thành Nhà Hồ được công nhận là di sản văn hóa thế giới, Hát xoan Phú thọ được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể cần bảo về khẩn cấp của nhân loại, Khu dự trữ sinh quyển Cát tiên được mở rộng thành khu dự trữ sinh quyển Đồng Nai.
7. Hội nghị Ngoại giao 27 thành công cũng là niềm tự hào của ngành Ngoại giao. Hội nghị đã chuẩn bị hành trang cho những người làm công tác đối ngoại trong năm 2012 và những năm tiếp theo, nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI.
Nhìn chung, với nỗ lực và quyết tâm rất lớn trong năm qua, ngành ngoại giao đã đóng góp vào những thành tựu chung của cả nước, góp phần tạo thế và lực mới để đất nước đứng vững và phát triển trước những thử thách của thời cuộc.
Bộ trưởng Phạm Bình Minh tại studio trực tiếp của VOV (ảnh: Huy Phương) |
Câu hỏi 2: Thưa Bộ trưởng, theo nhận định của giới chuyên gia, các diễn biến phức tạp về kinh tế-chính trị trên thế giới sẽ còn kéo dài, làm ảnh hưởng, thậm chí làm thay đổi diện mạo thế giới và quan hệ giữa các quốc gia. Vậy theo ông, điều đó tác động thế nào tới công tác đối ngoại của Việt Nam?
Bộ trưởng Phạm Bình Minh: Những diễn biến và khó khăn của thế giới của năm 2011 sẽ còn tiếp tục trong năm 2012 và sẽ tác động rất nhiều đến việc triển khai công tác đối ngoại sắp tới, đòi hỏi ngành ngoại giao phải tỉnh táo, và khéo léo xử lý thách thức, tranh thủ thuận lợi:
1. Đối với thách thức:
- Tình hình thế giới và các khu vực diễn biến nhanh chóng, phức tạp và khó dự đoán hơn. Xung đột cục bộ, tranh giành lãnh thổ, tài nguyên gia tăng, tạo ra nguy cơ đối với chủ quyền và an ninh các quốc gia. Thiên tai, biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp hơn. Do vậy công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược của Ngoại giao sẽ phải tăng cường hơn nữa. Chúng ta sẽ phải luôn đề cao cảnh giác với những tình huống bất lợi có thể xảy ra; phải lấy phương châm “dĩ bất biến ứng vạn biến” để ứng xử với những tình huống bất ngờ; lấy lợi ích đất nước làm nền tảng căn bản để giải quyết những tình huống nảy sinh.
- Kinh tế thế giới đang khủng hoảng và đang trong quá trình tái cấu trúc theo hướng kinh tế xanh, kinh tế tri thức. Ngoại giao kinh tế cũng phải tập trung theo dõi những chiều hướng này, đẩy mạnh công tác thông tin, tham mưu cho chính phủ.
2. Tranh thủ thuận lợi:
- Trước hết, công tác đối ngoại đã được định hướng bởi Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI. Những khó khăn, thuận lợi, những phương hướng và nhiệm vụ lớn triển khai chính sách đối ngoại đã được đề ra. Ngành ngoại giao phải quán triệt sâu sắc tinh thần Nghị quyết làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động của mình;
- Nhân tố chủ quan hết sức quan trọng là thế và lực nước ta nay đã khác trước. Những thành tựu qua 25 năm tiến hành công cuộc Đổi mới đã đem lại cho đất nước diện mạo mới, sức mạnh tổng hợp quốc gia không ngừng tăng, vai trò và vị thế của ta tại khu vực và trên trường quốc tế được đánh giá cao. Đây là tiền đề quan trọng, là “vốn” quý để ta triển khai thành công các nhiệm vụ đối ngoại mà Đại hội lần thứ XI vừa qua đã đề ra.
- Trong bối cảnh hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn trên thế giới, Ngoại giao cần triệt để thực hiện tư tưởng chỉ đạo đối ngoại của Đảng: độc lập, tự chủ, hòa bình và hợp tác phát triển.
- Ngoại giao cần tranh thủ phát huy vai trò tích cực trong cục diện thế giới đa cực, xu thế dân chủ hóa quan hệ quốc tế, nhất là trong các thể chế toàn cầu và khu vực như Liên Hợp Quốc, ASEAN, APEC, EAS, WTO và TPP…
- Ngoại giao cần tranh thủ và phát huy lợi thế của nước thành viên ASEAN, ở khu vực đang phát triển năng động nhất trên thế giới.
Tôi nêu một số ví dụ như vậy để thấy rằng, đối với nước ta, thời cơ và thách thức luôn tồn tại và đan xen. Công tác đối ngoại của ta, do vậy, cần biết nắm bắt và tận dụng được thời cơ để hóa giải những thách thức, tạo dựng được thế đứng tốt nhất cho đất nước.
Bác Hồ đã dạy: “Không có việc gì khó, chỉ sợ lòng không bền, đào núi và lấp biển, quyết chí ắt làm nên”.
Câu hỏi 3: Chúng ta đều biết, chưa bao giờ Việt Nam có được vị thế quốc tế thuận lợi như ngày hôm nay, chúng ta có quan hệ ngoại giao với tất cả các nước lớn, các khu vực động lực phát triển của thế giới. Vấn đề đặt ra hiện nay là làm sao có thể xử lý tốt mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước lớn trên thế giới do các nước luôn có lợi ích và quan tâm khác nhau?
Bộ trưởng Phạm Bình Minh: Các nước lớn luôn có vai trò rất quan trọng đối với quan hệ quốc tế, trong vấn đề hòa bình, ổn định và an ninh trên thế giới và tại các khu vực, tác động trực tiếp đến an ninh, phát triển và các mối quan hệ toàn cầu. Việc xử lý mối quan hệ với các nước nói chung, nhất là với các cường quốc luôn là vấn đề phức tạp. Tuy nhiên, cần phải nhắc lại là chúng ta đang sống ở thời kỳ dân chủ hóa các mối quan hệ quốc tế, các quốc gia đều bình đẳng, tính tùy thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia dù lớn hay nhỏ ngày càng gia tăng.
Nguyên tắc cơ bản trong chính sách đối ngoại của chúng ta là bất kỳ mối quan hệ với bất kỳ quốc gia cũng dựa trên nguyên tắc: Hữu nghị, Hợp tác, Phát triển, Cùng có lợi. Điều căn bản là những hoạt động của nước ta với các nước không làm phương hại tới bất kỳ nước nào khác. Chúng ta nhất quyết không chủ trương liên minh với bất kỳ nước nào để chống lại bất cứ nước nào khác. Tuy nhiên, bất cứ quốc gia nào cũng có những ưu tiên đối ngoại của mình. Điều ai cũng nhận thấy là nước ta có mối quan hệ hữu nghị truyền thống với các nước láng giềng, các nước xã hội chủ nghĩa anh em, mối quan hệ cộng đồng của chúng ta và các nước ASEAN.
Về tổng thể, nước ta có quan hệ với ngoại giao với 180 nước, quan hệ kinh tế với hơn 200 nước và vùng lãnh thổ, quan hệ hợp tác chặt chẽ với cả năm nước thường trực Hội đồng bảo an LHQ. Với các nước lớn chúng ta cũng đều có những mối quan hệ đặc biệt: Với TQ, ta có quan hệ “Đối tác, hợp tác chiến lược toàn diện”; Quan hệ “Đối tác chiến lược” được thiết lập với Cộng hòa Liên bang Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ và một số quan hệ đối tác chiến lược khác. Mối quan hệ của nước ta và Hoa Kỳ có vấn đề về lịch sử. Thể chế chính trị, quan điểm nhân quyền, tôn giáo còn nhiều điểm khác nhau nhưng đã phát triển nhanh và đang hướng tới tầm cao hơn.
Câu hỏi 4: Thưa ông, năm 2011 được nhận định là một năm mà xu hướng thế giới đa cực trở nên rõ nét hơn, sự chuyển dịch trọng tâm từ Tây sang Đông cũng trở nên rõ ràng với vai trò nổi bật của khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Nằm ở khu vực này, Việt Nam có những cơ hội và thách thức gì ?
Bộ trưởng Phạm Bình Minh: Còn quá sớm để cho rằng thế kỷ 21 là Thế kỷ Thái Bình Dương. Nhưng điều dễ nhận thấy là châu Á-Thái Bình Dương đang nổi lên như một khu vực năng động về kinh tế. Quá trình liên kết kinh tế khu vực đang diễn ra mạnh mẽ, cấu trúc khu vực với nhiều tầng nấc, nhiều cơ chế đang được hình thành và phát triển, trong đó vai trò đầu tầu và hạt nhân của ASEAN được củng cố. Các nước lớn đều đang tập trung sự chú ý vào khu vực, nhiều nước đã coi Châu Á – Thái Bình Dương là trọng tâm trong chính sách đối ngoại của mình.
Tuy nhiên, khu vực cũng đứng trước những thách thức mới, nhất là cạnh tranh ảnh hưởng và lợi ích giữa các nước lớn ngày càng gay gắt, tranh chấp biên giới lãnh thổ, nguồn tài nguyên gia tăng; tình hình nội trị nhiều nước diễn biến phức tạp và các vấn đề an ninh phi truyền thống ngày càng nghiêm trọng.
Là thành viên tích cực của các cấu trúc khu vực như ASEAN, APEC, EAS... chúng ta cần phát huy vai trò chủ động, tích cực, đóng góp vào việc giải quyết những vấn đề chung, cùng nhau hợp tác để phát triển. Những cơ hội thường không lặp lại. Trong một khu vực năng động như vậy, các nước đều tranh thủ cơ hội phát triển nhanh, nếu ta bỏ lỡ cơ hội, chậm chân, nguy cơ tụt hậu sẽ là nguy cơ lớn nhất mà chúng ta phải đối mặt. Ngành ngoại giao phải chủ động tích cực hơn nữa để phát huy vai trò của đất nước trong khu vực.
Câu hỏi 5: Vậy theo Bộ trưởng, Việt Nam làm thế nào để thể hiện vai trò chủ động, tích cực của mình ?
Tổng Giám đốc VOV Nguyễn Đăng Tiến tặng hoa Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh (ảnh: Thu Thuỷ)
Bộ trưởng Phạm Bình Minh: Chúng ta vừa nói tới vị trí nước ta trong khu vực phát triển năng động như vậy, chúng ta không thể thụ động để bị cuốn theo xu thế.
Điểm mới trong chính sách đối ngoại của Đảng nhằm nâng cao hơn nữa vị thế và vai trò của đất nước là chính sách “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”.
Xin nhớ lại là ở Đại hội X chúng ta mới chỉ nói tới “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực khác. Với chủ trương mới của Đại hội XI, Hội nhập quốc tế không chỉ còn bó hẹp trong lĩnh vực kinh tế mà còn mở rộng ra tất cả các lĩnh vực khác kể cả chính trị, quốc phòng, an ninh và văn hóa-xã hội…
Hội nhập quốc tế trên các lĩnh vực sẽ mang lại nhiều cơ hội, nhất là khả năng tranh thủ hiệu quả hơn các nguồn lực bên ngoài, mở ra cơ hội tiếp cận tri thức tiên tiến của nhân loại, gia tăng mức độ đan xen lợi ích, từng bước đưa đất nước trở thành bộ phận hữu cơ của khu vực và thế giới.
Từ chủ trương “muốn là bạn” (Đại hội VII), “sẵn sàng là bạn” (Đại hội VIII), “là bạn và đối tác tin cậy” (Đại hội IX), Đại hội XI đã bổ sung thêm thành “Thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”. Nội hàm này thể hiện bước trưởng thành của ngoại giao Việt Nam với sự tham gia ngày càng tích cực, chủ động, có trách nhiệm của nước ta tại các cơ chế/tổ chức, diễn đàn khu vực, đa phương và toàn cầu, góp phần củng cố, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, bổ sung, hỗ trợ hiệu quả ngoại giao song phương.
Sự chủ động tích cực sẽ thể hiện qua chủ trương làm cho mối quan hệ song phương của nước ta với các nước sâu sắc hơn, phát triển ổn định theo chiều sâu, hiệu quả. Trong thời gian tới, ta sẽ chủ động xây dựng các đối tác chiến lược với các đối tác quan trọng, đồng thời nâng tầm các đối tác chiến lược và đối tác toàn diện hiện có
Sự chủ động tích cực còn được thể hiện trong việc xác định một trong những ưu tiên đối ngoại trong thời gian tới là “xây dựng cộng đồng ASEAN vững mạnh”. Tuy mới ra nhập ASEAN 15 năm nay nhưng vị trí và vai trò của nước ta trong ASEAN đã được khẳng định.
Từ thụ động triển khai các chính sách, sáng kiến, của tổ chức ASEAN trong giai đoạn đầu mới ra nhập, chúng ta đã chủ động đưa nhiều sáng kiến, đóng góp cho việc xây dựng và củng cố ASEAN. Hai sự kiện quan trọng thể hiện sự chủ động tích cực của Việt Nam là đảm nhiệm thành công vai trò Ủy viên không thường trực HĐBA LHQ năm 2008-2009 và Chủ tịch ASEAN năm 2010. Tại các diễn đàn đa phương khu vực và quốc tế khác, ta đều tham gia một cách chủ động, tích cực và có trách nhiệm như tại các cơ quan của LHQ, WTO, APEC, ASEM…
Thời gian tới Ngoại giao Việt Nam sẽ phát huy vai trò là một thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế thông qua việc đề ra các sáng kiến, đóng góp vào việc giải quyết các vấn đề toàn cầu như duy trì hòa bình và an ninh quốc tế, an ninh hàng hải, an ninh nguồn nước, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, nước biển dâng, an ninh năng lượng, an ninh hạt nhân. Chống phổ biến và giải trừ vũ khí hủy diệt hàng loạt. Có thể thấy rằng đây cũng chính là những vấn đề thiết thân của đất nước ta. Tham gia giải quyết các vấn đề chung của nhân loại cũng chính là góp phần xử lý các vấn đề của đất nước ta.
Câu hỏi 6: Bối cảnh khó khăn chung của toàn cầu sau khủng hoảng tài chính đang đặt ra nhiều vấn đề đối với quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam. Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã xác định rằng Việt Nam phải xây dựng một chiến lược tổng thể, bài bản hơn về hội nhập kinh tế quốc tế. Vậy Bộ Ngoại giao dự định như thế nào để triển khai kế hoạch này, thưa Bộ trưởng?
Bộ trưởng Phạm Bình Minh: Thủ tướng đã chỉ đạo. Việc xây dựng chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế tổng thể là hết sức cần thiết và cấp bách. Chiến lược tổng thể sẽ giúp chúng ta triển khai hội nhập kinh tế quốc tế với tầm nhìn dài hạn, có trọng tâm, trọng điểm, ưu tiên, lộ trình và biện pháp rõ ràng, đồng thời giúp chúng ta chuẩn bị ở trong nước chủ động và bài bản hơn, nhất là năng lực thực hiện các cam kết quốc tế.
Đây là một trong các nhiệm vụ trọng tâm của ngành Ngoại giao trong thời gian tới. Phát huy thế mạnh của mạng lưới các cơ quan đại diện ta trên thế giới và trên góc độ chính trị đối ngoại, chúng tôi sẽ tập trung tích cực cùng các Bộ, ngành xây dựng Chiến lược tổng thể này, đặc biệt là trong việc tham mưu, đánh giá xu thế tình hình, tương quan lực lượng để có thể đề xuất lựa chọn đúng đối tác kinh tế - thương mại, các bước đi phù hợp, xác định đúng lộ trình, thời điểm, đồng thời tìm hiểu kinh nghiệm, bài học các nước về hội nhập.
Như vậy, ngành Ngoại giao cần đổi mới tư duy, cách tiếp cận, để chuyển từ "phục vụ, hỗ trợ" sang "triển khai" hội nhập kinh tế quốc tế, bảo đảm chính trị đối ngoại gắn kết chặt chẽ với kinh tế đối ngoại, bảo đảm hội nhập kinh tế quốc tế là nền tảng, nội hàm then chốt của hội nhập quốc tế toàn diện.
Câu hỏi 7: Xin Bộ trưởng cho thính giả thêm thông tin về định hướng hội nhập kinh tế quốc tế chuyển từ "chiều rộng, gia nhập, ký kết" sang "chiều sâu, tham gia, thực hiện"?
Bộ trưởng Phạm Bình Minh: Trong 25 năm đổi mới vừa qua, chúng ta đã triển khai một cách tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, đã thiết lập quan hệ kinh tế, thương mại với trên 200 quốc gia và vùng lãnh thổ, trở thành thành viên và tham gia đầy đủ các tổ chức, cơ chế hợp tác kinh tế từ khu vực (Tiểu vùng Mekong, ASEAN, Cấp cao Đông Á, APEC), đến liên khu vực (ASEM,
FEALAC) và toàn cầu (như WTO), đã ký 8 Hiệp định mậu dịch tự do với các đối tác. Tới nay, tổng xuất nhập khẩu của Việt Nam đã chiếm tới 170% của GDP, cho thấy Việt Nam là một trong những quốc gia có mức độ hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng.
Cùng với thời kỳ phát triển mới, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta cũng bước vào giai đoạn mới về chất, đó là hội nhập chuyển theo hướng "chiều sâu, tham gia và thực hiện". Chiều sâu ở đây có nghĩa là đã đến lúc chúng ta cần nâng tầm các mối quan hệ và tạo dựng các khuôn khổ hợp tác kinh tế - thương mại theo hướng dài hạn, đưa quan hệ với các đối tác đi vào chiều sâu, thực chất. Về tham gia, tức là chúng ta cần thực hiện mạnh mẽ hơn chủ trương là đối tác tin cậy và có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế tại các tổ chức, cơ chế mà chúng ta đã là thành viên, cần đề cao tiếng nói và vai trò của Việt Nam thông qua chủ động đề xuất các sáng kiến, đi đầu trong một số nội dung hợp tác, tham gia tích cực hơn vào giải quyết các vấn đề chung của cộng đồng quốc tế. Bên cạnh đó, giai đoạn 5-10 năm tới cũng là giai đoạn chúng ta phải thực hiện, hoàn tất các cam kết quốc tế, đó là các cam kết gia nhập WTO, xây dựng cộng đồng ASEAN và các cam kết trong khuôn khổ các Hiệp định mà chúng ta đã ký kết. Tôi cho rằng, giai đoạn sắp tới là giai đoạn, mà theo cách nói dân gian là "làm và phải làm cho tốt".
Câu hỏi 8: Theo Bộ trưởng, các mối quan hệ đối tác chiến lược với các nước có giá trị như thế nào trong bước đường hội nhập kinh tế của chúng ta?
Bộ trưởng Phạm Bình Minh: Việc xây dựng các khuôn khổ đối tác chiến lược là một chủ trương quan trọng của Đảng và Nhà nước ta nhằm thúc đẩy quan hệ giữa Việt Nam và các nước đối tác quan trọng hàng đầu đi vào chiều sâu, ổn định, thực chất và phục vụ các mục tiêu đối ngoại của Việt Nam là an ninh, phát triển và nâng cao vị thế của đất nước.
Một trong những mục tiêu của việc xây dựng các khuôn khổ này là nhằm thúc đẩy hợp tác kinh tế, tạo môi trường thuận lợi hơn, giữa hai bên có giành cho nhau những chính sách kinh tế ưu tiên, ưu đãi hơn, trong đó có thương mại, đầu tư, viện trợ phát triển…, đưa mức độ liên kết kinh tế lên một tầm cao mới. Riêng về hợp tác và liên kết kinh tế, ta và các nước đối tác đã thu được những kết quả rất tích cực:
+ Ví dụ như với Trung Quốc, kim ngạch thương mại gia tăng mạnh, đạt 31,72 tỷ USD đến cuối tháng 11/2011, đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam đạt 4,25 tỷ USD. Hai nước thúc đẩy việc phát triển các hành lang kinh tế, kết nối cơ sở hạ tầng.
+ Hợp tác kinh tế giữa ta và Nga được tăng cường mạnh mẽ với trọng tâm là dầu khí, năng lượng, Nga cũng được Việt Nam chọn là đối tác xây dựng nhà máy điện hạt nhân đầu tiên tại Việt Nam.
+ Với Nhật Bản, hai nước đã ký thỏa thuận xây dựng nhà máy điện hạt nhân, khai thác đất hiếm, Nhật thực hiện một số dự án cơ sở hạ tầng và giao thông quan trọng tại Việt Nam. Nhật tiếp tục là đối tác hàng đầu của ta về hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) với tổng cam kết đến hết năm 2011 đạt 17,7 tỷ USD, kim ngạch thương mại 11 tháng đầu năm 2011 đạt 18,8 tỷ USD. Mới đây nhất, Nhật đã công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường.
+ Hàn Quốc đã trở thành nhà đầu tư lớn nhất vào Việt Nam với số vốn cam kết đạt 23,6 tỉ USD đến cuối tháng 11/2011 và là đối tác thương mại lớn thứ 4 của Việt Nam với tổng kim ngạch đạt 16 tỉ USD.
+ Mỹ trở thành thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với xuất khẩu của ta đạt 13,88 tỷ USD trong 10 tháng đầu năm 2011, là nhà đầu tư lớn thứ 7 với trên 13 tỷ USD vốn cam kết. Việt Nam đã được hưởng quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn của Mỹ.
+ Với các đối tác quan trọng khác, ta cũng thu được những kết quả tích cực, ví dụ EU là một trong những nhà tài trợ phát triển chính thức hàng đầu cho Việt Nam, Đức cam kết thúc đẩy EU công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường.
Đồng thời, ta cũng đã nghiên cứu và triển khai việc đàm phán về các Hiệp định khu vực mậu dịch tự do song phương và nhiều bên với một số đối tác kinh tế - thương mại hàng đầu của ta nhằm tận dụng những thuận lợi từ xu hướng này, đồng thời đảm bảo lợi ích cao nhất của đất nước. Tất nhiên, không phải với đối tác nào, mức độ hợp tác và liên kết kinh tế cũng trở nên sâu sắc như nhau.
Trong hợp tác kinh tế với các nước, ta còn nhiều việc phải làm, ví dụ phải khắc phục thâm hụt thương mại với một số đối tác. Nhưng nhìn chung, những kết quả trên cho thấy việc triển khai các mối quan hệ đối tác chiến lược đã đem lại những kết quả hết sức quan trọng, trong đó có lĩnh vực kinh tế, về cơ bản đáp ứng các lợi ích căn bản của đất nước, góp phần quan trọng trong việc tranh thủ các điều kiện bên ngoài nhằm phục vụ cho công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa của Việt Nam, phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao vị thế của Việt Nam ở khu vực và trên thế giới.
Câu hỏi 9: Thưa Bộ trưởng, Việt Nam đã chuyển sang một thời kỳ hội nhập sâu hơn với thế giới. Không chỉ hội nhập về kinh tế, chúng ta sẽ hội nhập toàn diện, cả về chính trị, văn hóa, xã hội…. Ngành ngoại giao Việt Nam sẽ tham gia thúc đẩy quá trình này như thế nào? Theo ông, trong quá trình này, chúng ta phải chú ý những vấn đề gì?
Bộ trưởng Phạm Bình Minh: Đại hội XI của Đảng ta đã đề ra đường lối đưa nước ta bước sang thời kỳ hội nhập toàn diện với thế giới, từ hội nhập kinh tế thuần túy, chúng ta sẽ mở rộng hợp tác sâu rộng sang các lĩnh vực chính trị, an ninh, quân sự, văn hóa, xã hội…
Tại Hội nghị Ngoại giao 27 vừa qua, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng khi giao nhiệm vụ cho ngành ngoại giao cũng đã nhấn mạnh như vậy. Lãnh đạo Đảng và Nhà nước đã giao Bộ Ngoại giao cùng các Bộ, ngành khác chuẩn bị xây dựng nhiều văn kiện quan trọng cho tiến trình này, trong đó có Chiến lược tổng thể về hội nhập quốc tế từ nay đến 2020.
Tôi muốn nhấn mạnh một số nội dung chính của Hội nhập quốc tế là:
- Hội nhập kinh tế quốc tế vẫn là ưu tiên hàng đầu nhằm tranh thủ nguồn lực bên ngoài cho phát triển đất nước. Trong 5 năm tới, chúng ta sẽ phải xây dựng các kế hoạch, mục tiêu, tập trung thu hút các nguồn lực đầu tư, ODA, mở rộng thị trường, xuất khẩu lao động, du lịch… phù hợp với các định hướng phát triển mới của đất nước.
- Đồng thời thúc đẩy quan hệ chính trị, an ninh, quân sự văn hóa, giáo dục, khoa học kỹ thuật, … nhằm góp phần tạo dựng môi trường thuận lợi phục vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc và nâng cao thế và lực của Việt Nam.
Trong quá trình đó, chúng ta cũng phải có nghiên cứu, đề xuất, xây dựng những quyết định dài hạn về hội nhập; chủ động và tích cực tham gia các diễn đàn đa phương quốc tế và khu vực; đưa ra những sáng kiến vừa phù hợp với lợi ích của ta, vừa đóng góp vào việc giải quyết các công việc quốc tế, qua đó bảo vệ tốt nhất cho các lợi ích an ninh và phát triển của Việt Nam.
Tuy nhiên, hội nhập quốc tế toàn diện đặt ra cho chúng ta một số thách thức mới. Hội nhập toàn diện đòi hỏi khối lượng công việc khổng lồ để bổ sung, hoàn thiện thể chế, cải cách và hiện đại hóa nền hành chính quốc gia, phát triển nguồn nhân lực… Tuy nhiên cần khẳng định một điều, mọi mối quan hệ quốc tế trong bất kỳ điều kiện nào cần phải tôn trọng sự khác biệt về thể chế chính trị như một sự tự do lựa chọn mô hình phát triển của nhân loại.
Những mặt trái của hội nhập cũng có thể ảnh hưởng tới nước ta nếu không chuẩn bị kỹ. Ví dụ, bất ổn không chỉ về kinh tế mà cả về an ninh chính trị, xã hội từ bên ngoài có thể sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống kinh tế xã hội của đất nước. Phạm vi và tốc độ lây lan của những biến động từ bên ngoài cũng tăng lên.
Câu hỏi 10: Thời gian qua, ngoại giao Việt Nam dựa trên 3 trụ cột là ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hóa. Song bên cạnh đó, ngành ngoại giao cũng nhấn mạnh vào một trọng tâm là công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài. Bộ trưởng đánh giá như thế nào về sự gắn kết giữa trong nước và bà con ở nước ngoài?
Bộ trưởng Phạm Bình Minh: Công tác đối với Người Việt Nam ở nước ngoài là một trọng tâm thường xuyên và quan trọng của ngành ngoại giao. Nghị quyết số 36-NQ/TW của Bộ Chính trị đã khẳng định: “Người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận không tách rời và là một nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa nước ta với các nước”. Nội dung này vừa đúc kết thực tiễn vừa khẳng định quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về sự cần thiết phát huy tinh thần đoàn kết, gắn bó giữa đồng bào ta ở trong và ngoài nước.
Bên cạnh đó, Đảng, Nhà nước, các cơ quan chức năng, địa phương, đoàn thể và nhân dân trong nước đã có nhiều hoạt động nhằm tạo điều kiện, hỗ trợ để đồng bào ta ở nước ngoài có cuộc sống ổn định, phát triển, hoà nhập và đóng góp cho xã hội sở tại, phát huy vai trò làm cầu nối hữu nghị với nhân dân các nước.
Nhờ chính sách Đại đoàn kết đúng đắn của Đảng ta, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài ngày càng hướng về Tổ quốc, gắn bó với quê hương, đất nước. Trung bình mỗi năm có khoảng nửa triệu lượt kiều bào về thăm thân, du lịch, đầu tư. Nhiều chuyên gia, trí thức kiều bào về tham gia nghiên cứu, giảng dạy trong nước. Qua các phương tiện thông tin đại chúng chúng ta dễ dàng nhận thấy sự tham gia ngày càng nhiều của những người Việt Nam ở nước ngoài trong đời sống đất nước: từ đầu tư, kinh doanh, giáo dục, khoa học kỹ thuật, biểu diễn nghệ thuật tới các hoạt động trong các ngành giải trí, truyền thông của đất nước….
Điều đáng mừng khác là vị thế của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài ngày càng được nâng cao. Nhờ đức tính cần cù, chăm chỉ cộng với trí tuệ thông minh, khéo léo, cộng đồng người Việt Nam ngày càng đóng góp nhiều hơn cho phát triển xã hội của đất nước nơi họ sinh sống. Thông qua họ, văn hóa, ẩm thực và hình ảnh của con người Việt Nam yêu chuộng hòa bình, thân thiện đã ăn sâu vào tâm thức của nhân dân thế giới. Qua đó, nền văn hóa giàu tính nhân văn của người Việt đã được quảng bá rộng rãi ra nước ngoài.
Trong thời gian tới, Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài sẽ tiếp tục được củng cố và tăng cường nhằm:
- Góp phần nâng cao vị thế, của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài;
- Củng cố địa vị pháp lý của bà con ở một số khu vực nhằm tạo thuận lợi cho việc cư trú, làm ăn của bà con ta ở nước sở tại;
- Kiến nghị xây dựng các chính sách tạo thuận lợi cho kiều bào trong các thủ tục về quốc tịch, xác nhận nguồn gốc Việt Nam, Thủ tục và chính sách mua nhà trong nước, đầu tư về nước, miễn thị thực, thăm thân, hỗ trợ các hoạt động giữ gìn truyền thống, văn hoá, tiếng Việt...
Tôi tin rằng, các biện pháp, hoạt động trên sẽ tạo điều kiện để bà con đóng góp nhiều hơn nữa vào đất nước sở tại, đồng thời hướng về quê hương đất nước, và trở thành cầu nối thúc đẩy quan hệ hữu nghị giữa nước ta với các nước.
Câu hỏi 11: Theo Bộ trưởng, làm thế nào để thu hút hơn nữa sự đóng góp của người Việt Nam ở nước ngoài đối với quê hương, cũng như tăng cường vai trò cầu nối của họ trong việc thúc đẩy quan hệ hữu nghị giữa nước ta và các nước trên thế giới?
Bộ trưởng Phạm Bình Minh: Vừa qua, tại Hội nghị Ngoại giao 27, Bộ đã thông qua Chương trình hành động xác định những trọng tâm công tác trong thời gian tới, trong đó xác định tập trung triển khai sâu rộng, toàn diện công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài nhằm tạo chuyển biến toàn diện về chất qua các biện pháp sau:
Thứ nhất, tiếp tục thể chế hóa Nghị quyết 36-NQ/TW của Bộ Chính trị về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài, tạo sự đồng bộ, nhất quán trong toàn hệ thống chính trị đối với công tác này. Rà soát và bổ sung sửa đổi các văn bản liên quan đến các vấn đề thiết thân đối với bà con như quốc tịch, miễn thị thực, mua và sở hữu nhà trong nước, đầu tư về trong nước… nhằm đáp ứng nhu cầu và nguyện vọng chính đáng của kiều bào; Hoàn thiện và trình Chính phủ ban hành Đề án chính sách, biện pháp thu hút chuyên gia, trí thức người Việt Nam ở nước ngoài xây dựng đất nước. Tích cực triển khai Đề án đẩy mạnh công tác tiếng Việt đối với người Việt Nam ở nước ngoài đến năm 2020.
Thứ hai, tăng cường phối hợp xây dựng và triển khai các biện pháp hỗ trợ kiều bào ổn định, hội nhập vào cuộc sống ở nước sở tại. Thông qua các mối quan hệ song phương, nâng cao địa vị pháp lí và uy tín của cộng đồng với chính quyền sở tại; động viên cộng đồng đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau; hỗ trợ cộng đồng duy trì các hoạt động văn hoá, giữa gìn bản sắc dân tộc.
Thứ ba, đẩy mạnh các hoạt động tập hợp cộng đồng, củng cố và tăng cường hoạt động của các Hội đoàn người Việt theo phương châm “nơi nào có người Việt, nơi đó có tổ chức” như Tổ chức tốt Hội nghị Người Việt Nam ở nước ngoài lần thứ hai, thúc đẩy hoạt động của Hiệp hội doanh nhân Việt nam ở nước ngoài. Sử dụng hiệu quả Quỹ Hỗ trợ và vận động cộng đồng. Thúc đẩy các hoạt động quảng bá hình ảnh đất nước, hợp tác đầu tư, thương mại, khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo… Chú trọng công tác thông tin – văn hóa phục vụ cộng đồng bằng các phương thức thích hợp, các hoạt động giao lưu với trong nước và công tác khen thưởng, đặc biệt đối với thế hệ trẻ kiều bào.
Để làm được điều này, đòi hỏi sự tham gia của toàn bộ hệ thống chính trị, các cơ quan, ban ngành và địa phương. Nhận thức kiều bào là bộ phận máu thịt của dân tộc, chúng ta có trách nhiệm bảo vệ quyền lợi cũng như hỗ trợ, tạo thuận lợi để bà con xây dựng cuộc sống ổn định và hướng về đất nước.
Câu hỏi 12: Bây giờ chúng ta trở lại với khu vực gần gũi với Việt Nam, đó là ASEAN. Thưa ông, nói một cách vắn tắt, việc hình thành cộng đồng ASEAN có điểm gì giống và khác nhau so với khối liên hiệp Châu Âu EU?
Bộ trưởng Phạm Bình Minh: ASEAN và EU có những nét tương đồng song cũng có nhiều điểm khác biệt do đặc thù của mỗi khu vực. Điểm chung giữa ASEAN và EU là quá trình hình thành hai tổ chức này gắn liền với mục tiêu thúc đẩy hợp tác và phát triển ở khu vực, lấy liên kết kinh tế làm cốt lõi, qua đó, nâng cao sức mạnh chính trị và lợi thế chung của khu vực dựa trên sự kết hợp về quy mô.
Về điểm khác biệt: quan trọng nhất là bản chất của liên kết.
- EU hoạt động dựa trên sự kết hợp giữa 2 tính chất liên chính phủ và siêu quốc gia. Bên cạnh một số lĩnh vực mà các quyết định vẫn được đưa ra trên cơ sở thỏa thuận liên chính phủ, EU đã thiết lập một số thể chế mang tính siêu quốc gia như Ủy ban châu Âu, Nghị viện châu Âu… và thẩm quyền quyết định của khối trên một số lĩnh vực như tiền tệ, thương mại… vượt trên cả chủ quyền của các quốc gia. Quá trình hình thành EU bắt đầu từ liên kết kinh tế, sau đó, mở rộng sang liên kết chính trị, đối ngoại, quân sự, tư pháp… theo xu hướng tăng dần tính siêu quốc gia, trao thêm nhiều quyền hơn cho tổ chức, trong khi các quốc gia thành viên chấp nhận hy sinh một phần các quyền chủ quyền của mình.
- Trong khi đó, ASEAN vẫn lấy bản chất là hợp tác liên chính phủ, mọi quyết định đều được đưa ra trên cơ sở đồng thuận của tất cả các quốc gia; chủ quyền và lợi ích quốc gia vẫn được đặt lên hàng đầu. Liên kết ASEAN bắt đầu từ hợp tác về kinh tế và các lĩnh vực chuyên ngành như văn hóa, xã hội, khoa học, giáo dục… song song với việc củng cố sự gắn kết về chính trị, và tới nay được thể chế hóa thành 3 trụ cột chính của Cộng đồng ASEAN là Chính trị-An ninh, Kinh tế và Văn hóa-xã hội. Tuy nhiên, với bản chất liên Chính phủ, mức độ và tốc độ liên kết của ASEAN sẽ khó có thể nhanh và sâu như kiểu EU, mà chủ yếu tiến hành tiệm tiến, trên cơ sở nhu cầu chung của khu vực và lợi ích của từng quốc gia.
Câu hỏi 13: Chúng tôi có cảm giác là mặc dù có thông tin, tuyên truyền khá nhiều nhưng cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân Việt nam có vẻ chưa hiểu rõ lắm về ích lợi cũng như thách thức đặt ra một khi cộng đồng ASEAN hình thành, do đó cũng chưa có kế hoạch tốt để chủ động khai thác quá trình này. Ý kiến của ông về vấn đề này như thế nào?
Bộ trưởng Phạm Bình Minh: Đúng là trên thực tế, nhận thức của phần lớn người dân nói chung cũng như các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng về ASEAN và các cơ hội do tham gia ASEAN đem lại cho Việt Nam chưa đầy đủ. Đây cũng là một khía cạnh quan trọng cần được quan tâm khắc phục trong thời gian tới. Mục tiêu ASEAN đang hướng tới là xây dựng một Cộng đồng hướng về người dân, do đó, rất cần để người dân hiểu và ý thức được những quyền và lợi ích của mình khi là một thành viên trong Cộng đồng ASEAN. Đơn cử như việc triển khai xây dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) và thực hiện các FTA/CEP giữa ASEAN với các Đối tác thương mại lớn như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Australia, New Zealand … sẽ đem lại những tiềm năng xuất khẩu và khả năng thu hút đầu tư lớn cho các doanh nghiệp ASEAN, trong đó có Việt Nam.
Việc miễn thị thực cho công dân Việt Nam mang hộ chiếu phổ thông tới các nước ASEAN đang tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người dân đi lại giao thương, du lịch trong khu vực. Các chương trình hỗ trợ thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng, miền trong ASEAN, các hoạt động giao lưu nhân dân, trao đổi văn hóa, giáo dục… mà ASEAN đang tiến hành sẽ tạo những cơ hội không nhỏ cho các tầng lớp nhân dân, cần được khai thác tích cực.
- Thời gian tới, Chính phủ, các Bộ/ngành, trong đó có Bộ Ngoại giao, sẽ đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, quảng bá, nâng cao nhận thức chung của người dân về ASEAN sâu rộng và hiệu quả hơn nữa, để đảm bảo những lợi ích của Cộng đồng ASEAN khi hình thành sẽ đến được gần hơn, phục vụ thiết thực hơn người dân của chúng ta.
Câu hỏi 14: Chúng ta phải làm gì để thể hiện Việt Nam là thành viên tích cực có trách nhiệm của ASEAN?
Bộ trưởng Phạm Bình Minh: Việt Nam chủ trương một ASEAN vững mạnh, đoàn kết và liên kết chặt chẽ là lợi ích chiến lược, lâu dài của Việt Nam, đem lại những lợi ích to lớn cho tất cả các nước thành viên. Do đó, Việt Nam luôn nỗ lực hết mình đóng góp cho sự phát triển và lớn mạnh của Hiệp hội. Trong thời gian tới, chúng ta sẽ tập trung theo hướng:
Thứ nhất, chủ động cùng ASEAN thúc đẩy và đề xuất những phương hướng và quyết sách đúng đắn nhằm củng cố đoàn kết, tăng cường hợp tác và liên kết khu vực; tiếp tục mở rộng và làm sâu sắc thêm quan hệ giữa ASEAN với các Đối tác, qua đó, giữ vững vai trò trung tâm của ASEAN trong các tiến trình đối thoại và hợp tác hiện có cũng như trong cấu trúc đang định hình ở khu vực.
Thứ hai, tích cực đề cao vai trò quan trọng của ASEAN trong việc đẩy mạnh đối thoại, hợp tác và xây dựng lòng tin vì hòa bình, an ninh và ổn định ở khu vực; tiếp tục phát huy vai trò và giá trị của các công cụ, cơ chế đảm bảo hòa bình và an ninh hiện có, đồng thời củng cố và hoàn thiện những chuẩn mực ứng xử chung nhằm tạo dựng lòng tin, ngăn ngừa xung đột và giải quyết hòa bình các tranh chấp.
Thứ ba, dành quan tâm và nguồn lực thích đáng thực thi đầy đủ và có trách nhiệm các thỏa thuận và cam kết trong Lộ trình hướng tới xây dựng Cộng đồng ASEAN, đảm bảo hoàn thành các mục tiêu đề ra hiệu quả và đúng thời hạn; cùng ASEAN nỗ lực giải quyết và ứng phó hiệu quả với các thách thức đang đặt ra.
Câu hỏi 15: Ông đánh giá thế nào về sự phối hợp trong ASEAN khi giải quyết các vấn đề của khu vực?
Bộ trưởng Phạm Bình Minh: Thời gian qua, cùng với quá trình đẩy mạnh liên khu vực hướng tới xây dựng Cộng đồng, ASEAN đã nỗ lực tăng cường hợp tác để nâng cao năng lực chung của khu vực ứng phó với các thách thức toàn cầu và các vấn đề nổi lên ở khu vực.
Đối với các vấn đề an ninh truyền thống, liên quan đến hòa bình, ổn định ở khu vực, ASEAN chủ trương thúc đẩy đối thoại xây dựng lòng tin, tích cực tham vấn để thu hẹp khác biệt, tôn trọng các giá trị và chuẩn mực ứng xử chung, cùng nhau giải quyết các tồn tại trên cơ sở luật pháp quốc tế và tập quán của ASEAN, tránh sử dụng vũ lực, làm phức tạp thêm tình hình.
ASEAN sẽ tiếp tục phát huy vai trò và giá trị của các cơ chế và diễn đàn do ASEAN chủ trì như ASEAN+1, ASEAN+3, EAS, ARF, ADMM… và các công cụ đảm bảo hòa bình, an ninh khu vực như TAC, SEANWFZ, DOC… theo hướng này.
Đối với các vấn đề an ninh phi truyền thống, nhất là các thách thức toàn cầu đang nổi lên như thiên tai, dịch bệnh, môi trường, biến đổi khí hậu, an ninh năng lượng, nguồn nước, an toàn hàng hải…, bên cạnh việc tăng cường hợp tác trong khuôn khổ ASEAN, hợp tác với các bên đối tác cũng đang được tích cực thúc đẩy. Phối hợp lập trường giữa các nước ASEAN tại các diễn đàn quốc tế, nhất là trong khuôn khổ Liên Hợp Quốc, về các vấn đề toàn cầu có tác động đến khu vực đã được nâng cao đáng kể.
Sau khi có Hiến chương, với bộ máy tổ chức mới, ASEAN đã thiết lập được cơ chế điều phối nhanh, hiệu quả để phối hợp tham vấn, ra quyết sách chung khi có vấn đề nảy sinh ảnh hưởng đến khu vực. Vai trò của nước Chủ tịch, khả năng triệu tập kịp thời các cuộc họp đặc biệt khi có tình huống bất thường xảy ra, cũng như tinh thần đoàn kết và ý thức chủ động chia sẻ của chính những nước trong cuộc với các thành viên khác trong Hiệp hội đã giúp ASEAN phát huy vai trò tích cực góp phần xử lý nhanh nhạy các vấn đề như cứu trợ các nạn nhân bão Nargis ở Myanmar, căng thẳng trong quan hệ Thái Lan – Campuchia liên quan đến Đền Preah Vihear, vấn đề bảo vệ nguồn nước sông Mekong … Những thể hiện tích cực này ngày càng củng cố hình ảnh và vị thế mới của ASEAN ở khu vực cũng như trên trường quốc tế.
Câu hỏi 16: Thưa Bộ trưởng, một trong những trọng tâm của đối ngoại Việt Nam là tham gia tích cực nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, kể cả trên biển, góp phần duy trì môi trường hòa bình, ổn định cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Có thể nói rằng, một trong những thành tựu ngoại giao năm 2011 là đã xử lý “vững tay” về vấn đề Biển Đông. Điều này được Nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan đánh giá cao. Thưa Bộ trưởng, ông suy nghĩ như thế nào trước ý kiến của Nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan?
Bộ trưởng Phạm Bình Minh: Lãnh thổ, chủ quyền quốc gia là thiêng liêng đối với mỗi dân tộc. Trách nhiệm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia là nhiệm vụ của tất cả các cấp, các ngành và của mỗi người dân Việt Nam, trong đó ngành ngoại giao có sứ mệnh rất quan trọng.
Ngoại giao Việt Nam trong thời gian qua đã chủ động trong việc làm cho bạn bè quốc tế hiểu rõ về thực trạng tình hình Biển Đông và chủ trương chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta trong việc giải quyết tranh chấp ở Biển Đông. Bạn bè quốc tế chia sẻ và đồng tình với những quan điểm của ta trong giải quyết tranh chấp Biển Đông bằng biện pháp hoà bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, Công ước LHQ về luật biển 1982. Đây là một trong những thành quả của công tác ngoại giao. Trong năm 2011 chúng ta cũng đã cùng với các nước ASEAN và Trung Quốc thúc đẩy ký kết Quy tắc hướng dẫn triển khai thực hiện Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC); các nước ASEAN đã cùng nhất trí với nhau về việc xây dựng Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC). Trong thời gian tới, chúng ta sẽ tiếp tục nỗ lực cùng các nước ASEAN thúc đẩy việc xây dựng COC. Điều này có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc duy trì hoà bình ổn định ở Biển Đông và phù hợp với lợi ích chung của tất cả các nước trong và ngoài khu vực.
Câu hỏi 17: Thưa ông, thời gian đã gần hết, trước khi chia tay thính giả, xin ông trả lời ngắn một số câu hỏi nhanh mà chúng tôi biết là nhiều thính giả cũng rất muốn nghe như sau: Cần định nghĩa thế nào về hoạt động Ngoại giao Việt Nam trong giai đoạn này?
Bộ trưởng Phạm Bình Minh: có thể khái quát như sau:
- Phương châm: tích cực, chủ động và toàn diện
- Mục tiêu: hội nhập quốc tế, vì sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, Phục vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao vị thế quốc tế của đất nước, thực hiện thành công Cương lĩnh Xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội.
Câu hỏi 18: Theo ông, đối với những người làm ngoại giao Việt Nam, để thành công trong công việc, phẩm chất gì là quan trọng nhất?
Bộ trưởng Phạm Bình Minh: Ngành Ngoại giao rất tự hào có Chủ tịch Hồ Chí Minh là Bộ trưởng Ngoại giao đầu tiên của Việt Nam dân chủ Cộng hòa.
Bác dạy: “Cán bộ ngoại giao “phải giữ gìn danh dự và quyền lợi của Tổ Quốc, nâng cao địa vị và uy tín nước mình”. Cán bộ Ngoại giao cần phải học tập những lời dạy và noi theo tấm gương Bác Hồ vĩ đại. Theo tôi, cán bộ ngoại giao là đại diện của đất nước, cần phải đáp ứng những yêu cầu sau:
- Thứ nhất là bản lĩnh chính trị thật vững vàng, lòng yêu nước sâu sắc, trung thành tuyệt đối với Đảng, với Tổ quốc; giữ vững “đạo đức cách mạng”.
- Thứ hai là trình độ chuyên môn, ngoại ngữ và hiểu biết sâu rộng về chính trị, kinh tế, văn hóa, lịch sử… của đất nước Việt Nam và các nước khác.
- Thứ ba là tâm huyết đối với công việc.
Câu hỏi 19: Thưa ông, là một đại biểu Quốc hội, qua những lần tiếp xúc cử tri, ông cảm nhận được mong đợi gì của cử tri về chính sách ngoại giao của Việt Nam thời kỳ mới?
Bộ trưởng Phạm Bình Minh: Điều tôi trân trọng trước hết đó là lòng yêu nước, niềm tự hào của mỗi người dân ở bất kỳ nơi đâu về truyền thống lịch sử của dân tộc, về nền văn hóa đậm đà của nhân dân ta và một khát khao cháy bỏng tới một ngày nào đó vị thế đất nước được nâng cao, đời sống nhân dân được sung túc. Từ đó, mỗi người nhân dân mà tôi có dịp tiếp xúc đều quan tâm tới tình hình thế giới và hoạt động đối ngoại của ta, quan hệ hợp tác hữu nghị của ta và các nước nhất là công tác bảo vệ chủ quyền, biển Đông, Hoàng Sa, Trường Sa luôn được nêu ra trong các buổi tiếp xúc.
Tôi thấu hiểu quan tâm của đông đảo cử tri đối với các hoạt động đối ngoại của nước nhà. Cảm nhận những tình cảm, kỳ vọng và ý kiến quý báu của bà con đối với đất nước, với ngành đã giúp nhiều cho tôi trong định hình công việc đối ngoại của mình cũng như trong chỉ đạo công việc của Bộ Ngoại giao.
Câu hỏi 20: Hiện nay, nhân dân cả nước đang rất quan tâm đến các hoạt động ngoại giao của Việt Nam. Qua Đài TNVN, ông có thông điệp gì gửi đến qúy thính giả đang theo dõi cuộc đối thoại này?
Bộ trưởng Phạm Bình Minh: Chúng ta tự hào về vị thế của đất nước, của dân tộc Việt Nam đang lên cao. Quan hệ đối ngoại của đất nước được rộng mở hơn bao giờ hết.
Thành công này không chỉ của ngành ngoại giao mà là của toàn dân tộc, của mỗi người nhân dân, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Nhà nước.
Trong thời gian tới, Ngành ngoại giao sẽ triển khai đồng bộ và toàn diện công tác đối ngoại, dựa trên sức mạnh của công tác đối ngoại của Đảng, quan hệ quốc tế của các ngành, các địa phương và ngoại giao nhân dân.
Bộ Ngoại giao trân trọng cảm ơn và mong tiếp tục nhận được sự tham gia, hợp tác và đóng góp quý báu của nhân dân cả nước đối với các hoạt động của Bộ Ngoại giao. Với sự đồng tâm ủng hộ của cả nước, vững tin vào trí tuệ và bản lĩnh chính trị của Đảng, chúng tôi tin tưởng công tác đối ngoại năm Nhâm Thìn 2012 chắc chắn sẽ thành công, mang lại nhiều thành quả hơn nữa cho đất nước.
Câu hỏi 21: Những ưu tiên của Bộ trưởng trong thời gian tới?
Bộ trưởng Phạm Bình Minh: Triển khai ngoại giao toàn diện là ưu tiên của ngành ngoại giao trong giai đoạn tới. Chương trình hành động của Bộ Ngoại giao đã được thông qua tại Hội nghị Ngoại giao 27 vừa qua cũng là nhằm theo hướng đó.
Các quan hệ đối ngoại cả song phương và đa phương sẽ được tích cực, chủ động triển khai cả về chiều rộng và chiều sâu, trên mọi phương diện từ quan hệ chính trị, bảo vệ biên giới, chủ quyền lãnh thổ, đến ưu tiên thúc đẩy ngoại giao kinh tế, đẩy mạnh ngoại giao văn hóa, củng cố công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài, công tác bảo hộ công dân, tăng cường công tác thông tin đối ngoại…
BTV: Chúng tôi xin được thay mặt những người thực hiện chương trình và các thính giả của Đài TNVN cảm ơn Bộ trưởng Phạm Bình Minh đã dành thời gian tham gia chương trình. Xin chúc Bộ trưởng hoàn thành tốt công việc và dự định của mình trên cương vị quan trọng này./.
Nhóm PV VOV online và VOV1 (thực hiện)
Nguồn: http://vov.vn/Home/Bo-truong-Ngoai-giao-Pham-Binh-Minh-Thoi-ky-dan-chu-hoa-cac-quan-he-quoc-te/20121/196452.vov
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét