“Thắng lợi Hội nghị Paris có công lớn của bạn bè thế giới”
Nhân 40 năm Hiệp định Paris chấm dứt chiến
tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam (27/1/1973 – 27/1/2013) được ký kết, báo Thế
giới & Việt Nam của Bộ Ngoại giao đã xuất bản một đặc san về sự kiện ngoại giao có ý
nghĩa rất quan trọng này.
Bài mình viết sau đây lấy chủ đề là bạn bè
thế giới ủng hộ Việt Nam qua lời kể của một thành viên nữ trong phái đoàn Mặt trận
Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, sau này đổi tên thành phái đoàn Chính phủ
Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.
Đặc san đã phát hành nên mình post bài lên
đây để lưu lại một tư liệu đáng nhớ.
Vệ Nhi
-------
Một mặt trận khác
Bên ngoài bàn đàm phán Hội
nghị Paris mà hai phía Việt Nam và Mỹ thương thuyết đấu tranh với nhau“còn có một
mặt trận khác”, đó là lời bà Nguyễn Ngọc Dung trong buổi gặp Báo TG&VN tại
nhà riêng của bà ở thành phố Hồ Chí Minh hồi tháng 10/2012.
Bà Dung là thành viên nữ của đoàn đại biểuMặt
trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tuy đã cao tuổi nhưng trí nhớ còn
minh mẫn, nhất là khi nhắc tới những câu chuyện cụ thể tại Hội nghị mà bà đã trực
tiếp tham gia hoặc chứng kiến.
*
Điều gọi là một “mặt trận khác”- như lời bà Dung - thật vô
cùng đặc biệt và độc đáo bởi nó không hề có tiền lệ và lặp lại sau này. Đặc biệt
hơn nữa là chính “mặt trận khác” chúng ta nói tới kia đã đóng góp một phần
không nhỏ làm nên thắng lợi vang dội của một cuộc đàm phán lâu dài và phức tạp
nhất trong lịch sử ngoại giao Việt Nam.
Thành viên nữ hiếm hoi
Thấm thoắt qua năm mới 2013 này
bà Nguyễn Ngọc Dung đã vào tuổi 86 (bà sinh năm 1927 tại Mỹ Tho). Bà Dung là
thành viên đoàn đàm phán, thuộc phái nữ hiếm hoi “đếm trên đầu ngón tay” cả với
đoàn miền Bắc và đoàn miền Nam của chúng ta tại Hội nghị Paris.
Theo dòng ký ức dồn dập dội về
khi được gợi lên, bà Nguyễn Ngọc Dung dần dần nhớ lại:
“Giữa tháng 5/1968 Hội nghị 2
bên giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) và Mỹ chính thức họp phiên đầu tiên
tại Trung tâm Hội nghị quốc tế ở Paris thì 7 tháng sau, tháng 12/1968, Phái
đoàn đại diện Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (MTDTGP) đã đặt
chân tới thủ đô nước Pháp để tham gia cuộc đàm phán 4 bên”. Bà Dung kể tiếp: “Tôi
nhớ hôm nhận được quyết định phân công tham gia đoàn đàm phán của Mặt trận,
trong lòng vừa phấn khởi vừa lo lắng. Đoàn gồm 15 thành viên do anh Trần Bửu Kiếm,
Ủy viên Đoàn Chủ tịch, kiêm Trưởng Ban đối ngoại Ủy ban Trung ương MTDTGP miền
Nam VN dẫn đầu đi dự Hội nghị Paris”.
Nói đến đây dường như để có dẫn
chứng chính xác từng sự kiện và hoạt động cụ thể, bà Nguyễn Ngọc Dung lấy ra một
tập sách, đó là hồi ký dài do bà chấp bút đã được xuất bản. Chỉ vào trang sách,
bà kể hôm đến sân bay Bourget là vào ngày 16/12/1968 để kịp bắt đầu cuộc đàm
phán 4 bên giữa các đoàn: Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH), Mỹ, MTDTGP miền
Nam VN và Việt Nam Cộng hòa (VNCH). Theo lời bà Dung nhấn mạnh, với một thành
phố lớn như Paris, một trung tâm chính trị không những của châu Âu mà cả thế giới,
Hội nghị 4 bên mà 2 đoàn Nam và Bắc chúng ta tham gia đã mở ra một cục diện
"vừa đánh vừa đàm" vô cùng độc đáo và lợi hại. Từ mốc thời gian này, cùng
với đoàn đại biểu VNDCCH, hai đoàn Nam và Bắc đã kiến tạo thành công một mặt trận
mới: Mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân
Việt Nam chống Mỹ xâm lược và ngụy quyền tay sai, giải phóng miền Nam, thống nhất
Tổ quốc.
Nói về công việc của mình đã
trải qua 4 thập kỷ về trước, nữ thành viên Nguyễn Ngọc Dung bồi hồi nhớ lại:
“Cái giờ phút đầu tiên xuống
sân bay sao mà cảm động! Chúng tôi được tái ngộ với rất nhiều các bạn “truyền thống”
của Việt Nam trên đất Pháp. Họ chờ chúng tôi ở nhà ga hàng không, gần 600 con người
Pháp và Việt, trên tay hoa và cờ với những khuôn mặt tươi cười nhưng cũng ứa lệ
vì cả niềm sung sướng và kiêu hãnh”. Bà Dung nói rằng đó là những con người thuộc
nhiều thế hệ. Họ thuộc lớp các nhà cách mạng tiền bối Pháp, từng là bạn của cụ Phan
Chu Trinh, cụ Nguyễn Ái Quốc; rồi những cựu sinh viên đã xuống đường như bác sĩ
Henri và Arlette Carpentier đòi tự do cho tù nhân Côn Đảo thời kỳ 1935 – 1940…
Đó còn là Henri Martin, Raymonde Dien, những thanh niên Pháp phản đối quyết liệt
cuộc chiến tranh của thực dân Pháp ở Việt Nam. Trong những người tiếp xúc trực
tiếp đầu tiên với phái đoàn Mặt trận hôm đó còn có rất nhiều tổ chức đã khởi sự
hoạt động ủng hộ Việt Nam từ khi Mỹ đổ quân vào Đà Nẵng năm 1965.
“Tay bắt mặt mừng trong niềm
xúc động, bà Dung kể tiếp, bạn bè đón mình cũng có những người mới gặp lând sđầu
xen lẫn người đã quen thân trước đó. Tuy vậy trong khoảng thời gian eo hẹp ở
sân bay chẳng ai có thể nói được gì dù bao điều ấp ủ trong lòng... Tôi ghi nhớ mãi
những ánh mắt của bạn bè ra đón chúng tôi hôm đó. Hình như đều ánh lên lời ước hẹn
là sẽ sát cánh trong một cuộc đấu tranh mới mà cầm chắc là gay go và phức tạp”.
Những đầu công việc “trường diễn” thường ngày…
Khi gợi lại công việc của
đoàn đàm phán, đặc biệt là việc làm của chính bà - chừng như bắt đúng mạch đang
suy nghĩ của mình , bà Nguyễn Ngọc Dung hào hứng kể lại: “Ngoài các phiên họp chính
thức vào ngày thứ Năm hàng tuần ở hội trường Trung tâm Hội nghị quốc tế tại 19
phố Kléber - mà tất cả 15 thành viên đoàn Mặt trận đều có mặt - thì đoàn còn tiến
hành rất nhiều cuộc tiếp xúc và các hoạt động khác bên ngoài Hội nghị”.
Rồi bà Dung dần nhớ ra để điểm
tên từng việc: Đó là những cuộc gặp gỡ và tiếp xúc với các quan chức sở tại, các
vị đại diện trong đoàn ngoại giao ở Paris, các nhân sĩ trí thức và giới xã hội
khác nhau trên đất Pháp, trong đó đặc biệt phải kể đến là các cuộc gặp gỡ với báo
giới tại Pháp và quốc tế diễn ra hết sức đều đặn. Bà Dung còn muốn nhấn đến một
nhóm công việc mà bà cho rằng nó không những quan trọng mà còn độc đáo và sáng
tạo: Đó là các cuộc tiếp xúc và gặp gỡ với “không biết bao nhiêu người và bao nhiêu
lần mà kể” với những bạn bè khắp năm châu thuộc rất nhiều thế hệ con người và
khuynh hướng chính trị - xã hội khác biệt nhau nhưng có cùng một mối quan tâm,
đó là Việt Nam.
Để làm được một khối lượng công
việc hết sức đồ sộ như thế này, đoàn Mặt trận đã có hẳn một nhóm chuyên trách mà
bà Nguyễn Ngọc Dung gọi nôm na là “nhóm tiếp xúc”.
Trước khi nói kỹ về những
công việc cụ thể của mình, bà Dung dành ít phút nói về “ấn tượng mạnh mẽ” đối với
vị trưởng đoàn miền Bắc là Bộ trưởng Xuân Thủy.
Bà Dung kể rằng ông bộ trưởng
thật “điềm đạm và sâu sắc”. Ông đã có một buổi nói chuyện không thể nào quên với
tất cả các thành viên đoàn miền Nam ngày đầu khi tới Paris. Đại ý ông Xuân Thủy
nói sau khi nhận nhiệm vụ trưởng đoàn đàm phán VNDCCH, ngày 5/5/1968 Hồ Chủ tịch
có gặp và căn dặn đoàn là cuộc đấu tranh của chúng ta với Mỹ tại bàn đàm phán “sẽ
được dư luận thế giới quan tâm rất sít sao”. Chính vì thế trong mọi công việc anh
em khi đến đó “vừa phải rất khẩn trương, vừa phải thận trọng kiên trì, nghĩa là
không bao giờ được sốt ruột nóng vội”. Về lập trường quan điểm đương nhiên đòi
hỏi vững vàng, nhưng cũng phải sách lược, linh hoạt và khôn khéo. Bác Hồ căn dặn
phải luôn cắt đặt người theo dõi sâu sát tình hình trong nước, nhất là tình
hình chiến sự thì mới có quyết sách tốt và đúng đắn được. Bác Hồ còn nhấn mạnh
lúc này “nhân dân các nước đã thấy chiến tranh kéo dài, gây nhiều thương vong
chung nên tâm lý là muốn sớm có hòa bình”. Và chính ở điểm này Mỹ dễ lợi dụng để
đổ vấy trách nhiệm chưa có hòa bình là do chúng ta, từ đó ép chúng ta “chấp nhận
hòa bình theo các điều kiện Mỹ đưa ra”. Vì thế muốn thuyết phục nhân dân thế giới
ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta thì phải “kiên trì đưa ra
thông tin đúng đắn và nói rõ thiện chí của chúng ta”.
Bà Dung cho rằng nội dung
truyền đạt như vậy của vị trưởng đoàn Xuân Thủy là “rất thấm thía và dễ nhớ”,
như sợi chỉ nam xuyên suốt cho cả đoàn quán triệt vào công việc trong một cuộc
đàm phán kéo một mạch 4 năm mới xong.
Khi gợi ý bà Ngọc Dung nói cảm
tưởng về vị cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ, bà Dung có ý khiêm tốn định chẳng nói
gì. Rồi dường như muốn nói một ý gì mới nảy sinh, nhưng bà Dung bào ngay đây chỉ
là ít tâm sự riêng tư thôi chứ không phải nhận xét gì về một vị lãnh đạo cấp
cao: “Ông cố vấn đúng là một típ lãnh đạo thế hệ đầu tiên, là lớp học trò trực
tiếp của cụ Hồ. Rõ ràng ông chẳng được đào tạo ngoại giao chính quy bài bài gì bao
giờ, nhưng lại vô cùng tự tin khi thực thi nhiệm vụ đối ngoại. Vì sao vậy? Tôi
nghĩ bởi ông thấy mình chính nghĩa, sự nghiệp mà mình phụng sự đích thực là chính
nghĩa, con đường đấu tranh của dân tộc Việt Nam chống xâm lược Mỹ là rất quang
minh chính đại. Ông thường nói với anh em trong đoàn nhà, là “Mỹ nó đánh mình
là sai, tự dưng đem quân đem máy bay bom đạn đến giết hại và đánh phá đất nước
và nhân dân Việt Nam là quá sai lầm”. Vì thế nên khi đối thoại với họ ông thấy
mình hoàn toàn là người nắm được lý lẽ và rất chủ động nói được cái đúng cái tốt
cho mình mà không lúng túng bị động gì cả. Nhiều lần nhà đàm phán lão luyện Mỹ
Henry Kissinger buộc phải lặng im không phản bác được gì trước một Lê Đức Thọ
có vẻ bực dọc, thậm chí to tiếng như chuyến ông cố vấn đoàn ta bỏ về nước vì Mỹ
lật lọng không ký thỏa thuận tháng 10/1972 đã đạt được, huy động B52 đánh Hà Nội
nhưng thua cuộc, ông Thọ trở lại Paris gặp lại cố vấn Kissinger. “Buổi đó chắc
chắn ông cố vấn cao cấp Hoa Kỳ và người chứng kiến phía ông ta không thể nào
quên ngài “le Duc” của chúng ta”, bà Nguyễn Ngọc Dung kết luận câu chuyện về
hai vị lãnh đạo đoàn ta như vậy.
Đến đây bà Ngọc Dung đi vào một
số công việc cụ thể của mình. Bà kể đoàn giao cho bà làm thường trực của “nhóm
tiếp xúc” (ông Nguyễn Văn Tiến là nhóm trưởng). Hàng ngày bà Dung tập hợp, bóc cả
một chồng lớn thư từ và bưu phẩm, trong đó phần lớn là thư, điện tín, lời chúc
mừng và những thông báo bày tỏ sự ngưỡng mộ cũng như đưa ra những gợi ý và những
vấn đề dư luận thắc mắc, yêu cầu gặp mặt và cung cấp thông tin. Lại có cả những
góp ý, hiến kế cho đoàn của Mặt trận, đại thể là nên lưu ý vấn đề gì trên mặt
trận dư luận ở các nước phương Tây, điều gì cần nhấn mạnh với báo giới và giới
trí thức ở khu vực địa-chính trị này, v.v… Thư từ không những đến từ nước Pháp
mà còn từ khắp châu Âu và khá nhiều đến từ Bắc Mỹ. Nhiệm vụ của bà Dung là đọc
nội dung, rồi phân loại, tổng hợp thành các ý kiến đề xuất xử lý, báo cáo cho
đoàn.
Bà Dung nói thêm rất nhiều thư
từ đề nghị được gặp mặt, hoặc mời đại diện đoàn đi nói chuyện giới thiệu tình
hình đàm phán tại các tổ chức và địa phương khác nhau không những trên đất Pháp
mà còn ở nhiều nước khác trên thế giới. Điều
đó cho thấy nhu cầu tìm hiểu tình hình Việt Nam và sự tiến triển ở bàn đàm phán
của nhân dân và dư luận thế giới khi ấy là rất lớn.
Theo lời thuật lại thì khối
lượng công việc của từng cá nhân người trong đoàn “đều ngập đầu” với việc được
phân công, nhưng ai nấy đều nhận thức công việc tiếp xúc bên ngoài Hội nghị là một
nhiệm vụ vô cùng quan trọng. Và như vậy đương nhiên tất cả mọi thành viên phải sắp
xếp thời gian mà thực hiện.
Với sự phân công của lãnh đạo
đoàn, có thể nói từ trưởng đoàn phó đoàn cho đến các chuyên viên ai cũng cố gắng
hết sức mình. Nghĩa là mỗi cá nhân phải lập được một thời gian biểu “ngoại
khóa” để đáp ứng những công việc đoàn giao thêm. Và như thế cách duy nhất là phải
tận dụng tất cả các buổi tối cũng như các ngày nghỉ cuối tuần thì mới hoàn
thành được nhiệm vụ.
Những hoạt động “không có trong nghị trình”
Hội nghị quốc tế nào cũng gồm
các nghị trình phải tuân thủ. Tuy nhiên ở Hội nghị Paris thì đoàn Việt Nam cả Bắc
và Nam đều có rất nhiều công việc nằm bên ngoài các nghị trình thông thường định
sẵn.
Bà Dung kể rằng riêng với
đoàn Mặt trận của mình, chương trình bên ngoài bàn đàm phán nhiều vô kể, đến mức
nếu liệt kê ra giấy thì chắc cũng phải “cả chục trang sổ tay” mới ghi hết các đầu
công việc.
Bà bảo không chỉ hai vị trưởng
phó đoàn với chương trình hoạt động bận rộn chật kín thời gian suốt tuần mà tất
cả đội ngũ thành viên, chuyên viên ai cũng “người nào việc nấy” và để hết tâm sức
tham gia tích cực vào “mặt trận mới”. Có thể nói đây chính là các hoạt động đối
ngoại nhân dân như ngày nay chúng ta đang vận dụng rất có hiệu quả trong tình
hình mới.
Bà Ngọc Dung lại lật mấy
trang quyển hồi ký, và nói thêm “chỉ cần kể ra đây một số diễn đàn hoặc gặp gỡ
tiêu biểu là chúng ta có thể hình dung được quy mô cũng như tính chất và tác động
của các hoạt động đó tới Hội nghị là như thế nào”.
Dưới đây lược lại một số
trong hàng trăm hoạt động, gặp gỡ mà đoàn Mặt trận tham gia:
Đó là với trưởng đoàn Nguyễn
Thị Bình, ngay đầu năm 1969 - chỉ vài tháng sau khi tham dự đàm phán - bà Bình đã
đến thăm Vương quốc Anh theo lời mời của các nghị sĩ Công Đảng (chính xác là
ngày 5/3/1969 - BBT chú thêm); giữa năm đó bà Bình làm khách và được mời phát
biểu tại Đại hội Đảng Xã hội Dân chủ Thụy Điển (16/5/1969); rồi chuyến thăm
chính thức Algeria tháng 6/1970 và được Tổng thống Boumédiene tiếp; tháng 9 tiếp
đó bà trưởng đoàn đến Lusaka, Zambia dự Hội nghị Không liên kết lần thứ III.
Với phó đoàn Nguyễn Văn Tiến
cũng có nhiều hoạt động sôi nổi: 5/1969 đi thăm và làm việc tại Quốc hội Đan Mạch
(21/5/1969); dự Đại hội quốc tế bất thường tại Roma “Đoàn kết với nhân dân Đông
Dương” vào cuối 2/1972 với sự tham gia của 54 tổ chức quốc tế gồm 500 đại biểu;
thăm chính thức Sénégal tháng 3/1972 và được Tổng thống Léopold Senghor tiếp.
Bản thân thành viên đoàn Nguyễn
Ngọc Dung cũng thực hiện một “chương trình nghị sự” hết sức đa dạng và phong
phú: 5/1969 đi Hà Lan do các tổ chức đảng phái nước này mời cung cấp thông tin
cho bạn (đi với bà Nguyễn Thị Chơn cũng là thành viên đoàn); 7/1969 cùng với bà
Lê Thị Cao đi từ trong nước để tới Canada nói chuyện với hàng nghìn phụ nữ nước
bạn tại Montreal, Toronto, Sakatchewan và Vancouver; tháng 11 cũng năm này đi
thăm và làm việc ở Thụy Sĩ cùng với bác sĩ Lê Văn Lộc; đầu 1972 đi thành phố
Bologna, Italia dự lễ kết nghĩa giữa tỉnh Quảng Trị với tỉnh này (cùng đi với ông
Lâm Văn Khai); 9/1972 Liên đoàn Phụ nữ Dân chủ quốc tế mời bà Dung tham gia
đoàn của tổ chức này đến dự Hội nghị Liên hợp quốc tại Geneva về giải trừ quân
bị; và 10/1972 được mời dự và phát biểu tại Bruxels với tổ chức ủng hộ Việt Nam
của nước này.
Còn rất nhiều những chuyến đi
và gặp gỡ của các thành viên khác trong đoàn Mặt trận. Bà Nguyễn Ngọc Dung nhận
xét rằng trong suốt 4 năm ở Hội nghị Paris với hàng trăm cuộc tiếp xúc và gặp gỡ
như vậy đã giúp đoàn Mặt trận (sau này có tên là đoàn Chính phủ CMLTCHMNVN) có
thêm biết bao nhiêu cơ hội giới thiệu thực chất tình hình Việt Nam ở cả chiến
trường cũng như trên bàn đàm phán. Qua đó những thắc mắc hoặc câu hỏi (thường
là hết sức cụ thể) của nhiều nhân vật nổi tiếng, của các giới xã hội ở nhiều quốc
gia đặt ra với đoàn Mặt trận đều được trả lời rõ ràng và minh bạch khiến cho mọi
người hiểu thêm về cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Điều đó góp phần quyết định tạo
nên “bước chuyển chính trị” đối với khá nhiều người mà trước kia, hoặc ngộ nhận,
hoặc hững hờ giữ khoảng cách với Việt Nam, đã dần dần thấy được các vấn đề thực
chất ở Việt Nam giai đoạn đó và đi đến cảm tình, rồi trở nên những người bạn tích
cực ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của chúng ta.
Nét “đời thường” bên bàn đàm phán
Khi được gợi ý có điều gì đặc
biệt với “sự tham gia của phái nữ” vào đoàn đàm phán thì tự nhiên trong câu
chuyện bà Nguyễn Ngọc Dung kể lại ra chiều “hứng khởi” hơn.
“Là nữ thành viên của đoàn,
bà Dung nói, trong đoàn lại có ‘nữ tư lệnh’ là chị Nguyễn Thị Bình làm trưởng
đoàn, có chị Chơn (Nguyễn Thị Chơn), chị Thanh (Bình Thanh)… khiến phái nữ
chúng tôi tự tin hơn ở mình. Nhưng ngay cả như vậy thì bà Dung vẫn chỉ ra một
thực tế “tỉ lệ nữ trong hai đoàn Bắc và Nam đều rất thấp so với nam giới”, nên
mọi việc phái nữ chúng tôi cũng ý thức mình phải gánh vác nhiều hơn “những công
việc đời thường” mà nam giới bao giờ cũng không quen làm. Hoặc giả việc đó nếu
đến tay các anh thì cũng là “sự cáng đáng bất đắc dĩ”, và khi buộc phải phân
công như vậy cũng “tội cho cánh nam giới quá”, bà Dung thực thà kể lại như vậy.
Nhưng cũng từ thực tế chênh lệch
trên đây mà anh em phái nam cũng dành sự quý trọng và khích lệ nhiều hơn đối với
chị em, “có phần đề cao hơn chị em nữ đoàn viên”– bà Dung kể lại với giọng cảm
kích xen lẫn tự hào.
Dự cảm thấy cuộc đàm phán 4
bên là một việc có khả năng kéo dài nên ngay từ đầu các bạn Pháp đã nghĩ đến những
trợ giúp hết sức thiết thực và cụ thể. Bà Dung kể tiếp: “Trước hết là vấn đề ăn,
ở và đi lại. Các bạn Pháp thật là những con người vô cùng tốt bụng và chu đáo. Bạn
lo lắng cho đoàn Mặt trận chúng tôi về đủ mọi phương diện, từ nơi ăn ở, thu xếp
để thuê hẳn một biệt thự nhỏ xinh xắn trên đồi Verrières - le - Buisson làm trụ
sở lâu dài”. Từ các phương tiện đi lại cho đến nhu cầu trong sinh hoạt đời thường
từ lớn đến nhỏ có thể phát sinh khi xa gia đình và người thân đều được bạn trù
liệu hoặc phối hợp với phía ta giải quyết. Nói không ngoa, các bạn Pháp “như những
người chủ nhà của một gia đình lớn là cả đoàn chúng tôi vậy”, bà Dung đã nhận
xét như thế.
Rồi bà Dung lược tả vài chi
tiết, như ngay hôm đặt chân đến Paris các bạn Pháp đã cắt đặt đội ngũ lái xe
cho toàn đoàn đi lại, và rồi các ngày tiếp sau vẫn duy trì sự trợ giúp này. Bạn
cử người đến nơi ở của đoàn để lo chỗ ăn nghỉ, rồi cáng đáng việc nấu ăn và nhiều
công việc tạp vụ khác nảy sinh khi ăn ở và làm việc. Trong thời gian đầu biết
là chúng ta lạ nước lạ cái, phía bạn Pháp còn bố trí người đi chợ, đi siêu thị
mua giúp thức ăn và đồ dùng thông thường cho các đoàn viên trong đoàn.
Dĩ nhiên các ngày chủ nhật,
ngày lễ thì vắng đội ngũ này. Và khi ấy đúng là phái nữ phát huy ưu thế tề gia
nội trợ của mình. Do quá thiểu số nên việc bếp núc, dọn dẹp nhà cửa phòng ốc phái
nữ dù tích cực đến đâu cũng không ôm xuể. Và khi ấy anh em nam giới cũng lăn
lưng vào công việc chung của tập thể đoàn chứ chẳng ai lảng tránh. Chỉ tội là
nhiều việc các anh không quen làm, thậm chí có làm thì vụng về nên lắm khi tức
cười. Bà Dung kể lại mà không nín được tiếng cười phá lên khi nhắc đến chuyện “anh
Nguyễn Văn Tiến và anh Hà Đăng cũng nhiều phen được phân công làm bếp”, và có vị
nam giới đã cho anh em trong đoàn ăn thuần một món trứng luộc chấm muối mắm, cùng
một món bắp cải lại cũng được luộc! May mà trên đất Pháp cũng sẵn dồ nguội ăn sẵn
được nên cuối cùng mọi việc thuộc “ẩm thực” của đoàn cũng thu xếp ổn thỏa.
Bạn bè Pháp ghé vai chung sức “trên từng cây số”
Đoàn Mặt trận có rất nhiều bạn
bè tốt trên khắp thế giới nhưng trong câu chuyện về một “mặt trận khác” ở Hội
nghị Paris, bà Nguyễn Ngọc Dung có ý chú tâm hơn đến khối các bạn Pháp và Mỹ .
Dễ hiểu bởi một là nước chủ nhà, một chính là nước mà chính phủ của họ đang tiến
hành chiến tranh và nay đàm phán với chúng ta.
Theo bà Dung, cả bạn Pháp và
bạn Mỹ đều có những gương mặt “thật sự dễ mến”, “thật sự hết lòng” vì Việt Nam.
Chính từ những đóng góp âm thầm và kiên trì của tất cả khối bạn bè này đã nâng
cao thêm uy tín và sự nghiệp đấu tranh chính nghĩa của chúng ta, góp thêm sức mạnh
trên bàn đàm phán và đưa đến thắng lợi vẻ vang cho chúng ta tại Hội nghị Paris.
Bà Dung nhớ lại:
“Lúc mới tới Paris ngày nào hầu
như cũng có vài đoàn đến thăm. Đến sớm nhất là Hội Hữu nghị Pháp - Việt (AAFV) có
gần hai chục người, đại diện cho Secours Populaire (Cứu trợ bình dân), Cimade,
Huynh đệ Việt Nam…”
Rồi bà Dung kể cho nghe về
hai người bạn Pháp, đúng là đã “trên từng cây số” với sự bền bỉ ghé vai chung
lưng với bao nhiêu công việc của đoàn.
Trước hết là ông Henri Van
Regemorter là giáo sư tiến sĩ thiên văn tại Đài Thiên văn Paris. Chân ướt chân
ráo tới đất Pháp, bà Dung đã nhấc máy liên lạc điện thoại với ông Henri và nhờ
ông giới thiệu các bạn có thể giúp đỡ Việt Nam mà ông biết. Vài ba ngày sau GS
Henri đã cầm đến tập danh sách, với địa chỉ đầy đủ các bạn bè mà ông quen biết.
Ông còn đánh dấu sao và nói đó là các vị “quyết tử vì Việt Nam” (qui se tue
pour le Vietnam). Bà Dung bảo đây là lần đầu tiên được nghe một “biệt danh” như
thế dành cho người “không phải Việt Nam”.
Bà Dung kể rằng suốt từ thời
điểm đó bất cứ khi nào đoàn hỏi đến người trong “danh sách vàng” nói trên đều
được sự giúp đỡ không chần chừ cùng với những sáng kiến có giá trị. Hơn nữa các
bạn đó còn vận động thêm những bạn bè khác của mình vào việc và lấy làm hãnh diện
được góp sức với đoàn.
Bà Nguyễn Ngọc Dung nhớ như
in hồi sắp kết thúc đàm phán, khi bà được phân công thảo văn bản Nghị định thư
về “trao trả người bị bắt” thì rất cần những tư liệu tham khảo về “tiền lệ lịch
sử” trong việc trao đổi tù binh tại các hiệp định quốc tế.
Đưa ra vấn đề với các bạn luật
sư Pháp thì chỉ vài ba ngày sau các bạn đã đưa lại cả chồng tài liệu cần đến. Trong
số đó còn có văn bản được các bạn đặt đơn dây chuyền, sưu tầm từ những trung
tâm lưu trữ tận London hoặc Geneva để gửi cho đoàn.
Nhắc đến các bạn Pháp, bà
Nguyễn Ngọc Dung đặc biệt dành cảm tình đối với một phụ nữ Pháp đã rất gắn bó với
đoàn và với cá nhân bà. Đó là Mireillle Gansel, giáo sư ngôn ngữ và văn chương
tại Đại học Vincennes và Lyon.
Bà Dung kể lại khi mới quen
Mireille được biết chị ấy có ý định học tiếng Việt thì bà khuyên can là không
nên, vì việc này sẽ chiếm nhiều thời gian. Song Mireille đáp lại rằng đấy là lựa
chọn có suy nghĩ, vì biết tiếng Việt thì mới giới thiệu được ra thế giới di sản
văn hóa vô giá của Việt Nam. Chị ấy còn nói trong cả đời mình mà làm được một phần
nào công việc trên cũng là thấy đáng công học và mãn nguyện.
Thế là ngoài thì giờ theo lớp
ở một trường chính quy, Mireille Gansel còn kết bạn giao lưu với người Việt,
tranh thủ các cơ hội đi cắm trại hè với hội Việt kiều của ta để luyện thêm tiếng
Việt. Năm 1971, nghĩa là hai năm sau khi đoàn Mặt trận tới bàn đàm phán,
Mireille Gansel đã cho xuất bản cuốn “Kho báu của con người” (Le Trésor de
l’Homme, NXB La Farrandole ấn hành). Cuốn sách sử dụng những bản thảo văn học của
Việt Nam được dịch sang tiếng Pháp đã được chị Mireille biên soạn, với nhiều chú
thích để người nước ngoài dễ đọc và tra cứu. Sách giành Giải thưởng “Quyển sách
cho thiếu nhi hay nhất trong năm 1971”. Bộ trưởng Xuân Thủy đã “com-măng” 100
cuốn để đoàn đàm phán làm tặng phẩm cho khách quốc tế đến thăm đoàn. Cuốn sách
này nửa năm sau đã được một nhà xuất bản ở Italia xin phép tác giả cho dịch sang
tiếng Ý và xuất bản ở Roma.
Bà Dung kể thêm, những khi rảnh
việc, bà thường dịch miệng và giới thiệu với Mireille nhiều tác phẩm văn học cách
mạng của miền Nam đang chiến đấu. Với những tác phẩm thơ ca “chấm” được, vị
giáo sư Pháp này yêu cầu bà Dung dịch thật sát và chuẩn. Có khi chỉ một bài thơ
cũng phải mất rất nhiều thời gian, nhưng không bao giờ thấy chị Mireille nản lòng
mà trái lại rất kiên trì theo sát từng lời từng ý. Rồi dịch đi dịch lại, sửa đi
sửa lại có khi tới hàng chục lần.
Sau một thời gian làm việc cật
lực, trên nhật báo Le Monde (Thế Giới) xuất hiện bài “Văn thơ đấu tranh ở miền
Nam” ký tên Mireille Gansel. Bài viết chiếm gần hết trang văn chương của tờ báo
đã gây dư chấn lớn trong dư luận độc giả tiếng Pháp.
Cụ thể trong bài viết M.
Gansel đã dịch giới thiệu “Người con gái Việt Nam” của Tố Hữu; “Làm mẹ ở Việt
Nam” của Chế Lan Viên; các bài thơ của Lê Anh Xuân và nhiều bài hát của phong
trào “Hát cho đồng bào tôi nghe”; các bài hát “Lời nguyền” của Trương Quốc
Khánh”, “Một dân tộc không ngừng tiến lên” của Miên Đức Thắng…
Trong thời điểm Hội nghị
Paris hai cả hai đoàn Bắc và Nam đều đang cố gắng phát huy thế chính trị của
mình thì sự tác động văn hóa từ những lời thơ-câu văn-bài hát phản ánh đời sống
hiện thực trong cuộc đấu tranh quyết liệt của quân dân miền Nam Việt Nam đã có
thêm sức thuyết phục dư luận.
Được biết người bạn nữ Mireille
Gansel không chỉ dừng các hoạt động ở Pháp. Sau khi ký Hiệp định, vị nữ giáo sư
này đã đi Việt Nam và làm việc nhiều năm tại NXB Ngoại văn của ta, cùng góp phần
đưa ra thế giới nhiều tác phẩm văn học ưu tú của Việt Nam. “Đây thật sự là một
trong những người bạn Pháp hết lòng vì đất nước và nhân dân Việt Nam chúng ta”,
bà Dung nói lời kết luận về những người bạn Pháp.
Những bạn bè Mỹ “đầy nghĩa tình”
“Bốn năm đàm phán, bà Dung kể
lại, Hội nghị Paris, tại phòng họp phố Kléber, chung quanh chiếc bàn tròn trải
thảm xanh, đoàn Mặt trận đã gặp các đại diện chính phủ Hoa Kỳ 174 lần (trong
174 phiên họp), nhưng cùng thời gian ấy, từ trưởng đoàn cho đến các thành viên
trong đoàn, chúng tôi đã gặp gỡ chắc chắn không phải 174 lần mà nhiều hơn thế với
hàng nghìn những công dân Mỹ ở nhiều nơi trên đất Pháp, châu Âu và Bắc Mỹ. Tất
cả đều cùng mục đích, tìm kiếm Hòa bình”.
Trong những cuộc gặp gỡ bà
Dung trực tiếp tham gia, bà nói mình có ấn tượng rất đặc biệt với buổi họp mặt
tại khu rừng Vincennes ngoại ô Paris vào mùa xuân 1970 (10/5/1970). Không khí
hôm đó hừng hực sôi nổi không thể quên. Đây là cuộc biểu dương lực lượng chống
chiến tranh khổng lồ do 44 tổ chức và phong trào hòa bình Pháp khởi xướng, với
sự tham dự của hơn 200.000 người.
Ông Nguyễn Văn Tiến, phó đoàn
đã phát biểu, đại ý đòi Mỹ phải chấm dứt ném bom, rút quân, ngừng dính líu ở Việt
Nam. Ngay sau đó đại biểu Mỹ, ông Sydney Lens, một nhà hoạt động công đoàn Mỹ,
đồng chủ tịch một tổ chức của phong trào chống chiến tranh ở Mỹ - NMC (New
Mobilisation Committee) - đã lên tiếng ngay sau đó rất thẳng thắn rằng hiện nay
hàng triệu người ở khắp các tiểu bang trên nước Mỹ của ông “đang làm chiến
tranh” để chống lại cuộc chiến tranh ở Việt Nam (We make Wả against the Vietnam
War). Rồi ông hô 3 lần “out now, out now, out now” (rút ngay bây giờ, rút ngay
bây giờ, rút ngay bây giờ!). Ông Nguyễn Văn Tiến và ông Xuân Thủy (trưởng đoàn
miền Bắc) bước đến bắt tay và quàng vai ông. Ông Lens giơ hai ngón tay theo
hình chữ V (Victory – Thắng lợi) giữa những tràng vỗ tay và hô to hưởng ứng
vang dội khắp khu rừng.
Trước thời gian đó, vào ngày
20/4/1970, một cuộc tập hợp quy mô tuy
nhỏ hơn nhiều lần nhưng ý nghĩa mở đầu hết sức quan trọng đã diễn ra tại quảng
trường Trafalgar ở London. Hai tổ chức: Vietnam Moratorium Committee (Ủy ban
“Đình chỉ” Việt Nam) của Mỹ; và Stop It Committee (Ủy ban đòi “dừng nó lại”) của
Anh đã tổ chức biểu tình tuần hành chống chiến tranh Việt Nam. Hơn 2.00 người, gồm
người Anh và cả người Mỹ đang ở Anh đã đón đoàn đại biểu Việt Nam và đại biểu Mỹ
dự cuộc tuần hành này.
Bà Nguyễn Ngọc Dung được đoàn
cử đã bay sang Anh, còn đại biểu tổ chức Longshremen bang Florrida là bà Viviane Nareini từ Mỹ tới đã cùng tham
dự và phát biểu. Bà Dung kể rằng hôm đó London mưa nặng hạt, bà cùng với người bạn
nữ Mỹ cùng đứng dưới chiếc ô lớn, cùng nhiệt tình vẫy chào đáp lại tiếng hô khẩu
hiệu chống chiến tranh rền vang của đoàn người tụ tập trong rừng cờ đỏ sao vàng
và cờ Mặt trận. Cảnh sát Anh ngồi oai vệ trên lưng các chú ngựa to cao hiếm gặp
ở nơi khác nà lúc này dàn hàng đứng chắn bên ngoài đã vô hình trung tăng vẻ
long trọng cho cuộc họp mặt. Sau đó đoàn biểu tình kéo đến tòa đại sứ Mỹ đưa kiến
nghị và đốt cờ Mỹ trước cổng tòa nhà này.
Bà Dung còn kể tại trụ sở
đoàn, suốt mấy năm đàm phán không lúc nào ngớt các đoàn khách thăm viếng. Bà
nói: “Ở nơi đây chúng tôi đã thường xuyên đón tiếp hàng trăm lần, từ các bạn Mỹ
đi một mình, hoặc một nhóm vài ba người cho tới những toán đông đến số trăm.
Các nhà chính khách, nhà báo, nhà văn, nhà nghiên cứu, luật sư, người lãnh đạo
các phong trào chống chiến tranh toàn nước Mỹ , những bà mẹ tìm đến để hỏi về
tình hình đàm phán hòa bình”. Rồi bà Dung lấy cuốn sách chỉ cụ thể các đoàn
khách được tiếp hồi đó:
Tháng 1/1970 ông Dave
Dellinger và bà Cora Weiss vừa là đồng chủ tịch các tổ chức phản chiến toàn quốc,
vừa đại diện tổ chức Ủy ban liên lạc các gia đình lính Mỹ đang bị giam giữa tại
Việt Nam (Coliafam); 7/1970 ông bà bác sĩ Benjamin và JaneSpock; 12/1970 đoàn Tổng
hội sinh viên Mỹ do anh David Jeffshin làm chủ tịch; 8/1971 hai giáo sư thực vật
Arthur Westing và W. Pfeiffer thuộc Đại học Montana, những người đã kiên trì tố
cáo quân đội Mỹ tàn phá môi trường miền Nam Việt Nam, đã tặng đoàn cuốn phim do
hai ông kiên trì đeo bám máy bay rải chất độc hóa học quay được; 10/1971 đoàn
Liên đoàn Phụ nữ đấu tranh cho Hòa bình và Tự do (ILWPF) dẫn đầu là bà
Katherrine Kamp; 11/1971 đoàn giáo sư George Wald, Đại học Harvard đến chia sẻ
kết quả hoạt động của ông và các sinh viên Mỹ khi đi Sài Gòn và tặng ta một bản
“Hiệp ước Hòa bình” do các bạn ký chung với sinh viên và các tổ chức phản chiến
của nhân dân Sài Gòn.
Ngôi sao điện ảnh Mỹ Jane
Fonda cũng như hai nữ nghệ sĩ dân ca nước này là Barbara Dane và Joan Baez đều
đã tới trụ sở đoàn Mặt trận, tại đây họ đều biểu thị sự đồng tình của mình đối với
sự nghiệp chính nghĩa của nhân dân Việt Nam. Có một đoàn hết sức đặc biệt là các
bà mẹ và vợ của phi công Mỹ bị ta bắt và giam giữ khi máy bay ném bom bị bắn
rơi trên đất Việt Nam. Họ mang đến hai bao vải xếp đầy các bức thư ngỏ có chữ
ký của thân nhân và bạn bè các tù binh này cho đoàn ta để nhờ chuyển đến lãnh đạo
Mặt trận. Nội dung thư đề nghị trả tự do cho tù binh. Lãnh đạo đoàn tiếp và lắng
nghe nguyện vọng của các bà các chị, giải thích chính sách khoan hồng độ lượng
của phía ta để họ yên tâm nhưng nêu rõ lập trường của Việt Nam là các công dân
Mỹ hãy đẩy mạnh cuộc đấu tranh ở nước Mỹ đòi đưa ngay quân đội Mỹ về nước, chấm
dứt chiến tranh xâm lược, sớm ký kết hòa bình với Việt Nam “thì Việt Nam sẽ ngay
lập tức trao trả tù binh Mỹ”.
*
Suốt một buổi bồi hồi nhớ lại từ ký ức một
thời đấu tranh sôi nổi, bà Nguyễn Ngọc Dung cất những lời rưng rưng: “Nhiều khi
tôi tự hỏi, công việc thì là của mình, mình từ một đất nước Việt Nam mãi xa xôi
đến đây với nhiệm vụ đàm phán với đối phương, nhưng cớ sao lại có những tấm
lòng của bạn bè quốc tế, đặc biệt là bạn bè Pháp và Hoa Kỳ, cứ coi đó lại như
công việc của chính các bạn. Nhưng rồi chúng tôi cũng tìm ngay được câu trả lời,
đó là do sự nghiệp mà chúng ta đấu tranh là chính nghĩa nên bạn bè quốc tế tự
nhiên rất đồng lòng đứng về phía chúng ta”.
Bà Ngọc Dung còn nói thêm, đại ý là không
có bút mực nào tả xiết được mối thân tình và hết lòng của những người bạn Mỹ và
Pháp cũng như nhiều bạn bè khác trên thế giới trong những ngày lịch sử năm xưa
đó. “Tôi cứ nghĩ ngợi - giọng bà Dung trầm ấm lại sau một hồi suy tư - giả sử nếu
như không có bạn bè khắp thế giới hỗ trợ và sát cánh với hai đoàn đàm phán Bắc
và Nam thì chúng ta sẽ khó khăn nhường nào. Chúng ta giành thắng lợi vẻ vang ở Hội
nghị Paris có công lớn của bạn bè thế giới”.
Nguyễn Vĩnh ghi theo lời kể của bà Nguyễn Ngọc Dung