Sông Mê Công đang khô cạn
Lúc này đang nóng lên chuyện dòng Mê Công cạn kiệt. Một trong mấy nguyên nhân gây khô cạn dòng chảy là ở thượng nguồn người ta xây quá nhiều đập chắn làm thủy điện, tệ nhất là trên dong sông Lan Thương bên Trung Quốc (tên sông Mê Công nằm ở TQ do TQ đặt tên này).
Cho đến hiện tại có nhiều chứng cớ là TQ họ xây rất nhiều đập lớn lấy cớ thủy điện hoặc thủy lợi chính là cách chặn nước lại. Một khi tích đầy các hồ chứa khổng lồ trên thượng nguồn, dưới hạ nguồn dần khô kiệt chính là lúc biến thành thứ "vũ khí nước" lợi hại để nước này gây sức ép lên các quốc gia hạ nguồn (cả trung nguồn nữa, nếu có thể coi Miến, Thái và Lào là như vậy).
Còn 2 nước có sông bị khô hạn mà ảnh hưởng mạnh nhất đến nông nghiệp, ngư nghiệp, chế độ thủy văn là Việt Nam và CPC ở hạ nguồn, trong đó VN là hạ nguồn có nguồn sông đổ ra Biển Đông. Một khi cạn nước VN bị hạn như CPC đã đành, VN lại còn bị thấm mặn từ biển vào các cánh đồng trù phú của đồng bằng sông Cửu Long (9 cửa sông của Mê Công là Cửu Long, nước đổ ra biển nên có tên gọi như vậy).
Ngay từ cuối 2009, được một tổ chức "đặt hàng" mình đã viết, rồi tập hợp thêm các bài, biên soạn thành một cuốn Đặc săn, định đặt tên là Mê Công, dòng sông hữu nghị. Bản thảo đã tương đối hoàn chỉnh thì vì một vài mắc míu về kỹ thuật, cùng với ""không khí chính trị"" khi ấy do Ủy ban sông Mê Công của VN rất muốn thuyết phục các nước chung dòng sông này hợp tác trên cơ sở cùng có lợi. Trong số này có TQ mà thái độ hết sức kẻ cả, muốn đứng ngoài. Vì thế phía VN không muốn làm các động tác truyền thông báo chí "rùm beng" thêm chuyện này. Thái độ của VN rõ ràng thiện chí, nhưng 5 - 7 năm trôi qua, tình hình dòng sông ngày càng lộ rõ cái nguy cơ suy kiệt vì cái hội chứng chặn dòng làm thủy điện. TQ đầu têu và triển khai một chiến dịch mạnh mẽ, huy động tài lực khổng lồ, lôi kép phân hóa các nước dưới nguồn nước của mình. Thậm chí với bạn Lào gần gũi, bạn cũng tỏ ra phớt lờ lời đề nghị của chúng ta không làm nhà máy thủy điện Xakhaburi rất lớn.
Và sau hết, đáng buồn là bản thảo về dòng Mê Công của mình chuẩn bị xong đã phải tạm bỏ trong ngăn kéo, trong bộ nhớ máy tính.
Chính có "tiền sử", có duyên nợ với dòng sông Mê Công từ lâu, nên khi tìm thấy bài viết nào, công trình nghiên cứu nào về dòng sông nổi tiếng này, mình đều hết sức trân trọng và như người ta nói, thấy là "đọc một lèo".
Xin đưa bài viết vừa nói trên mà mình mới nhận được theo con đường hòm thư bạn bè trao đổi thông tin...
Vệ Nhi g-th
-------------
21/03/2016
Nguyễn Minh Quang, P.E.
Tháng 3 năm 2016
Sơ lược về tác giả
Tác
giả là Kỹ sư Công chánh Chuyên nghiệp (Professional Civil Engineer) của
Tiểu bang California. Tốt nghiệp Kỹ sư Công chánh tại Trung tâm Quốc
gia Kỹ thuật Phú Thọ, Sài Gòn năm 1972; Trưởng ty Kế hoạch của Ủy ban
Quốc gia Thủy lợi thuộc Bộ Công chánh và Giao thông đến tháng 4 năm
1975. Tốt nghiệp Cao học Thủy lợi tại Ðại học Nebraska, Hoa Kỳ năm 1985;
Chuyên viên Thủy học (Hydrologist) của Sở Quản trị Thủy lợi, Broward
County, Florida đến năm 1989. Từ năm 1990 đến 2015, Kỹ sư Giám sát
trưởng (Senior Supervising Engineer) của Stetson Engineers Inc., một
công ty cố vấn về thủy lợi và ô nhiễm nguồn nước, thành lập năm 1957 ở
Los Angeles.
Phần tóm tắt
Tuy
chưa là cao điểm của mùa khô 2016, tình trạng hạn hán và xâm nhập của
nước mặn ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đã lên đến mức báo động. Các
cơ quan có thẩm quyền ở Việt Nam đều cho rằng “các hồ chứa thượng lưu” là nguyên nhân “chi phối chủ đạo.”
Dữ
kiện lưu lượng của Ủy hội sông Mekong (Mekong River Commission (MRC))
cho thấy các đập thủy điện trên dòng chánh Mekong ở Trung Hoa hay trên
phụ lưu trong hạ lưu vực Mekong không phải là nguyên nhân. Cũng không
phải do hạn hán (hay thay đổi khí hậu) vì ĐBSCL hiện đang ở trong mùa
khô. “Thủ phạm” chính là việc gia tăng sử dụng nước sông Mekong của Lào,
Thái Lan, và Cambodia; lên đến 2.991m3/sec tức 49% lưu lượng sông
Mekong tại Kratié. Đó là chưa kể lượng nước do Cambodia sử dụng cho các
dự án thủy nông ở hạ lưu Kratié.
Việc gia tăng
sử dụng nước sông Mekong của Lào, Thái Lan, và Cambodia không phải là
nguyên nhân duy nhất. Tình trạng thiếu nước hiện nay ở ĐBSCL, thực sự,
bắt nguồn từ chánh sách phát triển thiển cận ở ĐBSCL, nguyên tắc “mạnh
ai nấy làm” trong lưu vực Mekong, và việc quản lý nguồn nước thiếu khoa
học kéo dài từ năm 1975 cho đến nay.
Để cứu
hạn mặn ở ĐBSCL, chánh phủ Việt Nam đã yêu cầu Trung Hoa xả nước sông
Mekong từ đập Cảnh Hồng, nhưng trên thực tế, biện pháp nầy “quá ít và
quá trễ.” Biện pháp thực tiễn và khả thi cấp thời là (1) sử dụng khôn
ngoan số nước hiện có để cứu vãn diện tích lúa Đông-Xuân chưa bị thiệt
hại và (2) tránh tối đa việc “lấy ngọt chống hạn” để giảm thiểu sự xâm
nhập của nước mặn và duy trì nguồn nước ngọt cho các thành phố như Cần
Thơ, Bến Tre, Trà Vinh và Mỹ Tho.
Các biện
pháp ngắn hạn có thể bao gồm việc (1) thực hiện hệ thống đo đạc lưu
lượng và độ mặn dùng cho việc quản lý nguồn nước, (2) giảm bớt số lượng
nước dùng cho nông nghiệp trong vùng chịu ảnh hưởng của nước mặn, và (3)
nghiên cứu khả thi việc sử dụng các hồ thủy điện hiện có trên Cao
nguyên miền Trung cho mục đích thủy nông. Các biện pháp dài hạn có thể
bao gồm (1) thay đổi chánh sách phát triển ĐBSCL, (2) “cải tạo” hệ thống
thủy lợi hiện nay cho phù hợp với chánh sách phát triển mới, (3) “phục
hồi” các nguyên tắc của Ủy ban Quốc tế Mekong (Mekong Committee (MC))
1957 và điều lệ của Thông cáo chung 1975, và (4) thương thảo với các
quốc gia thượng nguồn để bảo vệ quyền lợi của Việt Nam trong việc phát
triển sông Mekong.
Phần dẫn nhập
Kể
từ giữa tháng 2 năm 2016, tuy chưa phải là cao điểm của mùa khô, báo
chí trong nước [1-5] cũng như các đài phát thanh quốc tế [6-8] đã lên
tiếng báo động về tình trạng hạn hán và xâm nhập của nước mặn ở ĐBSCL vì
thiếu nguồn nước ngọt. Tình trạng nầy gây thiệt hại cho hàng trăm ngàn
ha lúa cũng như gây khó khăn cho sinh hoạt hàng ngày của người dân
ĐBSCL.
Các cơ quan có thẩm quyền ở Việt Nam
gần như “nhất trí” về nguyên nhân của tình trạng thiếu nước nầy. Viện
Khoa học Thủy lợi miền Nam (VKHTL) cho rằng “hai yếu tố thượng lưu
quan trọng chi phối chủ đạo đến nguồn nước, xâm nhập mặn ở ĐBSCL là
lượng trữ trong Biển Hồ (Tonle Sap) và dòng chảy đến Kratié (đầu châu
thổ Mekong) trong mùa khô… do có sự chi phối của các hồ chứa thượng lưu” [9]. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (BNNPTNT), qua Thứ trưởng Hoàng Văn Thắng, “…thì
khẳng định, hạn hán, ngập mặn có nguyên nhân trực tiếp từ hiện tượng
suy thoái các con sông. Và thủ phạm của sự suy thoái đó, chủ yếu là do
quá trình phát triển hồ chứa ở thượng nguồn” [4]. Tiến sĩ (TS) Lê Đức Trung, Chánh văn phòng Ủy ban sông Mê Công Việt Nam (UBSMC), thì cho rằng “…vấn
đề điều tiết trong các công trình trong lưu vực sông Mê Kông cũng là
tác nhân. Hiện trên dòng chính sông Mê Kông có các công trình của Trung
Quốc, còn các công trình trên sông nhánh do bị hạn, thiếu nước cũng
không xả nước xuống dòng chảy sông Mê Kông. Thái Lan cũng có một số công
trình chuyển nước trong khu vực, các quốc gia gia tăng sử dụng nước,
làm hạn ở hạ lưu sông Mê Kông trầm trọng hơn” [10].
“Các
hồ chứa thượng lưu” có chi phối chủ đạo đến nguồn nước và xâm nhập mặn ở
ĐBSCL? Nguyên nhân trực tiếp của hạn hán và ngập mặn ở ĐBSCL là sự suy
thoái các con sông qua quá trình phát triển hồ chứa ở thượng nguồn? Việc
điều tiết các công trình trên dòng chính sông Mekong ở Trung Hoa và các
công trình trên sông nhánh là tác nhân của hạn hán và xâm nhập mặn ở
ĐBSCL? Các quốc gia như Thái Lan gia tăng sử dụng nước làm hạn hán ở hạ
lưu vực sông Mekong trầm trọng hơn? Bài viết nầy có mục đích trả lời các
câu hỏi đó và trình bày những nguyên nhân thực sự của tình trạng thiếu
nước hiện nay ở ĐBSCL.
Ảnh hưởng của hồ chứa ở thượng nguồn
Ảnh hưởng của các đập thủy điện trên dòng chính ở Trung Hoa
Hình 1 – Trạm thủy học ở thượng hạ lưu vực [11]
Dữ
kiện lưu lượng tại trạm Chiang Saen, Thái Lan cho thấy các đập thủy
điện trên dòng chính Mekong ở Trung Hoa đã gia tăng lưu lượng của sông
Mekong ở hạ lưu, ít nhất là trong hai tháng đầu năm của mùa khô. Điều
nầy phù hợp với nguyên tắc thủy học của một đập thủy điện, đó là, trữ
nước trong mùa mưa để chạy máy điện trong mùa khô với một lưu lượng lớn
hơn lưu lượng tự nhiên của sông tại nhà máy. Số nước nầy được trả lại
dòng sông ở hạ lưu đập, vì thế, sông không bị mất nước. Như vậy, các đập
thủy điện trên dòng chính Mekong ở Trung Hoa không phải là nguyên nhân
của hạn hán và xâm nhập nước mặn ở ĐBSCL.
Ảnh hưởng của các đập thủy điện trên sông nhánh (phụ lưu)
Hình 2 – Trạm thủy học ở hạ lưu vực [11]
Ảnh
hưởng của các đập thủy điện trên sông nhánh (phụ lưu) của sông Mekong
đối với tình trạng thủy học của ĐBSCL có thể được lượng định bằng cách
so sánh dữ kiện đo đạc tại trạm Kratié ở Cambodia (Hình 2). Trạm nầy là
cửa ngỏ của châu thổ sông Mekong.
Theo dữ kiện
đo đạc được công bố trên website của MRC [11], lưu lượng trung bình
trong 2 tháng đầu năm 1999 tại Kratié là 2.919m3/sec. Vào thời điểm nầy,
chỉ có đập trên các sông nhánh ở Thái Lan và các đập Nam Ngum 1 (1971),
Theun-Hinboun (1998), và Houay Ho (1999) ở Lào. Lưu lượng trung bình
trong 2 tháng đầu năm 2016 tại Kratié là 2.942m3/sec sau khi một số đập
quan trọng được hoàn tất như Nam Theun 2 (2010) và Nam Ngum 2 (2011) ở
Lào; Lam Ta Khong (2002) ở Thái Lan; và Yali Falls (2001) và Plei Krong
(2008) ở Việt Nam [12].
Dữ kiện lưu lượng tại
trạm Kratié, Cambodia cho thấy các đập thủy điện trên phụ lưu Mekong ở
Lào, Thái Lan và Việt Nam đã gia tăng lưu lượng của sông Mekong ở hạ
lưu, ít nhất là trong hai tháng đầu năm của mùa khô. Mức gia tăng lưu
lượng tại Kratié không cao bằng mức gia tăng tại Chiang Saen vì nước
sông Mekong được dùng cho các dự án thủy nông dọc theo sông Mekong.
Kết
quả của một cuộc nghiên cứu trong năm 2013 [14] cho biết các đập thủy
điện hiện nay trên phụ lưu sông Mekong có thể làm cho lưu lượng trung
bình trong mùa khô của sông Mekong tại Kratié tăng 406m3/sec. Như vậy,
các đập trên phụ lưu ở hạ lưu vực Mekong cũng không phải là nguyên nhân
của hạn hán và xâm nhập nước mặn ở ĐBSCL.
Ảnh hưởng do việc gia tăng sử dụng nước sông Mekong
Hình 3 – Trạm bơm Huay Laung [GoogleEarth]
Việc
gia tăng sử dụng nước trên dòng chính Mekong được báo chí Việt Nam đề
cập đến, vào giữa tháng 1 năm 2016, sau khi chánh phủ Thái Lan chấp
thuận việc nghiên cứu khả thi dự án bơm nước sông Mekong vào các hồ chứa
trên sông Huay Laung, một phụ lưu của sông Mekong ở Nong Khai, để chống
hạn và phục vụ nông nghiệp. Theo TS Lê Đức Trung, “…Thái Lan đang có
2 đạng dự án là chuyển nước trong chính lưu vực sông Mê Kông (không gây
ảnh hưởng nhiều) và chuyển nước ra ngoài lưu vực sông Mê Kông (gây tác
động mạnh đến vùng hạ lưu)… Vấn đề sông Mê Kông rất quan trọng nên chắc
chắn chúng tôi sẽ luôn bám sát, trao đổi thường xuyên với phía Thái Lan.
Nếu họ chuyển nước ra khỏi lưu vực sông Mê Kông hay chuyển nước vào mùa
khô, chắc chắn VN sẽ có ý kiến.” [15] Nhưng đến cuối tháng 1, Nha Thủy nông Hoàng gia (Royal Irrigation Department (RID)) Thái Lan cho biết “…đã
hoàn tất việc nghiên cứu khả thi dự án rẽ nước sông Mekong - để dẫn
tưới từ 80.000 đến 208.000 ha trong lưu vực Huay Laung - vào cuối năm
ngoái… và bắt đầu giai đoạn 1 với việc thiết lập 3 máy bơm có công suất
12m3/sec (Hình 3) để bơm nước sông Mekong vào phía trên cửa cống Huay Laung ở Phon Phisai, Nong Khai… và có khả năng tưới cho 2.400 ha.” [16]
Hình 4 – Các dự án thủy nông trong hạ lưu vực Mekong [17]
Theo
dữ kiện đo đạc tại các trạm thủy học, dọc theo dòng chính của sông
Mekong, được công bố trên website của MRC [11], ngoài dự án Huay Laung,
trong 2 tháng đầu năm 2016, nước của sông Mekong dường như được bơm từ
dòng chính qua nhiều dự án thủy nông khác (Hình 4) trong vùng thượng hạ
lưu vực ở Thái Lan và Lào (Bảng 1) và trong vùng trung hạ lưu vực ở Lào
và Cambodia (Bảng 2).
Bảng 1 – Lưu lượng sông Mekong trong thượng hạ lưu vực [11]
Bảng 2 – Lưu lượng sông Mekong trong trung hạ lưu vực [11]
Sử dụng nước sông Mekong ở Lào
Dựa
vào dữ kiện lưu lượng của MRC, ít nhất, Lào đã sử dụng toàn phần số sai
biệt lưu lượng giữa Luang Prabrang và Chiang Khan là 167m3/sec (Bảng
1), vì hai trạm nầy hoàn toàn nằm trong lãnh thổ Lào (Hình 1). Đối với
sự sai biệt lưu lượng giữa Vientiane và Nong Khai là 86m3/sec và giữa
Nong Khai và Paksane là 515m3/sec (Bảng 1), có lẽ Lào chỉ sử dụng một
phần vì các trạm nầy nằm trên biên giới của Lào và Thái Lan (Hình 1).
Đa
số nước sông Mekong được dùng để trồng lúa trong mùa khô, một phần rất
nhỏ (từ 2m3/sec lên 5.5m3/sec trong năm nay [18]) để cung cấp nước gia
dụng cho Vientiane (Hình 5).
Hình 5 – Trạm bơm nước Vientiane [Internet]
Tương
tự, Lào có thể chỉ sử dụng một phần nhỏ sự sai biệt lưu lượng giữa
Savannakhet và Khong Chiam lên đến 1.653m3/sec (Bảng 2), để dẫn tưới
đồng bằng Savannakhet. Phần còn lại, có lẽ do Thái Lan sử dụng vì hai
trạm nầy nằm trên biên giới Lào và Thái Lan (Hình 2).
Việc
trồng lúa trong mùa khô ở Lào, phần lớn là dọc theo các con sông, bùng
phát trong thập niên 1990 với việc chánh phủ Lào lắp đặt 8.000 máy bơm
điện và diesel dọc theo sông Mekong và các phụ lưu chảy qua 3 đồng bằng
quan trọng trong tỉnh Vientiane, Savannakhet và Khuammuan để tưới cho
110.000 ha vào năm 2000. Do việc điều hành kém cỏi, nông dân từ chối
trồng lúa mùa khô, khiến diện tích giảm xuống còn 69.000 ha vào năm
2006. Diện tích trồng lúa mùa khô hiện nay khoảng 99.000 ha và dự trù sẽ
tăng lên 333.000 ha trong vòng 20 năm tới [19].
Tuy
dữ kiện không có sẵn, nhưng dựa trên kết quả nghiên cứu ở đồng bằng
Vientiane (cần 1 lưu lượng 48m3/sec để tưới cho 20.000 ha trong mùa khô)
[20], số nước sông Mekong do Lào sử dụng trong mùa khô hiện nay có thể
lên đến khoảng 240m3/sec và tăng lên đến 800m3/sec trong vòng 20 năm
tới.
Sử dụng nước sông Mekong ở Thái Lan
Như
đã trình bày ở trên, Lào chỉ sử dụng khoảng 240m3/sec trong tổng số sai
biệt lưu lượng giữa các trạm thủy học nằm trên biên giới Lào-Thái Lan
là 2.254m3/sec; vì vậy, lưu lượng còn lại – khoảng 2.000m3/sec - có thể
được xem như do Thái Lan sử dụng.
Hình 6 – Dự án Khong-Loei-Chi-Mun [21]
Thái
Lan hiện có khoảng 5.700 dự án thủy nông, với 974 dự án cần đến bơm, để
dẫn tưới khoảng 1.400.000 ha trong mùa mưa và 171.000 ha trong mùa khô.
Thái Lan đã có kế hoạch thực hiện thêm 447 dự án mới để tưới cho
134.000 ha trong mùa mưa và 79.000 ha trong mùa khô [19]. Dựa trên dữ
kiện của giai đoạn 1 [16], nhu cầu nước để trồng lúa trong mùa khô của
Thái Lan sẽ tăng từ 855m3/sec như hiện nay lên 1.250m3/sec trong tương
lai.
Vào năm 2003, chánh phủ Thái Lan loan báo
kế hoạch thực hiện một “mạng lưới nước (water grid)” quốc gia, gấp ba
khả năng của hệ thống thủy nông hiện nay. Tuy mang tầm vóc quốc gia,
mạng lưới chú trọng vào vùng Đông Bắc với dự án chuyển nước từ dòng
chánh sông Mekong gây nhiều tranh cãi: dự án Khong-Loei-Chi-Mun (Hình
6). Dự án sẽ bơm nước sông Mekong vào sông Loei để dẫn tưới 2.860.000 ha
trong lưu vực sông Chi và Mun và 640.000 ha trong lưu vực sông Mun. Dự
án Khong-Loei-Chi-Mun, tăng diện tích dẫn tưới lên 1.800.000 ha trong
mùa mưa và 900.000 ha trong mùa khô [19], sẽ cần một lưu lượng
1.200m3/sec [21].
Hình 7 – Các dự án chuyển nước sông Mekong của Thái Lan [22]
Ngoài
dự án Khong-Loei-Chi-Mun, Thái Lan còn có những dự án khác sử dụng nước
sông Mekong cho mục đích thủy nông như Mekong-Songkhram (70.400 ha),
Ban Bung Khieo-Yasothon (16.000 ha) và Mekong-Sirindhorn (64.000 ha)
(Hình 7). Nếu các dự án nầy được thực hiện, cũng theo dữ kiện của gia
đoạn 1 [16], Thái Lan cần đến 752m3/sec nước sông Mekong trong mùa khô.
Với
một lưu lượng khoảng 2.000m3/sec của sông Mekong bị thất thoát, rất có
thể Thái Lan đã âm thầm thực hiện và đưa vào hoạt động một phần của dự
án Khong-Loei-Chi-Mun và các dự án chuyển nước sông Mekong khác giữa hai
trạm thủy học Savannakhet và Khong Chiam.
Sử dụng nước sông Mekong ở Cambodia
Dựa
vào dữ kiện lưu lượng của MRC, Cambodia đã sử dụng toàn phần số sai
biệt lưu lượng giữa Stung Treng và Kratié là 737m3/sec (Bảng 2), vì hai
trạm nầy hoàn toàn nằm trong lãnh thổ Cambodia (Hình 2). Hiện nay,
Cambodia có khoảng 261.000 ha được dẫn tưới trong mùa khô và 16.700 ha
lúa vụ ba. Con số nầy có thể tăng lên 378.000 và 21.100 ha trong vòng 20
năm tới [19]. Vì diện tích dẫn tưới trong mùa khô hiện nay chỉ có 9.325
ha [23] (với nhu cầu được ước tính khoảng 50m3/sec) trong 2 tỉnh Stung
Treng và Kratié, rất có thể Cambodia đã hoàn tất và đưa vào sử dụng các
dự án thủy nông sử dụng nước sông Mekong giữa 2 trạm Stung Treng và
Kartié.
Hình 8 – Kinh đào của dự án Vaico ở Sithor Kandal [GoogleEarth]
Vào
năm 2003, qua khẩu hiệu “chánh phủ thủy nông,” Thủ tướng Hunsen đã nỗ
lực gây quỹ từ các cơ quan viện trợ ngoại quốc để phục hồi và xây mới hệ
thống thủy nông với tham vọng biến “…Cambodia thành một trong những quốc gia xuất cảng gạo hàng đầu của thế giới” [24].
Tính đến tháng 6 năm 2014, đã có 1 hồ chứa, 4 trạm bơm và 117 km kinh
đào được hoàn tất trong các tỉnh Takeo, Kampot và Kampong Thom [25].
Hình 9 – Đập tràn của dự án Stung Schinit [Internet]
Những
dự án quan trọng khác đã được thực hiện như dự án trên sông Stung Sreng
(dẫn tưới cho 25.000 ha trong mùa mưa và 3.750 ha trong mùa khô trong
các tỉnh Oddar Meancheay, Siem Reap, và Banteay Meancheay [26]), dự án
Stung Schinit (dẫn tưới cho 2.960 ha trong tỉnh Kampong Thom [27]), và
dự án Vaico (chuyển nước sông Mekong từ Koh Sotin – qua 1 hệ thống kinh
đào dài 78 km, rộng 44-55 m, và sâu 18-25 m (Hình 8) - để dẫn tưới
300.000 ha trong tỉnh Kampong Cham, Prey Veng và Svay Rieng. Giai đoạn
đầu của dự án sẽ dẫn tưới 108.300 ha trong mùa mưa và 27.100 ha trong
mùa khô [28]). Nếu diện tích dẫn tưới trong mùa khô của dự án Vaico là
100.000 ha, lưu lượng cần thiết được ước tính khoảng 500m3/sec.
Nguyên nhân của tình trạng thiếu nước ở ĐBSCL
Như
đã trình bày ở trên, dữ kiện lưu lượng tại các trạm thủy học do MRC
công bố cho thấy (1) các đập thủy điện trên dòng chánh Mekong ở Trung
Hoa và trên phụ lưu trong hạ lưu vực Mekong không phải là nguyên nhân
của tình trạng thiếu nước ở ĐBSCL và (2) việc gia tăng sử dụng nước sông
Mekong để dẫn tưới trong mùa khô của Lào, Thái Lan, và Cambodia đã làm
giảm lưu lượng trung bình trong hai tháng đầu năm 2016, ít nhất, là
2.991m3/sec, tức 49% lưu lượng sông Mekong tại Kratié, cửa ngỏ của châu
thổ sông Mekong. Đó là chưa kể một lượng nước quan trọng do Cambodia sử
dụng cho các dự án thủy nông ở hạ lưu Kratié, chẳng hạn như dự án Vaico
và Stung Schinit.
Việc gia tăng sử dụng nước
sông Mekong trong mùa khô của Lào, Thái Lan, và Cambodia; tuy nhiên,
không phải là nguyên nhân duy nhất của tình trạng thiếu nước hiện nay ở
ĐBSCL. Nó càng không phải do tình trạng hạn hán (hay thay đổi khí hậu)
vì ĐBSCL hiện đang ở trong mùa khô, mà bắt nguồn từ chánh sách phát
triển thiển cận, nguyên tắc “mạnh ai nấy làm” trong lưu vực, và việc
quản lý nguồn nước thiếu khoa học kéo dài từ năm 1975 cho đến nay.
Chánh sách phát triển thiển cận
Hình 10 – Hệ thống thủy lợi ở ĐBSCL [19]
Sau
tháng 4 năm 1975, đoàn Quy hoạch Thủy lợi ĐBSCL (ĐQHCL), gồm một số
“chuyên viên thủy lợi thượng thặng” của miền Bắc, đã được điều động vào
Nam để khảo sát, nghiên cứu và thiết lập kế hoạch phát triển ĐBSCL.
Nhiệm vụ của ĐQHCL là “thực hiện thắng lợi chính trị to lớn” của Đảng
giao phó là “…biến tất cả đất đai có thể trồng trọt còn lại của ĐBSCL
thành ruộng lúa có thể trồng nhiều vụ một năm, nhằm đạt chỉ tiêu 20
triệu tấn/năm trong kế hoạch ngũ niên 1975-1980” [29]. Lúc bấy giờ,
chánh sách nầy có vẻ hợp lý để “khắc phục tình trạng ăn độn khoai, sắn,
bo bo… triền miên” ở miền Bắc; nhưng Đảng quên rằng, thay vì trồng lúa,
đất đai ở ĐBSCL còn có thể dùng để sản xuất nhiều nông phẩm khác có giá
trị hơn để “ăn độn” như gà, vịt, cá, tôm… Thế là “…ta đấp đê, xây đập
hay cống ngăn mặn dọc theo duyên hải và dọc theo sông ở hạ lưu thường
bị nước mặn xâm nhập; dọc theo hai bờ sông Cửu Long, nơi nào nước lụt
chảy tràn bờ, ta đắp đê ngăn lũ, xây các công trình lấy nước; nơi nào
không có nước ngọt để thâm canh tăng vụ, ta đào kênh dẫn nước sông Cửu
Long vào, nếu nước không tự chảy, ta xây dựng trạm bơm điện; nơi nào bị
úng, ta thực hiện các công trình tiêu úng, chống úng,” [29] (Hình
10) với giả thiết là lúc nào cũng có sẵn nước ngọt trong sông!? Do đó,
diện tích trồng lúa ở ĐBSCL đã tăng lên đến 1.963.000 ha (khoảng 49%
diện tích của ĐBSCL) với 740.000 ha dẫn tưới trong mùa khô và 1.479.000
ha canh tác 3 vụ một năm [19].
Nguyên tắc “mạnh ai nấy làm” trong lưu vực Mekong
Việc
gia tăng sử dụng nước sông Mekong trong mùa khô của Lào, Thái Lan, và
Cambodia bắt nguồn từ nguyên tắc “mạnh ai nấy làm” của Việt Nam trong
việc thành lập MRC vào năm 1995 để thay thế cho MC 1957. Vì muốn được
“độc lập, tự do” để “làm thủy lợi” ở ÐBSCL (sử dụng tất cả lưu lượng
kiệt của sông Mekong để trồng lúa trong mùa khô!), Việt Nam đã loại bỏ
các nguyên tắc sử dụng nước trong dòng chánh ở hạ lưu sông Mekong của MC
1957, điều mà Thái Lan mong muốn để tiến hành các dự án thủy nông và
thủy điện trong lưu vực sông Mekong như dự án thủy điện Pak Mun và thủy
nông Kong-Chi-Mun. Nhận thấy hậu quả tai hại của nó, Việt Nam “muốn”
thương thảo (bằng cách phản đối) nhưng phải “nhượng bộ” Thái Lan để
“giúp” Cambodia vì Thái Lan xem việc loại bỏ các nguyên tắc của MC 1957
là điều kiện tiên quyết (preconditions) để cứu xét yêu cầu tái gia nhập
MC của Cambodia vào tháng 6 năm 1991 [30].
Cuối
cùng, vào ngày 5 tháng 4 năm 1995, Cambodia, Lào, Thái Lan, và Việt Nam
ký kết Thỏa ước Hợp tác Phát triển Khả chấp Lưu vực sông Mekong
(Agreement on the Cooperation for the Sustainable Development of the
Mekong River Basin) tại Chiang Rai, Thái lan để thành lập MRC. Thỏa ước
1995 không có một điều khoản ràng buộc pháp lý nào về việc sử dụng nước
sông Mekong. Nói cách khác, Thỏa ước 1995 dành quyền quyết định cho “mỗi
quốc gia thành viên được tự do thực hiện kế hoạch cho tương lai của
mình (each member nation is free to carry out whatever plan or plans it
has for its future)” [30].
Quản lý nguồn nước thiếu khoa học
Dựa
vào dữ kiện lưu lượng của MRC [11], lưu lượng trung bình trong hai
tháng đầu năm 2016 của sông Tiền tại Tân Châu là 3.265m3/sec và của sông
Hậu tại Châu Đốc là 1.646m3/sec. Như vậy, lưu lượng trung bình của sông
Mekong chảy vào ĐBSCL trong hai tháng đầu năm 2016 là 4.911m3/sec; tuy
thấp hơn năm 2003 (7.042m3/sec) nhưng cao hơn năm 2004 (4.490m3/sec)
[31]. Nếu diện tích trồng lúa Đông-Xuân 2015-2016 là 1.563.300 ha [9]
với mức sử dụng nước tưới chỉ bằng ½ của dự án Huay Laung – Giai đoạn 1
(cần 6m3/sec cho 2.400 ha), phải cần một lưu lượng gần 3.910m3/sec, tức
gần 80% số nước sông Mekong chảy vào ĐBSCL. Và đây chính là lý do của
tình trạng thiếu nước ở ĐBSCL.
Để đối phó với
tình trạng thiếu nước ở ĐBSCL, VKHTL đã đưa ra những biện pháp thiếu
khoa học và không mang lại kết quả cho người dân, chẳng hạn như thiết
lập trạm bơm hoặc đập tạm, nạo vét kênh mương, và nâng cấp các kênh
chuyển nước ngọt và các trạm bơm hỗ trợ cho các hệ thống ngọt hóa ở ven
biển! Tệ hại hơn, VKHTL đề nghị “…các địa phương cần phải tích trữ
nguồn nước ngọt tối đa bất kỳ thời điểm nào xuất hiện nguồn nước ngọt
trên sông, kênh; Thực thi quyết liệt hành động chống hạn, hạn–mặn…” [9] và “…để
tận dụng nguồn ngọt xảy ra rất ngắn (chỉ trong vòng 1 tuần), đề nghị
các địa phương tập trung tối đa phương tiện để lấy ngọt, trong đó đặc
biệt chú ý là mở các cống (ở các hệ thống ngọt hóa Gò Công, Nam Mang
Thít,...), bơm,... khi nước ngọt xuất hiện (thường khi mực nước vừa và
thấp)”[32]. Chính việc “lấy ngọt chống hạn” nầy càng làm giảm lưu
lượng của sông, khiến cho nước mặn xâm nhập sâu vào đất liền hơn! Việc
nước mặn trên sông Hậu đã vào đến Cần Thơ [33], một sự kiện chưa từng có
trong lịch sử của ĐBSCL, cho thấy mức tai hại của biện pháp “lấy ngọt
chống hạn” của VKHTL. Và cuối cùng, VKHTL đề nghị tiếp tục “…đầu tư xây dựng các công trình chủ yếu chủ động kiểm soát, cấp nước ngọt cho các vùng ven biển” [34].
Biện pháp khắc phục thực tiễn và khả thi
Biện pháp cấp thời
Đồng
ý với lập luận cho rằng “các hồ chứa thượng lưu” chi phối chủ đạo đến
nguồn nước và xâm nhập mặn ở ĐBSCL, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã đề nghị
Trung Hoa gia tăng lưu lượng xả nước từ đập thủy điện Cảnh Hồng ở Vân
Nam - làm nhiều đợt từ tháng 3 đến tháng 6, tháng 8, mỗi đợt kéo dài
khoảng 7 ngày với lưu lượng tối thiểu là 2.300m3/sec [35] - để khắc phục
tình trạng hạn hán và xâm nhập mặn ở ĐBSCL. Trung Hoa cam kết sẽ xả
nước từ đập Cảnh Hồng, từ ngày 15 tháng 3 đến 10 tháng 4 năm 2016, với
lưu lượng là 2.190m3/sec [36].
Hình 11 – Lúa chết ở Sóc Trăng [TTXVN]
Việc
xả nước sông Mekong của Trung Hoa có lẽ chỉ nhắm vào mục đích tuyên
truyền và chính trị. Bộ trưởng Thủy lợi Trần Lôi của Trung Hoa cho
biết: "Trung Quốc và Việt Nam vừa là đồng chí, vừa là anh em, lại là
láng giềng hữu hảo liền sông liền núi. Do đó chúng tôi đã trao đổi với
Bộ Ngoại giao, bắt đầu từ hôm qua chúng tôi quyết định tăng lưu lượng xả
nước trên đập Cảnh Hồng lên 2000 mét khối trên giây [gấp đôi] mỗi ngày
xuống hạ du. Thời gian xả nước bắt đầu từ ngày 15/3 kéo dài liên tục đến
10/4, sau đó tùy vào tình hình sẽ điều chỉnh thích hợp." Còn đài Phượng Hoàng ở Hongkong thì bình luận rằng:
“Mặc dù giữa Trung Quốc với Việt Nam có những tranh chấp trên Biển
Đông, hay một số nước phương Tây đặc biệt thích tuyên truyền lôi kéo một
bộ phận người dân Việt Nam, khiến cho một số thành phần trong tầng lớp
tinh anh của xã hội Việt Nam có cảm giác đề phòng Trung Quốc… Người
Trung Quốc có câu, bán anh em xa mua láng giềng gần. Lúc Việt Nam và
Thái Lan cần nước thì Trung Quốc liền cấp nước. Đó là điều Ấn Độ không
thể làm, Nhật Bản và Hoa Kỳ càng không thể nào làm được. Do đó tôi nghĩ,
sự kiện này sẽ là gợi ý cho một bộ phận người dân Việt Nam" [37]. Trên thực tế, việc xả nước của Trung Hoa là quá ít và quá trễ vì “…hầu
hết các vùng canh tác lúa, hoa màu hiện nay ở ven biển đã bị
thiệt hại gần hết rồi, đưa một lượng nước ít ỏi như vậy vào
chẳng cứu được bao nhiêu và không còn ý nghĩa nữa” [38].
Biện
pháp thực tiễn và khả thi cấp thời là sử dụng khôn ngoan số nước hiện
có trong sông Tiền và Hậu để cứu vãn diện tích lúa Đông-Xuân chưa bị
thiệt hại trong vùng không bị nhiễm mặn và dễ dẫn tưới. Tránh tối đa
việc “lấy ngọt chống hạn” cho các vùng ven biển để giảm thiểu sự xâm
nhập của nước mặn trong sông Tiền và Hậu hầu duy trì nguồn nước ngọt cho
các thành phố lớn như Cần Thơ, Bến Tre, Trà Vinh và Mỹ Tho.
Biện pháp ngắn hạn (2-3 năm)
Để
việc khai thác ĐBSCL có hiệu quả, nước sông Mekong chảy vào Việt Nam
cần được quản lý một cách chặt chẻ với dữ kiện lưu lượng và độ mặn đầy
đủ và chính xác (đến mức có thể đạt được). Dữ kiện đó phải được thu thập
bởi một hệ thống trạm thủy học đặt ở các vị trí quan trọng trên sông
Tiền và Hậu và ở các cửa sông hay kinh đào lấy nước từ sông Tiền và Hậu.
Vào ngày 17 tháng 3 vừa qua, UBSMC cho biết “…sẽ đặt hai trạm quan trắc để theo dõi lượng nước Trung Quốc xả vào sông Mekong.” Vị
trí của hai trạm nầy không được loan báo [39], nhưng có lẽ là trạm Tân
Châu và Châu Đốc, nơi sông Mekong chảy vào ĐBSCL. Việc đặt hai trạm nầy
là quá ít và quá trễ để quản lý nguồn nước sông Mekong ở ĐBSCL trong mùa
khô năm nay, nhưng hệ thống trạm thủy học vừa nói có thể được thực hiện
trong vòng 1 hoặc 2 năm. Hệ thống nầy có thể giúp ấn định số lượng nước
sử dụng ở ĐBSCL để duy trì mức xâm nhập nước mặn có thể chấp nhận được
trong tương lai.
Hình 12 – Xâm nhập mặn ở ĐBSCL [VKHTL]
Giảm
bớt số lượng nước dùng cho nông nghiệp bằng cách trồng một vụ lúa trong
mùa mưa và hoa màu trong mùa khô ở vùng chịu ảnh hưởng của nước mặn
(Hình 12). Biện pháp nầy có thể giảm 2/3 nhu cầu nước tưới trong mùa khô
trong vùng chịu ảnh hưởng của nước mặn. Số nước tiết kiệm được đủ để
ngăn chận sự xâm nhập của nước mặn vào sông Tiền và Hậu và duy trì nguồn
nước gia dụng cho người dân.
Nghiên cứu khả
thi việc sử dụng hồ chứa của các dự án thủy điện hiện có trên Cao nguyên
miền Trung như Yali Falls, Plei Krong, và Sesan 4 cho mục đích thủy
nông. Dựa theo diện tích của các hồ chứa nầy [12], một lượng nước lên
đến 210 triệum3 có thể tích trữ nếu tăng mực nước điều hành của hồ lên 1
m. Số nước nầy, dùng để dự phòng cho tình trạng khẩn cấp như hiện nay,
đủ để cung cấp cho ĐBSCL một lưu lượng trung bình khoảng 500m3/sec trong
5 ngày; dĩ nhiên, với sự đồng ý và hợp tác của Cambodia.
Biện pháp dài hạn (trên 5 năm)
Như
đã trình bày ở trên, nguyên nhân của tình trạng thiếu nước ngọt ở ĐBSCL
bắt nguồn từ chánh sách phát triển thiển cận và nguyên tắc “mạnh ai nấy
làm” trong lưu vực sông Mekong; vì vậy, chánh sách phát triển từ năm
1975 và nguyên tắc “mạnh ai nấy làm” cần phải được thay đổi, nếu muốn
giải quyết dứt khoát tình trạng thiếu nước ở ĐBSCL.
Chánh sách phát triển mới cần được cụ thể hóa trong kế hoạch tổng thể phát triển ĐBSCL. “Nói
một cách cụ thể, chánh sách biến tất cả đất đai có thể trồng trọt được
thành ruộng lúa từ năm 1975 cần phải thay thế bằng chánh sách phát triển
đa dạng và uyển chuyển dựa theo điều kiện tự nhiên của ÐBSCL. ÐBSCL cần
phải được phân vùng để chọn lựa những vùng sản xuất tối ưu cho việc
trồng lúa, trồng hoa màu, trồng cây ăn trái và cây công nghiệp, chăn
nuôi gia súc, nuôi thủy sản nước ngọt lẫn nước mặn, duy trì hệ sinh thái
nội đồng và ven biển, và thiết lập những vùng đệm nhằm mục đích bảo vệ
môi trường và vùng sinh thái. Những vùng sản xuất phải được chọn lựa như
thế nào để tối ưu phúc lợi (benefit optimization) trong khi giảm đến
mức thấp nhất những ảnh hưởng đối với các vấn đề đang gặp phải hiện nay;
đó là, tình trạng lũ lụt, sạt lở bồi lắng, xâm nhập của nước mặn, ô
nhiễm môi trường, và suy thoái hệ sinh thái.” [29]
Ngoài những “…bất cập của nhiều công trình thủy lợi bấy lâu nay được xây dựng ở Đồng bằng sông Cửu Long” [40],
“…hệ thống thủy lợi ở ÐBSCL cũng phải được quy hoạch lại cho phù hợp
với kế hoạch phát triển mới. Nói cách khác, ÐBSCL cần phải có một hệ
thống thủy lợi hoàn toàn mới, được quy hoạch dựa theo quan niệm và
nguyên tắc hoàn toàn khác với quan niệm và nguyên tắc được áp dụng cho
hệ thống thủy lợi hiện nay ở ÐBSCL. Những công trình và dự án nào của hệ
thống thủy lợi hiện nay không phù hợp với kế hoạch phát triển mới,
không có hiệu năng, hoặc gây ảnh hưởng tai hại phải được tháo gỡ hoặc
hủy bỏ… Nguyên tắc thích hợp nhất cho ÐBSCL là giảm thiểu sự can thiệp
của con người càng nhiều càng tốt với mục tiêu ‘điều thủy’ chứ không
phải là ‘trị thủy.’ Số lượng công trình thủy lợi ở ÐBSCL cần được giảm
thiểu đến mức thấp nhất, nhất là những công trình ‘đào đấp,’ nhưng cần
phải có những hồ chứa nước ở những vùng trũng sâu hay ở ngoài đồng bằng
để điều tiết lưu lượng trong sông Tiền và Hậu trong mùa nắng lẫn mùa
mưa.” [29]
Tình trạng “mạnh ai nấy làm”
trong lưu vực sông Mekong cần phải được chấm dứt càng sớm càng tốt với
việc “phục hồi” nguyên tắc của MC 1957 và Tuyên cáo chung 1975 về việc
sử dụng nước ở hạ lưu sông Mekong. Hai nguyên tắc đầu tiên của MC 1957
là “(1) lưu lượng kiệt của sông Mekong hiện tại không thể bị giảm
bằng bất cứ cách nào và bất cứ ở đâu; và (2) nước dùng cho thủy nông chỉ
được dự trữ trong lúc mực nước sông dâng cao” [30]. Hai điều khoản quan trọng nhất của Tuyên cáo chung 1975 gồm có Ðiều X: “Nước
trong dòng chánh là tài nguyên chung, không một quốc gia duyên hà nào
được đơn phương sử dụng nếu không được các quốc gia trong lưu vực chấp
thuận trước qua Ủy ban” và Ðiều XI: “Các quốc gia duyên hà có thẩm quyền ngang nhau trong việc sử dụng nước trong dòng chánh” [30].
Thỏa
ước 1995 cũng cần có những ràng buộc pháp lý và biện pháp chế tài nếu
các quốc gia vi phạm những điều khoản đã ký kết. Nếu cần, Việt Nam có
thể thương lượng song phương với các quốc gia ở thượng lưu để bảo vệ
quyền lợi quốc gia trong việc phát triển sông Mekong.
Phần kết luận
Từ
giữa tháng 2/2016, tuy chưa phải là cao điểm của mùa khô, báo chí trong
nước cũng như các đài phát thanh quốc tế đã lên tiếng báo động về tình
trạng hạn hán và xâm nhập của nước mặn ở ĐBSCL, gây thiệt hại cho hàng
trăm ngàn ha lúa cũng như gây khó khăn cho sinh hoạt hàng ngày của người
dân. Các cơ quan có thẩm quyền ở Việt Nam như BNNPTNT, VKHTL, và UBSMC
đều cho rằng “các hồ chứa thượng lưu” là nguyên nhân “chi phối chủ đạo.”
Dữ
kiện lưu lượng tại các trạm thủy học do MRC công bố cho thấy nguyên
nhân của tình trạng thiếu nước ở ĐBSCL, không phải do các đập thủy điện
trên dòng chánh Mekong ở Trung Hoa hay trên phụ lưu trong hạ lưu vực
Mekong, mà chính là do việc gia tăng sử dụng nước sông Mekong để dẫn
tưới trong mùa khô ở Lào, Thái Lan, và Cambodia. Chỉ trong 2 tháng đầu
năm 2016, lưu lượng trung bình do các nước nầy sử dụng lên đến
2.991m3/sec, tức 49% lưu lượng sông Mekong tại Kratié. Đó là chưa kể một
lượng nước quan trọng do Cambodia sử dụng cho các dự án thủy nông ở hạ
lưu Kratié, chẳng hạn như dự án Vaico và Stung Schinit.
Nhưng
việc gia tăng sử dụng nước sông Mekong trong mùa khô của Lào, Thái Lan,
và Cambodia không phải là nguyên nhân duy nhất của tình trạng thiếu
nước hiện nay ở ĐBSCL. Nó càng không phải do tình trạng hạn hán (hay
thay đổi khí hậu) vì ĐBSCL hiện đang ở trong mùa khô. Nó bắt nguồn từ
chánh sách phát triển thiển cận, nguyên tắc “mạnh ai nấy làm” trong lưu
vực, và việc quản lý nguồn nước thiếu khoa học kéo dài từ năm 1975 cho
đến nay.
Để cứu hạn mặn ở ĐBSCL, chánh phủ
Việt Nam đã yêu cầu Trung Hoa xả nước sông Mekong từ đập Cảnh Hồng.
Nhưng trên thực tế, biện pháp nầy “quá ít và quá trễ” vì hầu hết vùng
canh tác lúa và hoa màu ở vùng ven biển đã bị thiệt hại gần hết.
Biện
pháp thực tiễn và khả thi cấp thời là (1) sử dụng khôn ngoan số nước
hiện có trong sông Tiền và Hậu để cứu vãn diện tích lúa Đông-Xuân chưa
bị thiệt hại trong vùng không bị nhiễm mặn và (2) tránh tối đa việc “lấy
ngọt chống hạn” cho các vùng ven biển để giảm thiểu sự xâm nhập của
nước mặn trong sông Tiền và Hậu hầu duy trì nguồn nước ngọt cho các
thành phố lớn như Cần Thơ, Bến Tre, Trà Vinh và Mỹ Tho. Các biện pháp
ngắn hạn có thể bao gồm việc (1) thực hiện hệ thống đo đạc lưu lượng và
độ mặn đầy đủ và chính xác (đến mức có thể đạt được) dùng cho việc quản
lý nguồn nước ở ĐBSCL, (2) giảm bớt số lượng nước dùng cho nông nghiệp
bằng cách trồng một vụ lúa trong mùa mưa và hoa màu trong mùa khô ở vùng
chịu ảnh hưởng của nước mặn, và (3) nghiên cứu khả thi việc sử dụng hồ
chứa của các dự án thủy điện hiện có trên Cao nguyên miền Trung cho mục
đích thủy nông. Các biện pháp dài hạn có thể bao gồm (1) thay đổi chánh
sách biến tất cả đất đai ở ĐBSCL thành ruộng lúa bằng một chánh sách đa
dạng, uyển chuyển dựa theo điều kiện tự nhiên của ĐBSCL, (2) “cải tạo”
hệ thống thủy lợi hiện nay ở ĐBSCL cho phù hợp với chánh sách phát triển
mới, (3) “phục hồi” các nguyên tắc của MC 1957 và điều lệ của Thông cáo
chung 1975 bị hủy bỏ khi ký kết Thỏa ước MRC 1995, và (4) thương thảo –
song phương hoặc đa phương - với các quốc gia thượng nguồn để đạt đến
thỏa thuận có tính ràng buộc pháp lý và có biện pháp chế tài để bảo vệ
quyền lợi của Việt Nam trong việc phát triển sông Mekong.
N.M.Q
Tác giả gửi BVN
----------
Tài liệu tham khảo
[31] MRC. No Date. Lower Mekong Hydrologic Yearbook 2003-2004 (CD-ROM). MRC. Vientiane, Lao PRD.