Đang trên đường đi Quảng Ninh nhận được bài viết m9wis của tác giả Nguyễn Quang Dy. Bài hay. Rất hợp thời sự, thời cuộc với chuyến đi của ông Obama tới thăm VN. Phải rẽ vào một quán Net dọc đường để post bài, vì thế có thể "thiếu sót về kỹ thuật" gì đó, xin thể tất. Miễn chấp vì chủ blog tôi chỉ nhắm vào cái đích là bài cần kịp thời...
Vệ Nhi
-----
Di sản của Obama & Bàn cờ Biển Đông
Nguyễn
Quang Dy
Tuần
này, tổng thống Obama thăm chính thức Việt Nam
(23-25/5/2016). Đây là chuyến thăm đầu tiên và cũng là
cuối cùng với cương vị tổng thống (trong 8 năm cầm
quyền). Chuyến thăm này quan trọng, vào một thời điểm
quan trọng, có thể so sánh với chuyến thăm của Bill
Clinton, với bài diễn văn nổi tiếng (17/11/2000). Nếu
Bill Clinton đã đi vào lịch sử với quyết định bình
thường hóa với Việt Nam (11/7/1995), thì hôm nay Barack
Obama cũng đi vào lịch sử với quyết định bỏ cấm vận
vũ khí, để hoàn tất quá trình đó (23/5/2016).
Mỹ-Việt:
Trở lại tương lai?
Bill Clinton còn quay lại Việt nam nhiều lần, với cương vị cựu tổng thống và chủ tịch quỹ Clinton. Gần đây nhất là khi Bill Clinton tới Việt Nam để dự lễ kỷ niệm 20 năm bình thường hóa quan hệ (2/7/2015), và quan trọng hơn là để chuẩn bị và “hộ tống” Tổng Bí thư Nguyễn phú Trọng sang thăm Mỹ (6-10/7/2015). Hillary Clinton cũng đã thăm Việt Nam nhiều lần, với cương vị phu nhân tổng thống hoặc ngoại trưởng. Ông bà Clinton đã để lại một di sản lớn và những dấu ấn khó quên trong lịch sử quan hệ Mỹ-Việt.
Vậy
sau chuyến thăm này, tổng thống Obama sẽ để lại di sản
gì cho quan hệ Mỹ-Việt? Có lẽ trong bối cảnh hiện
nay, vấn đề then chốt nhất là bỏ hoàn toàn cấm vận
bán vũ khí sát thương cho Việt Nam. Điều đó không những
có ý nghĩa hoàn tất quá trình bình thường hóa quan hệ
hai nước, mà còn có tác dụng thúc đẩy chiến lược
xoay trục (hay tái cân bằng lực lượng) của Mỹ tại
Đông Á, vì lợi ích sống còn của hai nước tại Biển
Đông.
Trong
nhiệm kỳ hai, Tổng thống Obama đã làm được hai việc
lớn: Đó là ký thỏa thuận hạt nhân với Iran và bình
thường hóa quan hệ với Cuba. Hôm nay, quyết định bỏ
nốt cấm vận vũ khí cho Việt Nam có lẽ là một sự
kiện quan trọng không kém, để biến Việt Nam thành đối
tác chiến lược, và hiện thực hóa chủ trương xoay trục
(tái cân bằng lực lượng). Chỉ còn mấy tháng nữa để
Obama củng cố vị trí lịch sử của mình tại Châu Á,
có thể sánh vai với Bill Clinton, như một chính khách lớn
và người bạn lớn của Việt Nam.
Nhận
xét về quan hệ Mỹ-Việt 40 năm qua, Patrick Cronin, giám
đốc Chương trình An ninh Châu Á-Thái Bình Dương (tại
CNAS), cho rằng trong 20 năm hậu chiến (1975-1995), quan hệ
Mỹ-Việt đã chuyển đổi từ cựu thù thành bình thường
hóa. Trong 20 năm tiếp theo (1995-2015), Mỹ- Việt đã chuyển
đổi từ bình thường hóa thành đối tác chiến lược
“trên thực tế” (de facto). Vậy trong 10-20 năm tới,
quan hệ hai nước là gì, nếu không phải là đối tác
chiến lược “thực sự”. Nhưng xét cho cùng thì hai
nước cũng chỉ “trở lại tương lai”.
Trong
quá khứ không xa lắm, hai nước đã là đồng minh chống
phát xít Nhật tại Đông Á. Lịch sử hay lặp lại như
một trò chơi tốn kém. Năm 1945, Mỹ đã cử nhóm “Con
Nai” (Deer Team) gồm 18 người do thiếu tá Allison Thomas
chỉ huy, nhảy dù xuống chiến khu Việt Bắc giúp Việt
Minh huấn luyện lực lượng quân sự còn non trẻ. Đại
tá Archimedes Patti (1913-1998), tác giả cuốn “Why VietNam”,
lúc đó đại diện cho OSS (Office of Strategic Services) là
tiền thân của CIA, đã đến Hà Nội vào năm 1945 khi Hồ
Chí Minh lập chính phủ lâm thời và viết Tuyên ngôn Độc
lập. Ông Patti đã giúp cụ Hồ sửa Tuyên ngôn Độc lập
(giống của Mỹ).
Lúc
đó (1945-1946) Hồ Chí Minh đã tìm mọi cách để bang giao
với Mỹ, giống như ông Bùi Viện (1839-1878) đã cố gắng
làm trong thế kỷ trước, nhưng không thành (vì những trớ
trêu của lịch sử). Theo tư liệu lịch sử, ông Bùi Viện
đã hai lần cất công sang tận Washinton DC, gặp được
tổng thống Ulysses Grant (1873-1875) để cầu viện chống
Pháp, nhưng đã bị “nhỡ tàu”. Năm 1978, cơ hội bình
thường hóa quan hệ hai nước sau chiến tranh Việt Nam
cũng bị “nhỡ tàu” (cho đến năm 1995). Nhìn lại, cái
giá phải trả cho việc “nhỡ tàu” nhiều lần, làm mất
cơ hội hợp tác chiến lược, là quá lớn đối với cả
hai nước. Vậy phải làm thế nào để khi “trở lại
tương lai” hai nước không bị “nhỡ tàu” một lần
nữa?
Robert
McNamara (cựu bộ trưởng quốc phòng dưới thời John
Kennedy) đã thừa nhận sai lầm trong cuốn sách về chiến
tranh Việt Nam (In Retrospect: The Tragedy and Lessons of Vietnam,
McNamara, Vintage Books, 1996) và ông ấy đã đến Hà Nội
gặp đại tướng Võ Nguyên Giáp để lý giải và hòa
giải quá khứ. Muộn còn hơn không. Họ đã cố gắng
thanh lý di sản của một cuộc chiến tranh vô nghĩa (do
nhầm lẫn).
Ông
Phạm Xuân Ẩn (“điệp viên hoàn hảo”) tuy chống Mỹ
vì nhiệm vụ của một người yêu nước, nhưng cũng yêu
nước Mỹ (với vai trò ký giả của Time magazine). Ông Ẩn
là một nghịch lý của một cuộc chiến không đáng có.
Đến cuối đời, ông ấy vẫn mong hai nước trở thành
bạn và đồng minh. Con ông ấy (Phạm Xuân Hoàng Ân) đã
phiên dịch cho chủ tịch nước Trương Tấn Sang và tổng
thống Obama trong chuyến thăm Mỹ (24-26/7/2014).
Obama:
Tiếng kèn ngập ngừng?
Theo
Alexander Vuving (Vũ Hồng Lâm), Việt Nam đang tách xa dần
Trung Quốc, nhưng “không quá xa”, và đang nhích lại gần
Mỹ, nhưng “không quá gần”. Nói cách khác, quan hệ
Mỹ-Việt tuy đã sang trang (sau chuyến thăm Mỹ của TBT
Nguyễn Phú Trọng), nhưng vẫn như “tiếng kèn ngập
ngừng”. Việt Nam vẫn tiếp tục đi dây để giữ cân
bằng quan hệ với Trung Quốc và Mỹ. Hai vấn đề then
chốt đang cản trở quan hệ đối tác chiến lược với
Mỹ (là nhân quyền và căn cứ Cam Ranh) vẫn chưa được
tháo gỡ.
Trong
khi đó, nhiều người cho rằng Chính quyền Obama đã mắc
vào cái bẫy duy trì hòa bình bằng mọi giá và sẽ phải
trả giá đắt cho chủ trương này. Thái độ này làm cho
Bắc Kinh càng thêm cứng rắn và hành động táo bạo hơn
để thay đổi nguyên trạng Biển Đông, biến những gì
họ đã chiếm được thành việc đã rồi. Những gì
Washington đã làm, gồm những lời tuyên bố suông
(rhetoric) và các cuộc tuần tra FONOP “vô hại” (innocent
passage) không làm Bắc Kinh chùn bước trong kế hoạch lấn
chiếm và quân sự hóa Biển Đông.
Chuyến
tuần tra FONOP thứ ba sau khi bị hoãn, đã được USS
William Lawrence triển khai (10/5/2016) đi qua đá Chữ Thập
(Fiery Croos Reef) chứ không qua đá Vành Khăn (Mischief Reef)
và vẫn theo hình thức “đi qua vô hại” (innocent
passage). Tuy quyết định này có thể liên quan đến tính
toán thời điểm Tòa án Trọng tài Quốc tế ra phán
quyết, nó phản ánh tâm lý sợ rủi ro (risk-averse) của
tổng thống Obama, muốn tránh mọi tình huống gây ra khủng
hoảng với Trung Quốc, trong mấy tháng cuối cùng của
nhiệm kỳ tổng thống. Nhưng càng tránh rủi ro thì rủi
ro càng tìm đến, với nguy cơ cao hơn. FONOP theo kiểu “đi
qua vô hại” không
có tác dụng răn đe Trung Quốc, và làm đồng minh và đối
tác bất an.
Việc
trì hoãn bỏ cấm vận vũ khí sát thương bằng cách gắn
nó với điều kiện cải thiện nhân quyền như một kiểu
trao đổi (tradeoff) không phải là cách làm hiệu quả,
thậm chí còn phản tác dụng (counter-productive). Trong khi
Trung Quốc nhảy “Rock n Roll” thì Mỹ-Việt vẫn nhảy
“Slow Waltz”, theo “tiếng kèn ngập ngừng”. Trong khi
Trung Quốc ráo riết quân sự hóa các đảo họ lấn chiếm
và bồi đắp tại Biển Đông (xây dựng các sân bay quân
sự và quân cảng, lắp đặt các trạm ra đa và tên lửa
hiện đại) biến thành các cứ điểm mạnh, thì Mỹ-Việt
vẫn sa vào trò chơi “mèo vờn chuột”, tiếp tục mà
cả để đổi chác nhân quyền lấy vũ khí (human rights
for arms). Việc này chỉ có lợi cho phái cực đoan và bảo
thủ tại Bắc Kinh (và Hà Nội), đồng thời làm vô hiệu
hóa chiến lược xoay trục của Mỹ và đồng minh.
Đòi
hỏi Việt Nam tôn trọng và cải thiện nhân quyền là cần
thiết. Nhưng chấp nhận việc thả tù chính trị nhỏ
giọt để đánh đổi lấy bỏ cấm vận vũ khí từng
phần, sẽ dẫn đến tiến thoái lưỡng nan (như “catch
22”). Nó chỉ kéo dài sự ngược đãi giới bất đồng
chính kiến, và đẩy hàng vạn ngư dân vô tội đến chỗ
tuyệt vọng, vì họ bị tàu thuyền Trung Quốc xua đuổi
không cho đánh cá tại vùng biển của mình, trong khi bờ
biển Miền Trung bị nhiễm độc nặng trong một thảm họa
môi trường lớn. Chẳng lẽ đây không phải là vấn đề
nhân quyền?
Muốn ngăn chặn Trung Quốc bành trướng tại Biển Đông mà lại sợ làm họ mất lòng thì thật vô lý. Trong khi Trung Quốc bành trướng, thách thức Mỹ và bắt nạt Việt Nam, tại sao họ không sợ làm mất lòng Mỹ hay Việt Nam? Tại sao Mỹ tuần tra FONOP tại Biển Đông lại phải áp dụng innocent passage? (sợ Trung Quốc phản ứng?). Tại sao Viêt Nam không dám kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế như Philippines (sợ Trung Quốc tức giận?).
Về quan hệ Việt-Trung, Patrick Cronin nhận xét, Việt Nam rất thận trọng không muốn vượt qua “vạch đỏ” (red lines) với Trung Quốc, và Mỹ tôn trọng điều này. Cronin nói “chúng tôi không tìm kiếm căn cứ quân sự”. Trong khi đó Jonathan London cho rằng lãnh đạo Việt Nam không muốn làm “đứt cầu chì” (circuit breaker), để Trung Quốc có lý do phản ứng quá mạnh…Theo Carl Thayer, lý do chính Việt Nam muốn bỏ cấm vận vũ khí là ý nghĩa chính trị tượng trưng, chứ không phải là nhu cầu quân sự cấp bách.
Trong khi đó, Alexandere Vuving lập luận rằng muốn hóa giải sự lưỡng lự của giới quân sự Việt Nam, “Mỹ phải chứng tỏ thiện chí bằng cách bỏ hẳn cấm vận vũ khí”... Làm như vậy sẽ “mở rộng cửa” để hợp tác quân sự chặt chẽ hơn, và để thực hiện bước tiếp theo là tiếp cận căn cứ Cam Ranh. Nếu thường xuyên tiếp cận căn cứ Cam Ranh, “Mỹ sẽ có nhiều lợi thế để duy trì cân bằng lực lượng với Trung Quốc”. Có lẽ, Mỹ cần Việt Nam vì ba lý do chính: (1) VN có vị trí chiến lược quan trọng, (2) VN có căn cứ chiến lược Cam Ranh và quân đội thiện chiến, (3) VN có truyền thống chống Trung Quốc.
Muốn ngăn chặn Trung Quốc bành trướng tại Biển Đông mà lại sợ làm họ mất lòng thì thật vô lý. Trong khi Trung Quốc bành trướng, thách thức Mỹ và bắt nạt Việt Nam, tại sao họ không sợ làm mất lòng Mỹ hay Việt Nam? Tại sao Mỹ tuần tra FONOP tại Biển Đông lại phải áp dụng innocent passage? (sợ Trung Quốc phản ứng?). Tại sao Viêt Nam không dám kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế như Philippines (sợ Trung Quốc tức giận?).
Về quan hệ Việt-Trung, Patrick Cronin nhận xét, Việt Nam rất thận trọng không muốn vượt qua “vạch đỏ” (red lines) với Trung Quốc, và Mỹ tôn trọng điều này. Cronin nói “chúng tôi không tìm kiếm căn cứ quân sự”. Trong khi đó Jonathan London cho rằng lãnh đạo Việt Nam không muốn làm “đứt cầu chì” (circuit breaker), để Trung Quốc có lý do phản ứng quá mạnh…Theo Carl Thayer, lý do chính Việt Nam muốn bỏ cấm vận vũ khí là ý nghĩa chính trị tượng trưng, chứ không phải là nhu cầu quân sự cấp bách.
Trong khi đó, Alexandere Vuving lập luận rằng muốn hóa giải sự lưỡng lự của giới quân sự Việt Nam, “Mỹ phải chứng tỏ thiện chí bằng cách bỏ hẳn cấm vận vũ khí”... Làm như vậy sẽ “mở rộng cửa” để hợp tác quân sự chặt chẽ hơn, và để thực hiện bước tiếp theo là tiếp cận căn cứ Cam Ranh. Nếu thường xuyên tiếp cận căn cứ Cam Ranh, “Mỹ sẽ có nhiều lợi thế để duy trì cân bằng lực lượng với Trung Quốc”. Có lẽ, Mỹ cần Việt Nam vì ba lý do chính: (1) VN có vị trí chiến lược quan trọng, (2) VN có căn cứ chiến lược Cam Ranh và quân đội thiện chiến, (3) VN có truyền thống chống Trung Quốc.
John
McCain & John Kerry: Không thể thiếu?
Không
thể hòa giải và bình thường hóa quan hệ hai nước nếu
thiếu vai trò dẫn đầu của TNS John McCain (Chủ tịch
Tiểu ban Quân lực Thượng viện) và John Kerry (Ngoại
trưởng), cũng như hàng ngàn cựu binh khác (như đại sứ
Pete Peterson). Họ đang chiến đấu dũng cảm vì hòa bình
và hòa giải, cũng như khi họ chiến đấu dũng cảm trong
chiến tranh. Di sản của tổng thống Obama (và Clinton)
trong quan hệ Mỹ-Việt không thể tách rời vai trò của
John Kerry và John McCain, cùng những người khác. Dù trước
đây là thương binh hay tù bình, họ không trở thành “tù
binh của quá khứ” (prisoner of the past). Trong chuyến thăm
Việt Nam lần này, cùng với Tổng thống Obama, Ngoại
trưởng John Kerry sẽ dự lễ khởi công dự án Đại học
Fulbright. John Kerry là người bảo trợ cho dự án này ngay
từ đầu.
Không
phải ngẫu nhiên mà TNS John McCain phát biểu, “Đã đến
lúc chúng ta phải chuyển hướng, trong chính sách của Mỹ
tại Châu Á-Thái Bình Dương…Mỹ cần hành động mạnh
mẽ hơn là những cử chỉ tượng trưng tại Biển Đông”
(Americda Needs More than Symbolic Gestures in the South China Sea,
John McCain, Financial Times, April 12, 2016). John McCain có vai
trò chính trong việc vận động bỏ một phần cấm vận
vũ khí (năm 2014). McCain lập luận rằng không nên hạn
chế việc bán công nghệ quốc phòng cho Việt Nam để đảm
bảo an ninh hàng hải, nhưng việc chuyển giao các chủng
loại vũ khí khác cần phải xét “từng trường hợp
một” (case by case) và gắn với tiến bộ về nhân quyền.
Tổng
thống Hillary Clinton: Déjà vu?
Chỉ
còn mấy tháng nữa, (từ 1/2017), Việt Nam (và Trung Quốc)
phải làm quen với tổng thống Hillary Clinton (hay tổng
thống Donald Trump?). Ngoài hai ứng cử viên đại diện cho
hai đảng, không còn ai khác. Dù ai sẽ sẽ là chủ Nhà
trắng, thì cũng phải tiếp thu di sản của ông Obama, để
đối phó với Trung Quốc tại Biển Đông.
Mặc
dù thua Barack Obama trong cuộc đua vào Nhà trắng (cách đây
8 năm) Hillary Clinton đã nhận lời Obama làm ngoại trưởng.
Với vai trò ngoại trưởng, Hillary Clinton là kiến trúc sư
của chính sách xoay trục (hay tái cân bằng) của Mỹ. Nay
ra tranh cử tổng thống lần thứ hai, Hillary Clinton có cơ
hội lớn để thắng cử, trở thành tổng thống nữ đầu
tiên trong lịch sử nước Mỹ. Với kinh nghiệm của đệ
nhất phu nhân và ngoại trưởng, Hillary Clinton sẽ là một
“tổng thống tuyệt vời” (excellent president) như nhận
xét của Barack Obama.
Tuy
tính cách và tầm nhìn có thể khác nhau, nhưng Barack Obama và Hillary Clinton
đã “cộng tác lành mạnh” trong chiến lược “xoay trục sang Châu Á” (mà cả hai đều
muốn nhận là tác giả). Họ “nhất trí nhiều hơn là bất đồng”, khác biệt “về phong
cách và bản năng, chứ không phải bản chất và nguyên tắc”. Nhưng khi cần phải
tranh thủ cử tri, thì Hillary Clinton sẵn sàng né tránh hoặc thay đổi lập trường
đối với những vấn đề nhạy cảm (như TPP). Bản năng chính trị thực dụng đó có thể
làm nhiều người thất vọng, vì Hillary Clinton “luôn ứng xử như một ứng cử
viên”. (“Alter Ego”, Landler, Random house, 2016).
Mặc
dù Bill Clinton mắc vào bê bối tình dục (trong nhiệm kỳ đầu), nhưng Hillary đã
giúp Bill Clinton vượt qua thử thách và trở thành cặp đôi quyền lực (partners
in power). Bill Clinton không thể thành công trong hai nhiệm kỳ, nếu thiếu vai
trò của Hillary (và ngược lại). Barack Obama và Hillary Clinton từ đối thủ
tranh cử (rivals in election) đã trở thành đối tác trên chính trường (partners
in politics). Đây là lần đầu tiên một tổng thống đắc cử đã mời đối thủ vừa bị
thua cuộc làm ngoại trưởng (và Hillary Clinton đã nhận lời).
Trong
khi con đường dẫn đến Nhà trắng của Hillary Clinton
không bằng phẳng, vì đa số cử tri Mỹ đã chán những
nhân vật trong giới quyền lực (establishment), thì Donald
Trump cũng mất dần lợi thế ban đầu. Trong khi Hillary
Clinton được sự ủng hộ của những nhân vật hàng đầu
như Bill Clinton và Barack Obama, thì Donald Trump không được
sự ủng hộ của lãnh đạo đảng Cộng Hòa. Trong khi
Barack Obama bị ám ảnh bởi vai trò lịch sử, thì Hillary
Clinton tính toán mọi nước cờ thực dụng để tiến
thân. Obama hiểu rằng di sản của mình phụ thuộc nhiều
vào thắng lợi của Hillary Clinton. Vì vậy, họ vừa là
đối thủ, vừa là đồng đội.
Trước
đây, cử tri Mỹ đã từng tỏ thái độ khi họ ủng hộ
“Tea Party”, nhưng dường như tiếng nói của họ chưa
được để ý. Vì vậy, lần này họ bỏ phiếu cho Donal
Trump trong vòng tranh cử sơ bộ (primary election) như một
cảnh cáo mạnh mẽ lãnh đạo đảng Công hòa (cũng như
Dân chủ). Nhưng Donald Trump không thể coi sự ủng hộ của
cử tri là mặc nhiên và vô điều kiện. Trước đây cử
tri Mỹ đã không bầu ứng cử viên độc lập Ross Perot
thì nay chưa chắc họ bầu Donald Trump làm tổng thống? Có
lẽ đến phút chót, họ mới quyết định xem họ có muốn
những rủi ro mà tổng thống Donald Trump có thể đem lại
cho nước Mỹ.
Bài diễn văn về chính sách đối ngoại duy nhất của Donald Trump lấy cảm hứng từ trong quá khứ khi nước Mỹ theo đuổi chủ nghĩa biệt lập (isolationism), chỉ biết đến Mỹ (American first). Quan điểm cổ lỗ sĩ này (của thế kỷ 19) cản trở chứ không thúc đẩy quá trình hòa bình và thịnh vượng trong nước cũng như ngoài nước. Trong thê giới ngày càng phức tạp, nước nào nhiều quan hệ liên kết nhất sẽ là nước mạnh nhất. Nhưng Donald Trump hoài nghi giá trị của các liên minh. Vì vậy, chính sách của Donald Trump sẽ làm cho các liên minh của Mỹ suy yếu và không thể làm cho nước Mỹ vĩ đại được. (Joseph Nye).
2.
“How Trump Would Weaken America”, Joseph Nye, Project Syndicate, May 10, 2016
NQD. 23/5/2016
Bài diễn văn về chính sách đối ngoại duy nhất của Donald Trump lấy cảm hứng từ trong quá khứ khi nước Mỹ theo đuổi chủ nghĩa biệt lập (isolationism), chỉ biết đến Mỹ (American first). Quan điểm cổ lỗ sĩ này (của thế kỷ 19) cản trở chứ không thúc đẩy quá trình hòa bình và thịnh vượng trong nước cũng như ngoài nước. Trong thê giới ngày càng phức tạp, nước nào nhiều quan hệ liên kết nhất sẽ là nước mạnh nhất. Nhưng Donald Trump hoài nghi giá trị của các liên minh. Vì vậy, chính sách của Donald Trump sẽ làm cho các liên minh của Mỹ suy yếu và không thể làm cho nước Mỹ vĩ đại được. (Joseph Nye).
Tham
khảo
1. “How Clinton and Obama
tried to run the world while trying to manage each other”, Carlos Lozada,
Washington Post, April 29, 2016. Book review of “Alter Ego”, Mark Landler,
Random House, 2016
2.
“How Trump Would Weaken America”, Joseph Nye, Project Syndicate, May 10, 2016
3. “US
Likely to Lift Ban on Arms Sales to Vietnam”, Dan
De Luce & Keith Johnson, Foreign
Policy, May 9, 2016
4. “Two Myths
About the United States and Vietnam: Setting the record straight”, Jonathan
Zimmerman, Foreig Affairs, May 19, 2016
5. “America needs more than
symbolic gestures in the South China Sea”, John McCain, Financial Times, April
12, 2016
6. “How America Picks Its
Next Move in the South China Sea”, Zack Cooper & Bonnie Glaser, Asia Times,
May 11, 2016
NQD. 23/5/2016
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét