Một góc nhìn về mối quan hệ Việt - Mỹ qua Giáo dục
(Bài viết mới về quan hệ Việt - Mỹ)
(Bài viết mới về quan hệ Việt - Mỹ)
Vừa đây cây bút Nguyễn Quang Dy gửi cho blog tôi một bài mới mà ông nói là viết "về quan hệ Mỹ-Việt, bình luận về hợp tác giáo dục, nhân đọc bài diễn văn của chủ tịch Harvard". Tác giả gửi cho chủ blog cả bản tiếng Việt và bản tiếng Anh cốt để đăng cả 2, hầu giúp các bạn đọc có thêm văn bản ở 2 ngữ để đối chiếu, tham khảo.
Ngay sau đó ông gửi thêm lời nhắn rằng, "nếu như blog chưa đăng ngay được thì xin chuyển tiếp đây 'file mới' trong đó bổ xung và chỉnh sửa vài chỗ so với 'file cũ', những chi tiết này chắc bạn đọc làm công việc đối ngoại, ngoại giao sẽ quan tâm"...
Xin trân trọng giới thiệu bài viết mới nói trên của nhà nghiên cứu Nguyễn Quang Dy.
Xin trân trọng giới thiệu bài viết mới nói trên của nhà nghiên cứu Nguyễn Quang Dy.
Vệ Nhi
Nghịch
lý Quan hệ Việt-Mỹ: Di sản Chiến tranh hay Hậu Lịch sử
Nguyễn
Quang Dy
“Chúng
ta phải tìm cách làm thay đổi các định kiến, làm cho những gì quen thuộc trở
thành xa lạ…làm cho giới trẻ lạc hướng và giúp họ tìm cách định hướng lại
mình…” (Drew Gilpin Faust, Chủ tịch Harvard, Diễn văn Khai giảng năm 2009).
Khi Drew Gilpin Faust lên thay Larry Summers làm chủ
tịch Harvard (năm 2007) vì phát ngôn của ông ấy bị coi là xúc phạm phụ nữ, nhiều
người cho rằng sự thay đổi đó là vì lý do chính trị. Nhưng khi đọc bài diễn văn
của bà Faust (năm 2009) tôi rất ấn tượng bởi quan điểm của bà ấy, phản ánh sự
thay đổi to lớn trong tư duy giáo dục của Mỹ.
Nay đọc xong bài diễn văn mới của bà Faust (Hệ
quả: Chiến tranh, Ký ức và Lịch sử, Saigon, 23/3/2017), tôi cảm thấy hơi băn khoăn, không phải vì Stephen
Bannon là sản phẩm của trường Kinh doanh Harvard. Lẽ ra tôi phải cảm thấy phấn
khởi vì bà Faust là chủ tịch Harvard đầu tiên đến thăm Việt Nam nơi có trường
Đại học Fulbright (FUV) cũng như FETP. Tuy đã có ba Tổng thống Mỹ đến thăm Việt
Nam từ sau chiến tranh (Bill Clinton năm 2000, George Bush năm 2006, Barrack
Obama tháng 5/2016), nhưng chưa có chủ tịch Harvard nào đến thăm Viêt Nam, tuy
giáo dục là chìa khóa cho tương lai quan hệ Việt-Mỹ. Năm ngoái, khi tổng thống Obama đến thăm Viêt Nam và chính thức khai trương trường Đại học Fulbright, có Ngoại trưởng John Kerry tháp tùng, nhưng không có chủ tịch Harvard, tuy FUV cũng như FETP là dự án được đồng bảo trợ và quản trị bởi trường JFK của Harvard hơn hai chục năm qua. Dù sao thì muộn còn hơn không! Tuy bài diễn văn của chủ tịch Harvard đề cập đến mối liên quan giữa Viêt Nam và Mỹ (vì di sản chiến tranh), chuyến thăm Viêt Nam của bà là một phần của chuyến thăm khu vực, bao gồm tham dự sự kiện gây quỹ cho Harvard tại Singapore trước đó và chương trình thăm Hong Kong sau đó.
Câu chuyện hợp tác đào tạo Viêt-Mỹ bắt đầu cách đây gần
ba thập kỷ khi Tom Vallely sáng lập Vietnam Program (tại Harvard, 1989) và lập
ra trường FETP (tại Saigon, 1994) như một chương trình hợp tác giữa trường JFK của
Harvard và trường Đại học Kinh tế Saigon. Nay trường Đại học Fulbright Vietnam
(FUV) sắp trở thành “trường Đại học tư thục
phi lợi nhuận đầu tiên của Việt Nam” dựa trên các nguyên tắc “chịu trách nhiệm giải trình, dựa trên năng lực,
minh bạch, tự quản, tôn trọng lẫn nhau và cởi mở về nghiên cứu”, được tài
trợ bởi quỹ ủy thác “Trust for University Innovation Vietnam” (có trụ sở tại Massachusetts).
Nếu giáo dục thực sự là chìa khóa cho tương lai, thì
FETP chính là tiền đề cho trường Đại học Fulbright Vietnam, với sự ủng hộ cao của
ngoại trưởng John Kerry và tổng
thống Barrack Obama. Tuy nhiên, những người ủng hộ FETP (và
FUV) hiểu rõ khó khăn thế nào để duy trì hoạt động của dự án FETP trước những ý
định muốn loại bỏ nó (vì lo ngại “âm mưu diễn biến hòa bình”). Trong khi Vietnam
Program và FETP cuối cùng đạt được mục tiêu, thì VEF không thành công (nay phải
chuyển quỹ cho FUV). Mục tiêu của VEF là bảo trợ cho một trung tâm khoa học
hàng đầu tại Việt Nam (chứ không chỉ cấp học bổng).
Tuy Đại học Fulbright đã trở thành một biểu tượng,
nhưng nó không phải là dự án giáo dục duy nhất. Qua nhiều năm, có nhiều dự án mới
và ngày càng nhiều sinh viên Viêt Nam sang Mỹ du học, đóng góp cho nguồn nhân lực
và sức mạnh mềm của Việtnam. Nhưng nhiều sinh viên sau đó không muốn trở về Viêt
Nam, dẫn đến chảy máu chất xám.
Chỉ từ tháng 7 đến tháng 11/2015, số
sinh viên Viêt Nam tại Mỹ đã tăng lên 18,9%, chỉ sau India (20,7%) và China (19,4%),
làm tổng số sinh viên Viêt Nam tại Mỹ tăng lên 28,883 người (năm 2016). Viêt Nam
đứng thứ 6 trong số các nước có sinh viên đông nhất tại Mỹ, và Mỹ đã vượt qua Australia
(có 28,524 sinh viên Viêt). Tuy sinh viên Việt đã có tại 50 bang của Mỹ, nhưng 10
bang có số sinh viên Việt đông nhất là California, Texas, Washington,
Massachusetts, New York, Pennsylvania, Florida, Virginia, Illinois and Georgia.
Số sinh viên Việt tại 10 bang này là 20,797, chiếm 72% tổng số sinh viên Việt tại
Mỹ.
Là một nhà sử học, bà chủ tịch Harvard đã
dành nhiều thời gian nói về Nội chiến Mỹ trong mối liên quan đến Việt Nam và
những bài học lịch sử. Bà đã đúng khi đề cập đến Viêt Nam như “Một đất nước, chứ không phải một cuộc chiến ”
với “tất cả sự phức hợp, vẻ đẹp, lịch sử,
sống động và đầy triển vọng”, trong khi thừa nhận Viêt Nam đã ấn định thảm
kịch của thời đại đó, khi 3 triệu tấn bom đạn và 11 triệu thùng chất độc diệt
cỏ đã được ném xuống đó, nơi 58,220 lính Mỹ, và 3 triệu người Việt, cả quân sự
và dân sự, đã chết.
Đến tận bây giờ, bóng ma Viêt Nam vẫn còn sống, đang
ám ảnh cả người Mỹ và người Việt. Hơn bốn thập kỷ sau cuộc chiến tranh, di sản Viêt
Nam vẫn hủy hoại sự nghiệp chính trị của những người như Bob Kerrey (là chủ tịch
FUV), và làm cho hòa giải giữa người Việt với nhau còn khó hơn nhiều so với giữa
Viêt Nam và Mỹ. Bà chủ tịch Harvard nói lịch sử “giúp chúng ta đối mặt với những bóng ma và quỷ sứ mà thảm kịch của quá
khứ đã để lại di sản cho chúng ta đến tận bây giờ. Nó soi sáng sự mù quáng và
tàn bạo đã tạo ra chiến tranh, và giúp chúng ta nỗ lực vì hòa bình”. Trong cùng bài diễn văn đó, bà Faust nhận xét,
“Cuối cùng, chúng ta quay lại với từ “Veritas”
– là cam kết của Harvard sẽ sử dụng tri thức và nghiên cứu để nhìn thấu những ảo
tưởng, sự lừa dối, định kiến , và lòng vị kỷ. Sự thật sẽ đến cùng với những
khám khá khoa học không bị trói buộc bởi ý thức hệ và chính trị…”
Tôi tin sẽ có ý nghĩa hơn nếu bà chủ tịch Harvard
dành nhiều thời gian hơn để nói về tương lai quan hệ giữa hai nước, nay đang đứng
trước những thách thức không phải chỉ từ di sản của chiến tranh trong quá khứ (mà
người ta đã quen) mà còn từ nghịch lý của “hậu Lịch sử” và Trumpism (mà nhiều
người còn bị bất ngờ). Không ai biết rõ điều gì đang diễn ra trong Nhà Trắng
lúc này, và những hệ quả không thể lường trước. Những cố gắng vận động
Washington vào lúc này có thể là quá yếu, quá chậm vì thời cơ đã qua rồi.
Tuy hai quốc gia cựu thù đã bình thường hóa quan hệ
từ năm 1995, nhưng Mỹ mới hoàn tất quá trình đó năm ngoái khi tổng thống Obama bỏ
cấm vận vũ khí và chính thức khai trương Đại học Fulbright. Đó là động tác tượng
trưng ủng hộ Viêt Nam đang bị đè bởi cái bóng đen hiếu chiến của con rồng Trung
Quốc, đang quyết thống trị Biển Đông. Nay không ai biết rõ làm thế nào để ngăn cản
Trung Quốc biến vùng biển này thành cái ao của họ, trước định hướng chính sách thất
thường của chính quyền Trump về Trung quốc và Đông Á.
Lịch sử đang lặp lại và thế giới “hậu Lịch sử” đang
đổ vỡ, làm xổng những bóng ma của quá khứ từ các hầm mộ. Trong khi quan hệ
chính trị giữa hai chính phủ có thể biến động khó lường, quan hệ văn hóa giáo dục
giữa hai quốc gia thường bền vững sống lâu hơn các chính phủ đang cầm quyền, vượt
qua ý thức hệ và trò chơi chính trị. Nhưng quy luật “hệ quả không định trước” sẽ
phát huy tác dụng chỉ khi nào hai cựu thù của cuộc chiến sai lầm biết cách biến
gánh nặng quá khứ thành lợi thế tương lai, cho một thế giới tốt đẹp hơn.
NQD.
28/3/2017
-----
Bản tiếng Anh (do chính tác giả viết thẳng bằng Anh ngữ)
The
Paradox of US-Vietnam Ties: War Legacy or Post-History
Nguyen
Quang Dy
“We
seek to unsettle presumptions, to defamiliarize the familiar… to disorient
young people and to help them to find ways to reorient themselves…” (Drew Gilpin Faust, president of Harvard, 2009
Commencement Speech).
When Drew Gilpin Faust replaced Larry Summers as the
president of Harvard (in 2007) as some of his remarks were considered offensive
to women, many people thought the change was for a political reason. But when I
read her speech (in 2009) I was so impressed by her arguments indicating a
major change in American thinking on education.
Now having read Drew Gilpin Faust’s new
speech (Aftermath: War, Memory and History, Saigon, March 23, 2017), I felt a bit
unsettled, not because Stephen Bannon was a product of Harvard Business School.
In fact, I should have felt upbeat as she was the first president of Harvard to
visit this country where the Fulbright University Vietnam (FUV) as well as the
FETP is located. While three US presidents visited Vietnam since the War (Bill
Clinton in 2000, George Bush in 2006, Barrack Obama in May 2016), no Harvard
president had done so, though education should be the key to future US-Vietnam
relations. Last year, when president Obama visited Vietnam and formally opened the Fulbright University Vietnam, he was accompanied by Secretary of State John Kerry, not by the Harvard president, though the FUV as well as the FETP is a project co-sponsored and run by Harvard JFK School for the last twenty years or so. Anyway, better late than never! Though the Harvard president’s speech touched on the connections between Vietnam and the US (war legacy), her visit to Vietnam was part of a regional trip including a Harvard Campaign fundraising event in Singapore earlier and her appointments in Hong Kong later.
The saga of US-Vietnam education cooperation began
nearly three decades ago when Tom Vallely founded Vietnam Program (at Harvard,
1989) and then established FETP (in Saigon, 1994) as a partnership program
between Harvard Kennedy School and University of Economics in Saigon. Now, the
Fulbright University Vietnam (FUV) is supposed to be the “first private, non-profit Vietnamese university” founded on the
principles of “accountability,
meritocracy, transparency, self-governance, mutual respect and open inquiry”,
financed by the Trust Fund for University Innovation in Vietnam (based in
Massachusetts).
If education is really the key to the future, the FETP
stands out as the genesis for the Fulbright University concept, given high-profile support
from Secretary of State John Kerry and President Barrack Obama.
However, supporters of the FETP (and FUV) know how difficult it was to keep
this academic project alive against attempts to shoot it down (for fear of “peaceful
evolution” hoax). While Vietnam Program (and FETP) eventually achieved its goal,
the VEF program did not (and finally had to transfer its fund to FUV). The VEF
was supposed to sponsor a science center of excellence in Vietnam (not just
giving out scholarships).
Fulbright University Vietnam has become a symbol,
but it is not the only educational project. Over the years, new projects and more
Vietnamese students have come to the US for education, building human capital
and soft power for Vietnam’s future. But so many of them would not come back to
Vietnam, leading to a growing brain drain.
Between July and November 2015, the
number of Vietnamese students in the US increased by 18.9%, after India (20.7%)
and China (19.4%), raising the total number of Vietnamese students in the US to
28.883 (by 2016). Vietnam ranked 6th among countries having the
largest numbers of students there, and the US has bypassed Australia (having
28.524 Vietnamese students). While Vietnamese students are found in all 50
states in the US, the top 10 states having the largest numbers are California,
Texas, Washington, Massachusetts, New York, Pennsylvania, Florida, Virginia,
Illinois and Georgia. The number of Vietnamese students in these 10 states was
20.797, or 72% of the total number in the US.
As a historian, president Faust spent a lot
of time talking about the American Civil War in connection with Vietnam and
history lessons. She was right when referring to Vietnam as “A Country, Not a War” with “all its complexity, its beauty, its history,
its vibrancy, and its promise”, while recognizing that Vietnam defines the
trauma of that era, when 3 million tons of bombs and 11 million gallons of
toxic defoliants were dropped, and 58.220 American troops and 3 million
Vietnamese soldiers and civilians died.
Even now, the ghosts of Vietnam are still alive,
haunting Americans and Vietnamese alike. Over four decades after the War, the
legacy of Vietnam still ruined the political life of people like Bob Kerrey (as
Chairman of FUV), and makes reconciliation among the Vietnamese even more
difficult than between Vietnam and the US. President Faust said history “helps us confront the ghosts and demons that
the tragedies of the past leave as legacy to the present. It illuminates the
blindness and cruelty that enable war, and equips us to strive for peace”. In the same speech, she noted, “So in the end, it comes back to “Veritas” -
the commitment to use knowledge and research to penetrate delusion, cant,
prejudice, self-interest. That truth may come in the form of scientific
insights freed from ideology and politics…”
I believe it would make more sense if she spent a
bit more time talking about the future of relations between the two nations,
now facing new challenges, not only from the legacy of the past War (that people
are familiar with) but also from the paradox of “post-History” and Trumpism (that
most people are caught off guard). Nobody knows for sure what is going on in
the White House right now and unintended consequences. New efforts to lobby
Washington right now may be too little too late as the chances have gone.
While the former foes have normalized relations since
1995, they accomplished this process only last year when president Obama lifted
the arms embargo and formally opened the Fulbright University. It was a
symbolic gesture to support Vietnam now coming under the long shadow of the aggressive
China dragon poised to rule the South China Sea. Now, nobody knows for sure how
to prevent China from turning this sea into its own lake, given the
unpredictable policy orientation by the Trump Administration on China and East
Asia.
It looks like history is repeating itself as the
“post-History” world is breaking up, releasing the ghosts from their graveyards.
While political relations between two governments may fluctuate beyond expectations,
educational and cultural ties between two nations are expected to sustain
changes and outlive sitting governments beyond ideology and politics. However,
the law of “unintended consequences” would work only if the former foes of a
wrong War knew how to turn liabilities of the past into assets of the future,
for a better world.
NQD.
March 28, 2017
-----
Đọc tham khảo:
-----
Đọc tham khảo:
Đại học Fulbright Việt Nam giảng dạy ngành gì?
Đại học
Fulbright Việt Nam giảng dạy ngành gì, nếu trước đây, môi trường học tập
ở Harvard vẫn còn là “giấc mơ xa xôi” của rất nhiều sinh viên Việt Nam,
thì nay giấc mơ ấy đã đến gần hơn khi Đại học Harvard đã lên kế hoạch
xây dựng trường đại học đầu tiên của mình tại đất nước hình chữ S mang
tên Fulbright. Hiện tại trường Đại học Fulbright đã mở ra các ngành
đạo tạo để sinh viên có thể lựa chọn.
Đại học Fulbright Việt Nam giảng dạy ngành gì
Theo giấy chứng nhận đầu tư, Trường Đại
học Fulbright Việt Nam đặt trụ sở chính tại Khu công nghệ cao TP.HCM với
diện tích đất là 15 héc-ta.
Đại học Fulbright Việt Nam được xây dựng
với mô hình là một cơ sở giáo dục đại học có vốn đầu tư nước ngoài hoạt
động không vì lợi nhuận.
Lễ kỷ niệm 20 năm thành lập
Trường được xây dựng trên cơ sở phát huy
nguồn vốn và con người của Trường Fulbright. Vốn đầu tư thực hiện dự án
Trường Đại học Fulbright Việt Nam là 70 triệu đô la Mỹ. Trong đó, mức
đầu tư giai đoạn đầu (đến năm 2016) là 5,3 triệu đô la Mỹ, giai đoạn hai
(2017 – 2020) là 20 triệu đô la Mỹ, và giai đoạn ba (2020 – 2030) là
44,7 triệu đô la Mỹ.
Trường ĐH Fulbright là một cơ sở giáo
dục đại học có vốn đầu tư nước ngoài không vì lợi nhuận. FUV do Quỹ
tín thác sáng kiến ĐH Việt Nam (TUIV) đầu tư tại TP.HCM.
Tài chính của quỹ dựa vào học phí, đóng
góp thiện nguyện, các khoản tài trợ và nguồn thu từ quỹ trường. Do đó về
quản trị, trường sẽ không có cổ đông như các trường tư thục khác mà do
một hội đồng tín thác độc lập quản lý, hội đồng này sẽ thuê hiệu trưởng
điều hành trường.
Đại học Fulbright Việt Nam giảng dạy ngành gì. Lễ trao giấy chứng nhận xây dựng dự án
Trường tuân thủ những nguyên tắc
quản trị thiết yếu của nền giáo dục ưu tú. Đó là tự do hàn
lâm, đánh giá và tuyển dụng dựa trên năng lực, minh bạch và
trách nhiệm giải trình.
FUV cũng sẽ đăng ký kiểm định chất lượng từ các tổ chức kiểm định chất lượng của Hoa Kỳ.
Đại học Fulbright Việt Nam giảng dạy ngành gì. Lễ trao bằng tốt nghiệp
Ngoài ra, trường chú trọng vào việc
tuyển dụng các học giả tài năng và các nhà khoa học người
Việt Nam thông qua thiết lập môi trường làm việc chuyên
nghiệp và cơ chế khuyến khích tương tự như những đại học
hàng đầu ở nước ngoài.
Đại học Fulbright Việt Nam đào tạo những ngành nào?
Nhiều ngành học ở 3 cơ sở đào tạo
Theo công bố của dự án ĐH Fulbright VN
(FUV), 5 năm đầu tiên trường sẽ tập trung xây dựng 3 cơ sở đào tạo tích
hợp: Trường Chính sách công và quản lý Fulbright (đào tạo sau ĐH trong
lĩnh vực chính sách công, luật kinh doanh quốc tế, tài chính và quản trị
kinh doanh, nghiên cứu và đối thoại chính sách); Trường Công nghệ và
khoa học ứng dụng Fulbright (cung cấp các chương trình đào tạo cử nhân
và sau ĐH trong lĩnh vực khoa học, công nghệ, cơ khí, toán ứng dụng và y
khoa); Fulbright College (cung cấp các chương trình đào tạo cử nhân
trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn).
Tiến sĩ Vũ Thành Tự Anh, Giám đốc nghiên
cứu Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright, cho biết FUV cũng muốn
đào tạo các ngành khoa học liên ngành, trong đó có khoa học môi trường,
biến đổi khí hậu... Ngoài một số ngành là thế mạnh, trường sẽ chú trọng
vào việc đào tạo những ngành học có thể tạo nền tảng cho việc phát triển
bền vững tại VN.
Đại học Fulbright Việt Nam giảng dạy ngành gì. Trong chương trình đào tạo này, trường vẫn có chính sách ưu tiên ứng viên từ vùng sâu vùng xa, phụ nữ, người có điều kiện bất lợi
Theo đó, sớm nhất là cuối năm 2016
trường này sẽ tuyển sinh. Đối với Chương trình thạc sĩ chính sách công,
hồ sơ dự tuyển sẽ vẫn như từ trước đến nay, gồm: đơn dự tuyển, bài luận,
bản sao bằng và bảng điểm ĐH. Trong chương trình đào tạo này, trường
vẫn có chính sách ưu tiên ứng viên từ vùng sâu vùng xa, phụ nữ, người có
điều kiện bất lợi. Sau đó, trường tổ chức thi tuyển tương tự các kỳ thi
chuẩn hóa của Mỹ: tiếng Anh, kỹ năng phân tích và toán. Việc xét tuyển
dựa vào tổng hợp các tiêu chí, trong đó có điểm thi, bài luận, học lực
bậc ĐH và kinh nghiệm công tác. Mặc dù mỗi ngành đào tạo sẽ có các tiêu
chí ưu tiên khác nhau, việc tuyển sinh của FUV sẽ dựa trên việc đánh giá
một cách toàn diện như các trường ĐH ở Mỹ chứ không chỉ dựa vào điểm
thi.
Theo thạc sĩ Hoàng Ngọc Lan, cán bộ quản
lý đào tạo Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright, năm 2016 khi FUV
chính thức tuyển sinh thì thỏa thuận hợp tác trong Chương trình Giảng
dạy kinh tế Fulbright giữa Trường ĐH Kinh tế TP.HCM với Trường Quản lý
nhà nước Harvard Kennedy sẽ hết thời hạn. Chương trình Giảng dạy kinh tế
Fulbright sẽ trở thành Trường Chính sách công và quản lý Fulbright trực
thuộc FUV, với đối tác học thuật vẫn là Trường Harvard Kennedy.
Đại học Fulbright Việt Nam giảng dạy ngành gì. Sẽ có một chương trình hỗ trợ tài chính đối với người học có khả năng nhưng ít có điều kiện về tài chính
Theo bà Lan, với Chương trình Chính sách
công, sinh viên vẫn sẽ nhận được học bổng toàn phần như tại Chương
trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright. Chương trình MBA có học phí cao hơn
so với các trường tư thục hiện nay tại VN. Cũng sẽ có một chương trình
hỗ trợ tài chính đối với người học có khả năng nhưng ít có điều kiện về
tài chính (cấp học bổng) như cách làm của các trường ĐH phi lợi nhuận
khác trên thế giới.
Hoạt động không vì lợi nhuận
Theo giấy chứng nhận đầu tư, trụ sở
chính của trường đặt tại Khu công nghệ cao TP.HCM với diện tích 15 ha.
FUV được xây dựng với mô hình là một cơ sở giáo dục ĐH có vốn đầu tư
nước ngoài hoạt động không vì lợi nhuận. Vốn đầu tư thực hiện dự án là
70 triệu USD. Trong đó, mức đầu tư giai đoạn đầu (đến năm 2016) là 5,3
triệu USD, giai đoạn 2 (2017 - 2020) 20 triệu USD, giai đoạn 3 (2020 -
2030) là 44,7 triệu USD.
Điểm khác biệt so với các trường VN mà
FUV xác định trong cơ chế hoạt động của mình là mô hình quản trị và tài
chính. Cụ thể, về quản trị, mặc dù trường do Quỹ tín thác sáng kiến ĐH
VN (TUIV) đăng ký thành lập nhưng quỹ này là một tổ chức phi lợi nhuận
và do đó trường sẽ không có cổ đông chi phối như các trường tư thục ở
VN. Quỹ này cũng là đơn vị huy động vốn đầu tư dự án FUV. Tài chính được
huy động từ 3 nguồn: tài trợ ổn định hằng năm của chính phủ Mỹ; tiền
thiện nguyện, tài trợ của các tổ chức, cá nhân tại nước Mỹ; nguồn tài
trợ của doanh nghiệp, cá nhân tại VN.
Trường do một hội đồng tín thác (Board
of Trustees) độc lập quản lý. Hội đồng này sẽ thuê hiệu trưởng để điều
hành trường. Về nguyên tắc, trường là của xã hội, của cộng đồng. Mọi giá
trị thặng dư tạo ra sẽ được dùng để quay ngược trở lại đầu tư cho
trường.
Cơ hội cho sinh viên nước nhà
Ông Daniel B. Harsha – phát ngôn viên
của trung tâm Ash – cho biết, mặc dù không nắm quyền quản lý trực tiếp,
Đại học Harvard vẫn sẽ tham gia vào công tác giảng dạy và nghiên cứu tại
đây. Cũng theo Ông Harsha, Harvard mong muốn phát triển ngôi trường
công lập này thành một trường độc lập, qua đó mở ra cơ hội học tập tại
Việt Nam và thu hút nhiều sinh viên trong bối cảnh môi trường đào tạo
thạc sĩ, tiến sĩ ở nước ta còn bị hạn chế bởi khả năng tài chính của
những trường tư nhân cũng như khả năng nghiên cứu của những trường công
lập.
Dưới góc nhìn chính trị, sự hợp tác này
mở ra những bước phát triển mới trong quan hệ ngoại giao giữa Mĩ và Việt
Nam. Theo ông John F. Kerry – ngoại trưởng Mĩ – phát biểu trong một
hoạt động chào mừng sự kiện này tại Hà Nội, với khả năng của mình,
Harvard sẽ giúp nâng giáo dục Việt Nam lên một tầm cao mới. Nắm bắt cơ
hội này, chính phủ Việt Nam đã đồng ý thành lập trường và đang tiến hành
gây quỹ tài trợ với mục tiêu trong 5 năm tới là huy động được 100 triệu
USD và tuyển sinh được 2000 sinh viên. Tính đến nay, số tiền tài trợ đã
đạt con số 40 triệu USD.
Chương trình đào tạo cử nhân được triển
khai ở hai trường thành viên FUV là Trường Kỹ thuật và khoa học ứng dụng
Fulbright và ĐH Fulbright từ năm 2007.
Đại học Fulbright Việt Nam giảng dạy ngành gì. Đại học Harvard
Trong đó, Trường Kỹ thuật và khoa học
ứng dụng Fulbright sẽ cung cấp các chương trình đào tạo cử nhân và thạc
sĩ trong lĩnh vực kỹ thuật, khoa học ứng dụng, toán học và khoa học máy
tính. Trường ĐH Fulbright sẽ cung cấp các chương trình đào tạo cử nhân
trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn.
Chương trình đào tạo cử nhân được thiết
kế thời gian đào tạo chuẩn là bốn năm. Từ năm đầu, bên cạnh những môn
học bắt buộc đối với từng ngành đào tạo, SV có thể đăng ký môn học không
giới hạn. Hai trường này sẽ đi vào hoạt động, tuyển sinh cùng lúc để SV
có cơ hội lựa chọn lần hai sau khi đã vào học, chuyển ngành đào tạo
hoặc học thêm song song một ngành đào tạo nữa. Không nên để sự lựa chọn
ban đầu của tuổi 18 bị bó buộc trong một khuôn khổ cứng nhắc.
Đại học Fulbright Việt Nam giảng dạy ngành gì. Một góc Đại học Harvard
Về quy mô tuyển sinh cử nhân, chúng tôi
chưa có con số cụ thể, nhưng điều kiện xét tuyển sẽ là điểm trung bình
các môn học (GPA) và quan trọng nhất là vòng phỏng vấn. Chúng tôi không
chỉ nhìn vào kết quả học tập mà sẽ xem xét đánh giá năng lực cá nhân,
hoạt động xã hội, năng khiếu, sở thích…
Đó sẽ là một phương thức tuyển sinh
“mở”, tạo điều kiện cho SV được thể hiện hết khả năng của bản thân,
hướng tới đào tạo những cá nhân để SV phát triển hết năng lực bản thân.
FUV sẽ có đội ngũ giảng viên viên nước ngoài và cả người Việt Nam đang giảng dạy các trường Đại học Mỹ
Ngôn ngữ giảng dạy tại FUV sẽ là tiếng
Anh. Điều này hoàn toàn có thể thực hiện được với đội ngũ giảng viên gồm
các giảng viên nước ngoài và người VN đang giảng dạy ở các trường ĐH Mỹ
– những người đồng nhất về bằng cấp và năng lực chuyên môn với giảng
viên người nước ngoài.
Để đảm bảo chất lượng đào tạo, các giảng
viên cần làm việc dài hạn ở VN đủ để gắn kết với SV. Các giảng viên,
giáo sư ở nước ngoài có thể giảng dạy ở FUV dưới hình thức tham gia
chương trình giảng dạy ở nước ngoài theo cách mà chương trình Fulbright
đã thực hiện với thời gian 1-2 năm.
" Chúng tôi quan tâm đến kiến thức,
khả năng của SV đầu vào hơn là trình độ tiếng Anh. Chúng tôi lường trước
được thách thức về khả năng tiếng Anh của SV và sẽ giải quyết bằng các
chương trình đào tạo tiếng Anh đầu vào ba tháng hoặc sáu tháng" bà Đàm
Bích Thủy - Chủ tịch Fulbright Việt Nam cho biết:
Đại học Fulbright Việt Nam giảng dạy ngành gì. Bà Đàm Bích Thủy- Chủ tịch Fulbright Việt Nam
Tuy nhiên, cách nâng cao trình độ tiếng
Anh đầu vào cho SV sẽ khác: thay vì chỉ dạy tiếng Anh, chúng tôi sẽ đào
tạo tiếng Anh thông qua giảng dạy kiến thức môn học, truyền đạt kiến
thức cho SV bằng tiếng Anh từ dễ đến khó, từ đơn giản đến hoàn thiện khả
năng ngôn ngữ mang tính hàn lâm. Với phương pháp đó, những SV đã có sẵn
năng lực, tư chất và tinh thần học tập của chúng tôi sẽ nhanh chóng
hoàn thiện được trình độ tiếng Anh để theo học.
Cam kết đảm bảo các SV tài năng sẽ được tiếp cận chương trình đào tạo của trường với mức chi phí hợp lý, bất kể họ xuất thân từ hoàn cảnh kinh tế – xã hội. Cùng với quỹ học bổng
Quỹ học bổng, khả năng hỗ trợ tài chính
cho người học của trường sẽ phụ thuộc chủ yếu vào các nguồn đóng góp,
tài trợ, hỗ trợ… Trong thời gian đầu, trường sẽ chưa thể có chương trình
hỗ trợ tài chính mạnh như các trường ĐH lớn của Mỹ.
Đại học Fulbright Việt Nam giảng dạy ngành gì. Đại học Harvard
Nhưng một trong những nguyên tắc đã được xác lập là “Quyền tiếp cận rộng mở, chi phí hợp lý và sự đa dạng”. FUV cũng đặt trọng tâm vào nỗ lực trao quyền cho phụ nữ và thành viên các cộng đồng chịu nhiều thiệt thòi.
Cơ cấu SV của chúng tôi sẽ phản ánh sự
đa dạng của xã hội VN. Vì thế FUV xác định để thu hút SV các tỉnh vùng
sâu vùng xa, nhất là cho những ngành khoa học, kỹ thuật, thì trường phải
có chương trình hỗ trợ tài chính cho SV có hoàn cảnh khó khăn, những SV
mà gia đình không thể chi trả mức học phí cao hơn trường công.
Hỗ trợ tài chính sẽ xét tương tự như các
trường ĐH ở Mỹ dựa trên hoàn cảnh gia đình và năng lực cá nhân, mục
tiêu, kế hoạch học tập của SV. Bên cạnh đó, cũng sẽ có chương trình học
bổng dành cho các SV xuất sắc, tài năng. Quỹ tài trợ cho nhà trường sẽ
không khó vì các doanh nghiệp lớn hoạt động ở VN luôn mong muốn có nguồn
chất lượng cao để tuyển dụng.
Đại học Fulbright Việt Nam giảng dạy ngành gì. Đại học Harvard
Nếu làm cho họ tin tưởng vào chất lượng đào tạo và sản phẩm của trường, họ sẽ là những nhà tài trợ cho trường. Phía Mỹ cũng đã đề nghị Chính phủ VN xem xét có chương trình học bổng cho SV VN vào học tại FUV.Môi trường giáo dục ĐH mở
FUV hoạt động và phát triển trên hai
nguyên tắc cơ bản: Một là nguyên tắc ĐH phi lợi nhuận, tiếp tục duy trì
nguồn đầu tư, đóng góp vào trường là vĩnh viễn, đa dạng nguồn ủng hộ để
tạo nguồn học bổng cho những SV xuất sắc và hỗ trợ tài chính cho SV đủ
điều kiện theo học nhưng không đủ khả năng chi trả. Hai là theo phương
thức đào tạo của Mỹ.
Đại học Fulbright Việt Nam giảng dạy ngành gì. Những SV tốt nghiệp có thể làm công việc đa dạng, cơ hội nghề nghiệp luôn mở rộng, không bị ràng buộc bởi ngành học – đó là điều FUV muốn thực hiện.
Cho đến nay, đây vẫn là phương thức đào
tạo hấp dẫn nhất đối với đào tạo cử nhân. Bước vào ngưỡng cửa ĐH ở tuổi
18, SV đã phải lựa chọn ngành học và nghề nghiệp. Sự lựa chọn lúc 18
tuổi cho cả cuộc đời? Phương thức đào tạo kiểu Mỹ chính là cho phép
người học được học cái mà vào thời điểm đó mình thích nhưng sau này thay
đổi thì vẫn có cơ hội. Những SV tốt nghiệp có thể làm công việc đa
dạng, cơ hội nghề nghiệp luôn mở rộng, không bị ràng buộc bởi ngành học –
đó là điều FUV muốn thực hiện.
Theo MANGTINMOI.COM
Nguồn: http://www.mangtinmoi.com/dai-hoc-fulbright-viet-nam-giang-day-nganh-gi-d63245.html