Quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ
Sắp
tới ngày giỗ lần thứ 2 ông Trần Quang Cơ (TQC), bà Trần Thị Vượng vợ ông Cơ nói
với mình mời giúp một số bạn bè vong niên (vì bà Trần Quang Cơ đã trên 80 tuổi rồi)
đến ngồi với nhau, nhất là có người ít khi gặp vì sống mãi trong Tp HCM như nhà
báo Huy Đức.
Theo
bà Vượng, cuộc gặp như một lời cảm ơn những người bạn này vì đã có lòng quý mến
ông Cơ, đã tìm tư liệu và viết bài về ông nhân ngày ông mất 2 năm trước đây.
Mấy
người được mời đều đến dự đầy đủ: nhà báo Kim Dung/Kỳ Duyên; nhà báo Huy Đức;
nhà nghiên cứu Nguyễn Quang Dy; cựu Đại sứ Trần Tam Giáp, hiện là Chủ nhiệm CLB
cán bộ hưu trí BNG; và tôi, là chủ trang blog này. Về phía gia đình có anh Trần
Sơn, là thứ trong gia đình nhưng là con trai cả ông bà Cơ; có cháu Trần Quang
Hùng gọi ông Cơ là chú ruột. Trong số khách chỉ có bác Giáp là người cùng thế
hệ với bà Vượng.
Buổi
gặp diễn ra rất đầm ấm, nhiều câu chuyện được dịp giãi bày.
Khi
về đến nhà, tối khuya hôm đó anh Nguyễn Quang Dy gửi cho tôi mấy dòng kèm một
bài viết khá dài. Thư anh Dy viết: “Cám ơn ông Vĩnh đã tổ chức buổi gặp mặt
trưa nay với chị Vượng (phu nhân ông Trần Quang Cơ/TQC). Tôi có nói với chị
Vượng là sẽ cố gắng viết xong bài này hôm nay như một món quà nhỏ tặng chị
Vượng và để tưởng nhớ đến ông TQC. Giữ lời hứa, tối nay tôi đã viết xong và vừa
gửi để đăng. Hy vọng chị Vượng và ông TQC, người 2 năm nay đang ở chốn rất xa rất xa ...vui lòng. (NQD).
Bài
viết của tác giả Nguyễn Quang Dy là như anh nói, là “để tưởng nhớ đến ông Trần
Quang Cơ” bởi ai cũng biết, ông Cơ cùng với ông Nguyễn Cơ Thạch, ông Lê Mai…đều
là những người góp nhiều công sức cho việc xây đắp mối quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ
ở một giai đoạn còn mắc mớ rất nhiều trở ngại. Nhưng những nhà ngoại giao cao cấp thời đó
của Việt Nam đã có con mắt nhìn xa trông rộng, và đã cùng nhau đặt được những viên đá đầu tiên xây dựng nên mối quan hệ Việt – Mỹ sau
cuộc chiến tranh Việt Nam, kết thúc ngày 30/4/1975.
Ngay lúc này lại đang diễn ra chuyến thăm chính thức Hoa Kỳ của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nên bài viết của tác giả Nguyễn Quang Dy càng có thêm ý nghĩa thời sự, thời cuộc.
Xin
trân trọng giới thiệu với bà con và bạn bè bài viết nói tới trên đây để chúng ta cùng chia sẻ.
Vệ Nhi/Nguyễn Vĩnh
-----
Triển
vọng quan hệ Việt – Mỹ
Nguyễn
Quang Dy
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã bắt đầu chuyến thăm Mỹ
chính thức (29-31/5/2017). Đã có nhiều người bình luận và phỏng đoán về sự kiện
này. Có lẽ đây là một dịp tốt để nhìn lại quan hệ Việt-Mỹ trong bối cảnh thế giới
mới đầy biến động bất thường và bất định. Muốn hiểu hiện tại và biết về tương
lai, chúng ta không được quên quá khứ.
Trở
về tương lai
Mỗi khi đề cập đến quan hệ Việt-Mỹ, người ta thường
nhớ lại quá khứ đau buồn khi Chiến tranh Việt Nam đã biến hai quốc gia này
thành kẻ thù. Nhưng nhiều người quên mất lịch sử trước đó khi hai quốc này gia suýt
nữa trở thành đồng minh. Ngày 16/7/1945, OSS đã cử nhóm “Con Nai” (Deer Team) đến
Tân Trào để giúp Việt Minh, sau khi cụ Hồ thỏa thuận với Archimedes Patti (chỉ
huy OSS tại Kunming). Hơn bốn thập kỷ sau Chiến tranh Việt Nam, nay hai quốc gia
lại đang cố gắng để trở thành đồng minh, như “trở về tương lai” (back to the future). Vậy số mệnh trong tử vi của
hai quốc này là kẻ thù hay đồng minh? Các sử gia cần làm rõ và xác định xem vì
sao đoàn tàu Việt-Mỹ đã bị bẻ ghi đi chệch sang hướng khác, với những “hệ quả không định trước”, và làm thế nào
để đưa đoàn tàu này “trở về tương lai”.
Nếu đặt quan hệ Việt-Mỹ vào bức tranh lịch sử đầy
nghịch lý và trớ trêu đó, chuyến thăm Mỹ của thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc lần này
(cũng như các chuyến thăm của lãnh đạo hai nước trước đây) chỉ là những điểm dừng
chân của đoàn tàu Việt-Mỹ tại các nhà ga (cả ga chính và “ga xép”). Thế giới hiện
nay còn nhiều nghịch lý và điên rồ hơn trước, vì ngày càng nhiều kẻ khùng định cướp
lái và bẻ ghi các đoàn tàu quốc gia. Trong khi có những người tin rằng thế giới
đang tiến gần đến “ngày tận số”, thì
nhiều người khác mất hết lòng tin vào hiện tại và tương lai, vì họ đã quên hoặc
hiểu nhầm quá khứ. Ảo tưởng và nhầm lẫn trong lịch sử đã phải trả giá rất đắt,
nên nếu lặp lại sai lầm một lần nữa thì thật là ngu xuẩn và điên rồ.
Có thể nói đoàn tàu Viêt-Mỹ đã vượt qua một quãng đường
dài, có lúc chạy nhanh, có lúc chạy chậm, có lúc thậm chí dừng lại một chỗ vì
lúng túng không biết chạy hướng nào trước ngã ba đường. Vấn đề không phải là đường
ray hay biển chỉ đường bị sai mà là do đầu óc của những người lái tàu bị hồ đồ nhầm
lẫn, nên lầm đường lạc lối. Đoàn tàu đã rời ga “Đối tác Toàn diện” gần bốn năm, nay đang hướng tới ga mới là “Đối tác Chiến lược Toàn diện”. Nhưng
không hiểu sao đoàn tàu Việt-Mỹ chạy mãi mà vẫn chưa tới được cái ga đó (cứ như
một nhà ga ảo). Có lẽ chuyến thăm Mỹ của ông Nguyễn Xuân Phúc cũng chỉ tới được
một cái “ga xép” dọc đường, chứ chưa tới được cái ga chính, vì chủ nhân của Nhà
Trắng đã thay đổi. Một năm trước đây khi ông Obama còn làm chủ Nhà Trắng, chỉ cần
Hà Nội dấn thêm một bước nữa là đoàn tàu Việt-Mỹ có thể tới được cái ga đó rồi (nhưng
nay cơ hội đó đã trôi qua).
Những
rào cản lớn
Chặng đường trước mắt của đoàn tàu Việt-Mỹ còn nhiều
trắc trở, với những rào cản hữu hình và vô hình (mà người ta sợ “nhạy cảm” nên không
nói ra). Rào cản lớn nhất có tên là Bắc Kinh. Cứ mỗi khi đoàn tàu Việt-Mỹ định
tăng tốc thì nó lại xuất hiện, làm cho đoàn tàu lắc lư phải chạy chậm lại, hoặc
dừng hẳn. Ví dụ, khi đoàn tàu Việt-Mỹ đang chạy tới ga “Normalization” (hay
“WTO” và “BTA”) thì lại có biển báo dừng lại, không phải biển cấm vì tàu đi vào
đường một chiều, mà là biển báo hiệu nguy hiểm vì “diễn biến hòa bình”. Điều trớ trêu là Bắc Kinh ngăn cản Hà Nội kết thân
với Washington, trong khi họ làm tình với nhau.
Mặc dù Hà Nội biết cái biển báo đó là của Bắc Kinh, nhưng
đoàn tàu vẫn phải chạy chậm hay dừng lại, không phải vì người lái tàu Hà Nội sợ
sai luật giao thông mà sợ sai “quy trình vì đại cục”, như một bóng ma vô hình. Cứ
mỗi khi Hà Nội cử lãnh đạo nào sang Washington, thì lại phải sang Trung Nam Hải
trước, như một tiền lệ “bất thành văn”. Cái bóng Bắc Kinh đã ám ảnh đoàn tàu
Viêt-Mỹ suốt 27 năm qua (từ 9/1990) khi những người lái Tàu Hà Nội và Bắc Kinh
gặp nhau bí mật tại Thành Đô để “bẻ ghi” đoàn tàu Việt-Trung chạy theo hướng
ngược lại. Từ “kẻ thù trực tiếp và nguy
hiểm nhất”, Trung Quốc trở thành “đối
tác chiến lược toàn diện” với “16 chữ
vàng”. Đó là một bước ngoặt chiến lược nguy hiểm để “trở về tương lai” của mối quan hệ “Bắc thuộc” (mà ông Nguyễn Cơ Thạch lúc đó đã cảnh báo).
Rào cản lớn thứ hai đối với đoàn tầu Việt-Mỹ là Nhân
Quyền, mà trước đây là vấn đề MIA đã từng cản trở quan hệ Việt-Mỹ suốt thời hậu
chiến. Điều trớ trêu là trong khi Washington chấp nhận chế độ cộng sản Hà Nội
mà biểu tượng là Tổng thống Obama đã tiếp Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng trong “Phòng
Bầu dục” của Nhà Trắng, thì Washington lại không thể bỏ qua hồ sơ vi phạm nhân
quyền, do sức ép của Quốc Hội và dư luận báo chí. Hiện nay, mặc dù Tổng thống
Donald Trump có thể bị nhiều người Mỹ phê phán là vi phạm nhân quyền hay vi phạm
quyền tự do báo chí, nhưng vấn đề Nhân quyền vẫn là một “cục xương mắc họng”
trong quan hệ Viêt-Mỹ. Vì vậy không nên nhầm lẫn giữa hai vấn đề này. Trong khi
rào cản Bắc Kinh là một thực tế khách quan mà Hà Nội không làm gì được (trừ phi
“thoát Trung”), thì rào cản Nhân quyền là một vấn đề mà Hà Nội có thể tháo gỡ bằng
đổi mới thể chế.
Rào cản lớn thứ ba là sự “bất cập” của năng lực lãnh
đạo (trong ngoại giao cá nhân). Mặc dù ai cũng biết ông Donald Trump là một Tổng
thống bất bình thường, thậm chí có nhiều tai tiếng, nhưng nguyên thủ nước nào
cũng phải đến Washington gặp ông Trump, từ Thủ tướng Nhật Abe đến Chủ tịch
Trung Quốc Tập Cận Bình, thủ tướng Đức Merkel, thủ tướng Anh May, v.v. Đơn giản
vì Mỹ vẫn là siêu cường số một thế giới. Vì vậy, Thủ tướng Việt Nam muốn đến Nhà
Trắng gặp ông Trump cũng là điều dễ hiểu, vừa vì lợi ích quốc gia (để đối phó với
những vấn nạn hiện nay), vừa vì lợi ích cá nhân (để tăng cường vị thế chính trị
của mình).
Tuy các cố vấn
chủ chốt của ông Trump như Cố vấn An ninh Quốc gia HR McMaster, ngoại trưởng
Rex Tillerson (trong nhóm “Axis of Adults”) có thể ủng hộ quan hệ đối tác Việt-Mỹ,
vì lợi ích chung của hai nước. Nhưng họ có thuyết phục được ông Trump coi Việt
Nam là “đối tác quan trọng” về kinh tế và chiến lược hay không, còn phụ thuộc
vào ông Phúc có chứng minh được điều đó
hay không, bằng cách trực tiếp thuyết phục ông Trump khi gặp gỡ. Ông
Trump vốn thích “ngoại giao cá nhân” (personal diplomacy) và hay hành động theo
cảm tính, đôi khi thất thường nên rất khó đoán. Trong khi ông Trump có thể tùy
hứng thay đổi kịch bản có sẵn (script), thì ông Phúc (và hầu hết lãnh đạo Việt
Nam) lại quen dựa vào kịch bản một cách cứng nhắc, nên dễ bị động và lúng túng.
Vấn đề là ông Phúc làm thế nào để gây ấn tượng cá nhân tốt đẹp với ông Trump
(như các nguyên thủ khác vẫn làm). Điểm mạnh của ông Trump lại là điểm yếu của
ông Phúc (đã từng mang tiếng là “Thủ tướng CLMV”).
Tuy nhiên ông
Phúc có thể dùng chiến thuật “du kích” làm ông Trump bất ngờ, như đề nghị mua
thêm vũ khí tối tân, hoặc lập luận rằng trong số 32 tỷ USD thâm hụt thương mại mà
Mỹ “nhập siêu” từ Việt Nam (năm 2016), hầu hết là sản phẩm điện tử của hãng Sam
Sung và Intel (như điện thoại di dộng và linh kiện máy tính) sản xuất gia công
tại Việt Nam. Số hàng hóa “nhập siêu” này thực chất không phải là hàng Việt Nam
xuất khẩu sang Mỹ, mà là hàng Việt Nam gia công cho nước ngoài để hưởng dịch vụ
(chỉ khoảng 5-8% gía trị hàng hóa). Nói cách khác, đây là một sự nhầm lẫn “oan”
cho Việt Nam, do khác nhau về cách thống kê.
Xung
quanh chuyến đi
Trước khi Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc sang thăm Mỹ
(29-31/5/2017), Chủ tịch nước Trần Đại Quang đã thăm chính thức Bắc Kinh
(11/5/2017) nhân dịp dự diễn đàn quốc tế “Một Vành Đai một Con Đường”
(14-15/5/2017). Ông đã gặp Thủ tướng Lý Khắc Cường và Chủ tịch Tập Cận Bình, và
hai bên đã thông qua Thông cáo Chung về Biển Đông. Trong một động thái khác, ngày 22/5/2017, đại sứ Mỹ Ted Osius
đã trao cho Cảnh sát biển Việt Nam 6 tàu tuần tra biển (Metal Shark) trong số
18 chiếc mà Tổng thống Obama đã cam kết 4 năm trước. Tiếp đó, ngày
24/5/2017, chiến hạm USS Dewey đã đi vào khu vực 12 hải lý quanh đảo Vành Khăn tại Trường Sa, mà
không thông báo trước như thường lệ “đi qua vô hại” (innocent passage). Đây là
chuyến tuần tra FONOP đầu tiên, kể từ khi ông Trump lên làm tổng thống.
Ông Nguyễn Xuân Phúc là thủ tướng đầu tiên của một
nước ASEAN mà ông Trump tiếp chính thức tại Nhà Trắng, tuy trước đó đã có các
lãnh đạo Châu Á khác gặp ông Trump như Thủ tướng Shinzo Abe và Chủ tịch Tập Cận
Bình. Để thu xếp cho lãnh đạo nước họ gặp ông Trump và tháo gỡ những rào cản, người
Nhật và người Trung Quốc đã phải khôn khéo vận động (lobby). Việt Nam cũng
không phải là ngoại lệ. Mấy tháng qua, lãnh đạo Hà Nội đã chủ động bày tỏ mong
muốn gặp ông Trump, và cử các đoàn đi Mỹ vận động Quốc Hội và các thế lực ủng hộ
quan hệ với Việt Nam và duy trì tuần tra tại Biển Đông (FONOP). Theo Reuters,
Viêt Nam đã thuê một người vận động hành lang (lobbyist) với giá 30.000
USD/tháng.
Ngày
20-21/4/2017, Ngoại trưởng Việt Nam Phạm Bình Minh
đã đến Mỹ để “tiền trạm”, gặp các quan chức chủ chốt của Chính quyền và Quốc
hội, trong đó có Ngoại trưởng Rex Tillerson và Cố vấn An ninh Quốc gia H.R. McMaster.
Trong dịp đó, ông McMaster đã trao cho ông Minh thư của Tổng thống Donald Trup
mời Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc sang thăm Mỹ. Đồng thời, ông Minh cũng chuyển
lời mời chính thức của Chủ tịch nước Trần Đại Quang mời Tổng thống Donald Trump
tham dự cuộc họp thượng đỉnh APEC tại Đà Nẵng (tháng 11/2017) và thăm Việt Nam.
Ông Trump đã nhận lời và khẳng định sẽ tham dự.
Mặc dù ông Trump
đã quyết định rút khỏi TPP, bỏ rơi chính sách xoay trục sang Châu Á của ông
Obama, và tỏ ra không tha thiết với vấn đề Biển Đông, nhưng trước chuyến thăm của
ông Phúc,
Reuters (28/5/2017) nhận thấy một số dấu hiệu tích cực. Nhà Trắng gọi Việt Nam “là
một trong những
đối tác quan trọng của Mỹ ở Đông Nam Á”. Người phát ngôn Bộ Ngoại
Giao Mỹ (Katrina Adams) nói rõ, “Quan hệ đối tác Việt-Mỹ là một phần cốt yếu
trong chính sách đối ngoại của Mỹ tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương” (the
US-Vietnam partnership is a critical component of US foreign policy in the
Asia-Pacific region). Theo Carl Thayer, Viêt Nam là “một con bài quan trọng trong cấu trúc an
ninh đa phương trong khu vực” của Mỹ, nhất là trong bối cảnh ông Rodrigo
Duterte “lánh xa Mỹ và xích lại với Trung
Quốc”.
Các nhà phân
tích cho rằng dưới thời Trump, Mỹ đã lặng lẽ rút lui khỏi khu vực, để Trung Quốc
tự do hành động bá quyền, làm phương hại cho các nước như Việt nam. Sự nhân nhượng
của Washington là một củ cà rốt to để đánh đổi lấy sự giúp đỡ của Bắc Kinh nhằm
đối phó với Bắc Triều Tiên, một việc Trump rất cần nên sẵn sàng thỏa hiệp. Nhưng
theo Carl Thayer, lúc này Việt Nam lại gần với
Mỹ còn hơn cả hai nước đồng minh có hiệp ước quân sự với Mỹ là Thái Lan và
Philippines. Việt Nam cần tham gia nhóm các nước đối tác của Mỹ trong khu vực (mà
Singapore là đối tác số một). Theo Diplomat
(5/2016) Việt Nam trở nên quan trọng hơn trong chiến lược kiềm chế Trung Quốc
bành trướng ảnh hưởng trong khu vực.
Đánh giá triển vọng
Hãy tham khảo một số đánh giá của
những chuyên gia quen biết.
Theo Alexander Vuving ( “What Vietnam Can Offer America”,
Alexander Vuving, National interest, May 27, 2017) vấn đề sống còn của Việt Nam
là làm thế nào cân bằng mối quan hệ với Bắc Kinh và Washington. Đó là bối cảnh cho
chuyến thăm Mỹ của ông Phúc. Vuving cho rằng trong quan hệ với Mỹ có 3 vấn đề quan
trọng nhất thiết phải đạt được. Thứ nhất là phải đạt được một hiệp định thương
mại và đầu tư có triển vọng. Thứ hai là phải thỏa thuận được quan điểm về Biển
Đông không chấp nhận hiện trạng. Thứ ba là phải xây dựng quan hệ đồng minh
Viêt-Mỹ trên cơ sở “đối tác chiến lược toàn diện”. Tuy quan hệ đối tác phải
mang tính chiến lược sâu sắc hơn, nhưng không nhất thiết phải là cam kết quốc
phòng.
Theo Minxin Pei (“The TPP’s Second Act”, Minxin
Pei, Project syndicate, May 24, 2017), quan điểm đồng thuận cho rằng thực tế
ông Trump đã nhân nhượng và trao Đông Á cho Trung Quốc tuy có cơ sở, nhưng lại
bỏ qua một thực tế địa chính trị cơ bản. Đó là nhiều nước Đông Á đã dựa dẫm ỷ
lại vào vai trò đứng đầu của Mỹ nên không đầu tư cho an ninh kinh tế và quốc
phòng của mình. Nay không còn dựa dẫm được vào Mỹ để duy trì hòa bình và thinh
vượng, họ đang đứng trước các sự lựa chọn rất khó khăn, và phân hóa làm 3 nhóm.
Nhóm
thứ nhất chọn cách ngả theo Trung Quốc, bao gồm một số nước như Thailand,
Malaysia, Cambodia, Laos. Nhóm thứ hai chọn chiến lược đề phòng rủi ro (hedging
strategy), gồm các nước như Australia, South Korea, Singapore. Nhóm thứ ba chọn
chiến lược tự lo cho mình (self-help strategy) gồm các nước như India, Japan, Vietnam,
Indonesia.
Để
lấp lỗ trống do Mỹ rút khỏi TPP, Nhật phải dẫn đầu TPP11, thuyết phục các nước
Châu Á xiết chặt hàng ngũ, không khuất phục Trung Quốc. Muốn vậy, Nhật phải có
chính sách sẵn sàng chấp nhận phí tổn cao hơn để giữ cho Nhật và các đối tác
khác thoát khỏi quỹ đạo Trung Quốc. Nếu Hàn Quốc và Indonesia tham gia TPP11,
thì cán cân sẽ thay đổi.
Theo Jonathan London (“High Stakes for Vietnam Prime Minister’s
Visit to Washington”, Jonathan London, CSIS CogitAsia, May 29, 2017), chuyến thăm của ông
Phúc có ý nghĩa quan trọng trên 3 lĩnh vực. Thứ nhất là thương mại. Mỹ và Việt
Nam có nhiều lý do để mở rộng và đa dạng hóa quan hệ thương mại. Điều này sẽ
giúp Việt Nam tránh được tình trạng sử dụng những công nghệ rẻ tiền, gây ô
nhiễm cao, có hại cho người lao động, đồng thời
khuyến khích Chính phủ bỏ những dự án nhiệt điện gây ô nhiễm và thay bằng những
dự án mới dựa trên công nghệ và đầu tư của Mỹ, ví dụ như khai thác nguồn khí
đốt ngoài khơi.
Thứ hai là vấn đề an
ninh. Làm thế nào để Mỹ và Việt Nam (cùng các nước khác) có thể đảm bảo cho môi
trường an ninh hàng hải ở Đông Á, phù hợp với luật quốc tế. Trước những dấu
hiệu Bắc Kinh đang theo đuổi những mục đích ngược với lợi ích của Mỹ, thì lợi
ích an ninh của Việt Nam và Mỹ ngày càng song trùng, hơn với bất cứ nước nào
khác. Hai nước cần tiếp tục hợp tác về
an ninh, như vừa rồi Mỹ đã chuyển giao cho Việt Nam 6 tàu tuần tra biển. Vì
Trump quan tâm đến mua bán vũ khí, nên đây có thể là một lĩnh vực dễ hợp tác.
Thứ ba là một khía cạnh
không đo đếm được nên dễ bị bỏ qua, liên quan đến vai trò của Thủ tướng Nguyễn
Xuân Phúc, liệu ông ấy có vị thế quan trọng như thế nào trong sự phát triển
kinh tế và chính trị của Việt Nam. Tuy là người có tư tưởng cải cách, nhưng ông
Phúc lại tỏ ra thiếu khí thế và tiếng nói về vấn đề nhân quyền. Vừa rồi, trong khi
Ban Tuyên giáo kêu gọi đối thoại với giới bất đồng chính kiến, thì không khí lấn
át của chủ nghĩa bảo thủ lại trỗi dậy. Theo các nhà quan sát, đây là một tín hiệu
xấu cho tương lại cải cách ở Việt Nam. Trong bối cảnh đó, không biết chuyến
thăm Mỹ của Thủ tướng Phúc có ích lợi gì.
Vì vậy, hy vọng Nhà
Trắng, Quốc hội, và các lãnh đạo khác trong chính quyền có tiếng nói rõ ràng và
tha thiết để biểu lộ cam kết thúc đẩy quan hệ song phương với Việt Nam. Xét cho
cùng, chỉ có người Việt Nam mới tự quyết định được tương lai của mình. Nếu nhìn
xa hơn, bỏ qua chuyện chính trị trước mắt, thì Việt Nam và Mỹ có nhiều lợi ích lâu
dài để xây dựng một quan hệ vững mạnh, đặc biệt là về lĩnh vực thương mại và
quốc phòng.
Theo David Brown (“Vietnam’s Premier Phuc Enters the US Cobra
Den”, David Brown, Asia Sentinel, May 29,
2017), TPP là công cụ để Hà Nội tháo gỡ sự ách tắc về ý thức hệ. Còn đối với
quan hệ Viêt-Mỹ, TPP là chất keo kinh tế để gắn kết một quan hệ đối tác chiến
lược bền vững. Tuy ông Trump đã rút khỏi TPP, nhưng Hà Nội vẫn hy vọng đạt được
một hiệp định thương mại song phương với Mỹ tương tự như TPP (là ưu tiên cao
nhất của ông Phúc). Biết đâu một ngày nào đó, Việt Nam sẽ trở thành cầu nối để
đưa Mỹ trở lại sân chơi TPP.
David
Brown cho rằng bản thân cuộc gặp ông Trump 30 phút tại Phòng Bầu dục là một sự
kiện quan trọng, vì 3 ý nghĩa. Thứ nhất, Ngoại trưởng Phạm Bình minh và Đại sứ
Phạm Quang Vinh đã thu xếp để ông Phúc trở thành thủ tướng đầu tiên của ASEAN
được ông Trump tiếp tại Nhà Trắng. Thứ hai, Hà nội có lý do để hy vọng đàm phán
thương mại song phương (như TPP) sẽ có kết quả. Thứ ba, món quà của Hà Nội mà
ông Phúc đem đến cho ông Trump có thể là đề nghị mua một số vũ khí tối tân của
Mỹ. Đây có thể là cái chốt của cuộc gặp. Trong khi ông Phúc có thể bám vào kịch
bản có sẵn, thì ông Trump lại hay nói nhiều và tùy hứng, nên không loại trừ tình
huống bất ngờ, có thể lái quan hệ Viêt-Mỹ theo một hướng khác.
Thay lời kết
Tuy các nhà quan
sát có thể phân tích nhưng rất khó dự đoán kết quả của sự kiện ngoại giao này,
liệu có xảy ra trục trặc hay sai sót nào không. Đây vừa là một cơ hội vừa là
thách thức và rủi ro đối với ông Phúc, vì Donald Trump là một bài toán đố khó
tìm lời giải. Là một lái buôn (dealer) đầy cá tính, Donald Trump không phải là
Bill Clinton hay Barack Obama. Ông ấy muốn phủ nhận mọi di sản của chính quyền
trước. Đối với một tổng thống khác, kết quả gặp gỡ tùy thuộc nhiều hơn vào sự
chuẩn bị (homework) và làm việc nhóm (teamwork). Nhưng đối với ông Trump, nó
tùy thuộc nhiều hơn vào ngoại giao cá nhân và tương tác cá nhân (là một điểm yếu
của ông Phúc). Cuộc gặp gỡ này có thể là một màn trình diễn của hai nhân vật có
cá tính, như trong một chương trình “truyền hình thực tế” (reality television
show).
Hiện nay, lo ngại
lớn nhất của Việt Nam là liệu Mỹ và Trung Quốc có trở nên quá gần gũi và do đó
không đếm xỉa đến lợi ích của Việt Nam hay không. Đối với Việt Nam lúc này, lựa
chọn đối sách khả thi là rất khó, nên phải chơi cờ thế (gambit) bằng đề phòng rủi ro (hedging). Vì vậy, Việt Nam đang tăng
cường hợp tác chặt chẽ với Nhật (chơi “lá bài Nhật”) và chuyển sang “phương
án B” về TPP (còn gọi là TPP11). Vì Mỹ đã rút khỏi TPP nên Nhật trở thành động
lực chính đối với TPP11, cũng như đối với Việt Nam trong quan hệ với Mỹ và
Trung Quốc. Vì vậy, sự kiện ngoại giao song phương Việt-Mỹ này còn có ý nghĩa
đa phương.
NQD. 30/5/2017