Một bài viết mới của tác giả Nguyễn Quang Dy về mối quan hệ giữa Việt Nam và Nhật Bản.
Tác giả bài viết nhấn mạnh rằng. "trong bối cảnh hiện nay, quan hệ Viêt-Nhật là quan trọng bậc nhất và cần được ưu tiên cao".
Bài viết dài nhưng có nhiều thông tin và nhận định đáng giá, rất nên đọc...
----
Nhật Bản và Biển Đông: Trở về tương lai
Nguyễn Quang Dy
Tôi viết bài này nhân kỷ niệm 45 năm lập quan hệ ngoại giao Viêt-Nhật (21/9/2973-21/9/2018) để nhân mạnh rằng trong bối cảnh hiện nay, quan hệ Viêt-Nhật là quan trọng bậc nhất và cần được ưu tiên cao.
Theo đánh giá chính thức, quan hệ Việt-Nhật trải qua thăng trầm, đã tiến một bước dài và đang ở vào giai đoạn tốt đẹp nhất. Hai nước nay là đối tác chiến lược toàn diện (từ 3/2014). Tuy bài viết này chỉ điểm lại mấy nét chính để tham khảo và nghiên cứu tiếp, nhưng đây là dịp tốt để hai bên nhìn lại quá khứ và hiện tại, để định hướng tương lai, nếu muốn thúc đẩy đối tác chiến lược toàn diện ngày càng sâu rộng và bền vững. Quan hệ Viêt-Nhật rất quan trọng.
Thứ nhất, hai nước chia sẻ nhiều giá trị kinh tế, văn hóa, an ninh và quốc phòng chung, trong bối cảnh chiến tranh thương mại Mỹ-Trung;
Thứ hai, dưới thời Trump, Tokyo và Hà Nội cùng có những lo ngại chung về vai trò của Mỹ ở Châu Á (sau khi Mỹ bỏ TPP);
Thứ ba, quan hệ Việt Nam với EU không thuận buồm xuôi gió (nhất là với Đức) nên triển vọng EVFTA còn khó khăn; và,
Thứ tư, Nhật là nước viện trợ ODA lớn nhất cho Việt Nam, nhưng Tokyo đã từng ngừng viện trợ ODA vì lý do tham nhũng.
Trong mấy năm qua, quan hệ hai nước đã được nâng lên một tầm cao mới, với nhiều chuyến thăm ở cấp cao nhất. Thủ tướng Nhật Bản đã thăm chính thức Việt Nam 5 lần. Thủ tướng Việt Nam đã thăm chính thức Nhật Bản 6 lần. Tổng Bí thư (Nông Đức Mạnh và Nguyễn Phú Trọng) cũng như Chủ tịch Nước (Trương Tấn Sang và Trần Đại Quang), đã thăm chính thức Nhật Bản. Đặc biệt là Nhật Hoàng Akihito và Hoàng hậu đã thăm chính thức Việt Nam lần đầu tiên (28/2-5/3/2017) như một mốc son trong lịch sử quan hệ hai nước.
Bối cảnh lịch sử
Biển Đông và Viêt Nam không xa lạ với người Nhật. Trong đại chiến thế giới II (1939-1945) quân đội Nhật đã từng chiếm đóng Trường Sa. Trong lịch sử, người Nhật đã từng đến Việt Nam (Hội An) để buôn bán và sinh sống. Trong một bài nghiên cứu viết cho seminar class “Japan and the world” của giáo su Ezra Vogel (một chuyên gia hàng đầu về Nhật tại Harvard) tôi có đề cập đến câu chuyện này. Đó là vào thế kỷ 16 và 17, người Nhật đã đến Việt Nam (Hội An và Đà Nẵng) để buôn bán, và một số người Nhật đã định cư tại Hội An (gọi là Faifo).
Vào thời đó, Faifo đã trở thành một trung tâm thương mại sầm uất, giao thương phát triển với người Nhật (cũng như Hà Lan và Bồ Đào Nha). Nhưng đáng tiếc sau đó giao thương đã bị đứt quãng (vào năm 1635) khi chính quyền Tokugawa thi hành một chính sách bế quan tỏa cảng (seclusion). Mãi tới năm 1868, dưới thời Minh Trị Duy Tân (Meiji Restoration) thì giao thương giữa người Nhật với Việt Nam mới được nối lại. (Japan and Việt Nam: Lessons of the past and vision for the future, Nguyen Quang Dy, Harvard, December 1992).
Chiến tranh thế giới II đã để lại những kỷ niệm đau buồn mà chủ nghĩa quân phiệt Nhật đã gây ra cho cả người Nhật và người châu Á. Bóng đen của quá khứ vẫn còn ám ảnh hậu thế đến tận ngày nay. Thời hậu chiến là một bước ngoặt lịch sử để người Nhật bước sang trang mới. Nước Nhật đã trỗi dậy đầy ấn tượng như một người khổng lồ về kinh tế, nhưng vẫn là một người lùn về chính trị, vì những ràng buộc hiến pháp (như điều 9). Nhưng gần đây, Trung Quốc đã trỗi dậy như một con rồng khổng lồ (hay quái vật Frankenstein), không những đã vượt qua Nhật về kinh tế (năm 2010) sau khi khủng hoảng tài chính châu Á (năm 1997) đã làm kinh tế Nhật suy yếu, mà còn bắt nạt các nước láng giềng tại Biển Đông, và thách thức Mỹ.
Trong gần ba thập kỷ qua, sự trỗi dậy đầy ấn tượng của Trung Quốc và cách mà Mỹ và đồng minh ứng xử với Trung Quốc đã làm thay đổi cán cân lực lượng tại khu vực có lợi cho Trung Quốc, và từng bước biến Biển Đông thành “cái ao riêng” của họ. Nay khi Mỹ và đồng minh Nhật lo lắng và tìm cách ngăn chặn Trung Quốc, thì đã quá muộn. Con rồng Trung Quốc đã biến thành quái vật Frankenstein như “hệ quả không định trước” của chính sách “tham dự xây dựng” (Constructive Engagement) mà phương Tây theo đuổi một cách hồ đồ (gần như vô điều kiện). Nay nhìn lại, đó là một sai lầm lớn như hệ quả của sự ngộ nhận.
Với tầm nhìn Đông Á, Nhật cần đóng một vai trò lớn hơn trong khu vực gồm các nền kinh tế tăng trưởng cao, trong đó Nhật cần phát huy sức mạnh kinh tế của mình, vừa là mô hình phát triển, vừa có vai trò lãnh đạo tích cực hơn. Nếu Nhật muốn trở thành cường quốc thế giới, thì trước hết phải là cường quốc khu vực. Nhưng thách thức của Nhật là phải thoát khỏi cái bóng của lịch sử, gồm nghi ngại của các nước láng giềng khu vực, và ràng buộc trong nước về hiến pháp, là là những cản trở chính cho vai trò lớn hơn của Nhật Bản.
Đồng thời, Nhật cần tìm cách khác để thay thế dần chính sách đối ngoại “checkbook”, vì Nhật không thể vừa là một người khổng lồ về kinh tế, vừa là một người lùn về chính trị và quân sự.
Muốn có vai trò tích cực và lớn hơn tại khu vực, Nhật phải có vai trò lãnh đạo mạnh dạn hơn, được các nước khu vực chấp nhận.
Nếu trước đây (năm 1990), Campuchia là sân chơi để Nhật “tập dượt chính trị” với vai trò của ông Yashushi Akashi trong UNTAC, nay Biển Đông là “sân chơi mới” của Nhật trong trò chơi quyền lực mới (tại Indo-Pacific), để xây dựng một khuôn khổ an ninh tập thể của khu vực, vì hòa bình và thịnh vượng chung.
Nếu Nhật không làm được điều đó, Trung Quốc sẽ trỗi dậy giành mất vai trò cầm đầu khu vực Đông Á, không chỉ vượt qua Nhật trở thành cường quốc kinh tế lớn thứ hai thế giới, mà còn kiểm soát cả khu vực này. Nhật và các nước khu vực không thể trông chờ Mỹ đóng vai trò bảo hộ an ninh khu vực mãi, vì quan tâm chiến lược của Mỹ có thể chuyển sang khu vực khác, và tầm nhìn về trật tự thế giới của Mỹ có thể thay đổi. Lúc đó có thể quá muộn để Nhật có cơ hội xây dựng quan hệ hợp tác song phương hay khuôn khổ an ninh tập thể theo tầm nhìn mới.
Tóm lại không ai dám chắc sai lầm lịch sử sẽ không lặp lại một lần nữa.
Trong bài essay viết cách đây 26 năm, tôi đã lập luận rằng tuy Việt Nam phải gia nhập ASEAN để trở thành “ASEAN lớn hơn” (hay “ASEAN-10”), Việt Nam cũng nên mở rộng tầm nhìn vượt ra khỏi khuôn khổ ASEAN. Nói cách khác, Việt Nam cần trở thành một phần của cộng đồng Đông Á gồm Nhật, Nam Hàn, Đài Loan, (và nay là tầm nhìn Indo-Pacific tự do và rộng mở). Tầm nhìn Đông Á không chỉ nhằm tăng trưởng kinh tế nhanh hơn, mà còn vì an ninh khu vực dựa trên luật pháp, phòng khi sự có mặt của Mỹ tại Đông Á sắp tới sẽ giảm sút, trong khi Trung Quốc trỗi dậy như con rồng hung hãn, phủ bóng đen lên khu vực.
Trở về tương lai
Đầu tháng 5/2014 Trung Quốc bất ngờ đưa dàn khoan HD-981vào vùng biển tranh chấp với Việt Nam, có mấy chục tàu hải quân và hải giám đi theo hộ vệ (gần Trường Sa).
Dù muốn hay không, Việt Nam buộc phải đối đầu với Trung Quốc tại Biển Đông (hầu như một mình). Mùa hè nóng bỏng đó đã đi vào lịch sử như một bước ngoặt chiến lược, không chỉ làm quan hệ Trung-Việt khủng hoảng, mà còn biến Biển Đông thành “thùng thuốc súng”, và tâm điểm tranh chấp quyền lực và lợi ích chiến lược giữa Trung Quốc với Mỹ và đồng minh. Vụ tranh chấp đảo Điếu Ngư tại Biển Hoa Đông và vụ khủng hoảng dàn khoan ở Biển Đông là một yếu tố thay đổi cuộc chơi (game changer), làm Tokyo giật mình, phải điều chỉnh bàn cờ khu vực.
Tuy Việt Nam vẫn giữ quan hệ tốt với Trung Quốc (cho tới lúc đó), nhưng sự kiện dàn khoan HD-981 là một nhân tố thay đổi làm Hà Nội bị sốc, buộc phải điều chỉnh tư duy chiến lược.
Trong khi Washington và Tokyo tỉnh ngộ về hiểm họa Trung Quốc tại Biển Đông, Người Việt coi Trung Quốc là “nửa bạn nửa thù” (franemy). Trong khi quan hệ Trung-Việt giảm xuống tới mức xấu nhất kể từ cuộc chiến tranh biên giới (từ 2/1979), quan hệ Mỹ-Việt và Nhật-Việt lại tốt lên và xích lại gần nhau hơn, như một “hệ quả không định trước”.
Trong bối cảnh đó, chủ nghĩa dân tộc trỗi dậy, thúc đẩy Việt Nam có bước ngoặt mới về đối ngoại. Tin tức về dàn khoan HD-981 và tàu Trung Quốc ngang nhiên đâm và đánh chìm tàu thuyền Việt Nam, đã dẫn đến những cuộc biểu tình chống Trung Quốc trên toàn quốc, thậm chí đốt phá các dự án của người Trung Quốc tại Việt Nam. Bước ngoặt này đã làm cho Hà Nội và Bắc Kinh xa nhau hơn, trong khi Hà Nội mở rộng cửa để Tokyo và Washington xích lại gần Việt Nam, không chỉ để hợp tác kinh tế mà còn vì chiến lược. Nói cách khác, Nhật và Mỹ đang “trở về tương lai” (back to the future) tại Biển Đông và Việt Nam.
Theo một số chuyên gia, có ba yếu tố cơ bản thúc đẩy Nhật trở lại Biển Đông, nay trở thành “thùng thuốc súng” tại châu Á, nơi Trung Quốc trỗi dậy muốn làm bá chủ khu vực:
Thứ nhất, Nhật muốn duy trì trật tự tại Biển Đông theo luật quốc tế (bao gồm UNCLOS);
Thứ hai, vì Biển Đông bất ổn, Nhật phải theo Mỹ “xoay trục” sang châu Á để giữ nguyên trạng và ngăn chặn Trung Quốc; và,
Thứ ba, vì lợi ích an ninh của mình và địa chính trị Đông Á, Nhật buộc phải cạnh tranh với Trung Quốc đang trỗi dậy. (Japan’s Grand Strategy in the South China Sea, Takashi Inoguchi & Ankit Panda, in Anders Corr (ed), 2018, Great Powers, Grand Strategies: The New Game in the South China Sea, Naval Institute Press. Kindle Edition).
Trong mấy năm qua, khi nào quan hệ Trung-Việt xấu đi thì quan hệ Nhật-Việt và Mỹ-Việt sẽ tốt lên. Có sáu lý do chính thúc đẩy Nhật phải có lập trường cứng rắn hơn: Thứ nhất, Tokyo sợ Mỹ quá lo về Triều Tiên, nên không dám đối đầu với Trung Quốc; Thứ hai, tuy Shinzo Abe thân mật với Trump, nhưng lập trường của Trump vẫn khó lường; Thứ ba, Tokyo cần triển khai Izumo và Kaga tại Biển Đông để huấn luyện hải quân Nhật; Thứ tư, Tokyo cần triển khai lực lượng ở khu vực để hỗ trợ Shinzo Abe sửa đổi hiến pháp (điều 9); Thứ năm, Tokyo lo một số nước ASEAN ngả theo Trung Quốc vì “Nhất đới Nhất lộ”; và,
Thứ sáu, Tokyo tham gia tập trận hải quân Malabar tại Ấn Độ Dương cùng hải quân Mỹ và Ấn (hy vọng sẽ thêm Úc) để tăng cường khả năng “phối hợp tác chiến” (interoperability) và đối phó với rủi ro mới trên Biển.
Theo kế hoạch, Nhật định đóng 4 tàu sân bay loại “Izumo class” (trọng tải 27.000 tấn). Izumo và Kaga là hai tàu sân bay đầu tiên, được xếp loại trung bình, tuy không lớn bằng tàu sân bay của Mỹ và Nga, nhưng tương đương với các tàu sân bay của châu Âu. Vì hiến pháp Nhật không cho sở hữu tầu sân bay, nên Tokyo phải xếp Izumo và Kaga vào loại “khu trục hạm chở trực thăng” (chủ yếu có nhiệm vụ chống tàu ngầm). Trên tàu Izumo và Kaga có 5 bãi đỗ trực thăng, và chở được 28 trực thăng. Theo thiết kế, có thể sửa Izumo thành tàu sân bay cho máy bay chiến đấu cần đường băng ngắn (VSOL) như F-35B mà Nhật định mua 42 chiếc.
Trong khi Tokyo cùng Washington triển khai sức mạnh cứng (hard power) tại Biển Đông và Việt Nam (để răn đe Trung Quốc), về lâu dài họ cần triển khai cả sức mạnh mềm (soft pwer) bao gồm hợp tác kinh tế và văn hóa. Tuy tàu sân bay USS Carle Vinson đến thăm Đà Nẵng hát “nối vòng tay lớn” và tàu ngầm Kuroshio đến Cam Ranh giao lưu bóng đá là một sáng kiến, nhưng họ phải nghĩ đến cái gì đó lâu dài hơn.
Di sản văn hóa Nhật tại Hội An là một biểu tượng “sức mạnh mềm” (soft power) không chỉ có giá trị du lịch mà còn là cầu nối văn hóa giữa hai nước. Ý tưởng kết nghĩa giữa hai “thành phố xanh” (green city) là Yokohama và Đà Nẵng cũng là một dự án có ý nghĩa, cần được hai chính phủ ưu tiên thúc đẩy.
Biển Đông dậy sóng
Theo Bộ Quốc phòng Nhật, tàu ngầm Kuroshio (attack submarine) đã cập bến quân cảng Cam Ranh trong chuyến thăm 4 ngày (từ 17/9/2018), sau khi tập trận chống tàu ngầm tại khu vực gần bãi cạn Scaborough (13/9) cùng với tàu sân bay Kaga và hai tàu khu trục Inazuma và Suzutsuki. Đây là lần đầu tiên tàu ngầm của Nhật tham gia tập trận tại Biển Đông và đến Cam Ranh, tiếp theo sự kiện tàu sân bay Izumo đến Cam Ranh lần đầu (20/5/2017) trong một hải trình dài để tham gia tập trận tại Biển Đông và Ấn Độ Dương. (SCMP, 17/9/2018).
Trong khi đó, Nhật và Mỹ tăng cường hợp tác an ninh hàng hải với Việt Nam (làm Trung Quốc lo ngại). Trong khi Mỹ chuyển giao cho Cảnh sát Biển Việt Nam tàu tuần duyên Morgenthau (Hamilton class, trọng tải 3.250 tấn) và 6 xuồng tuần tra tốc độ cao Metal Shark (5/2017), Nhật cũng cam kết sẽ chuyển giao cho Việt Nam 6 tàu tuần tra đa năng MRRV (trong năm 2018). Tàu sân bay Mỹ USS Carl Vinson tới Cam Ranh (3/2018) chắc không phải để thủy thủ Mỹ hát “nối vòng tay lớn”, và tàu ngầm Nhật Kuroshio tới Cam Ranh (9/2018) chắc không phải để thủy thủ Nhật giao lưu bóng đá. Ngoài Mỹ và Nhật, các nước khác (Úc, Ấn, Hàn, Anh, Pháp và Canada) cũng điều động tàu chiến đến Biển Đông để tuần tra (FONOP).
Theo giáo sư Narushige Michishita (National Graduate Institute for Policy Studies, Tokyo) “Nhật muốn gửi một thông điệp chiến lược tới Trung Quốc và các nước khu vực, để chứng tỏ Nhật quyết tâm cân bằng lực lượng. Vì vậy, việc triển khai tập trận chống tàu ngầm tại Biển Đông có ý nghĩa đặc biệt”. (Japan Challenges China With Submarine Exercise, Chieko Tsuneoka & Peter Landers, Wall Street Journal, September 17, 2018).
Các sự kiện nói trên diễn ra trong bối cảnh khu vực Indo-Pacific có một số đặc điểm đáng chú ý.
Thứ nhất, vai trò an ninh của Nhật tại khu vực đang được tăng cường với tầm nhìn Indo-Pacific và “Bộ Tứ” (Quad) gồm Mỹ-Nhật-Úc-Ấn;
Thứ hai, chiến tranh thương mại Mỹ-Trung đang leo thang chuyển sang giai đoạn 2 (từ 24/9/2018), khi Mỹ chính thức đánh thuế 25% lên hàng hóa Trung Quốc trị giá 200 tỷ USD;
Thứ ba, quan hệ Liên Triều và Mỹ-Triều diễn biến theo hướng hòa hoãn và phi hạt nhân hóa bán đảo Triều Tiên; và,
Thứ tư, quan hệ Trung-Nhật đang hòa hoãn, và thủ tướng Shinzo Abe tuyên bố sẽ thăm Bắc Kinh vào tháng tới.
Mấy năm gần đây, tranh chấp Trung-Nhật tại quần đảo Điếu Ngư, và Trung Quốc tuyên bố “khu vực nhận diện phòng không” (ADIZ) tại biển Hoa Đông, làm quan hệ hai nước khủng hoảng. Nay tuy quan hệ đang đi vào “một giai đoạn mới”, nhưng Nhật điều tàu sân bay Kaga và tàu ngầm tấn công Kuroshio đến biển Đông tập trận làm hòa hoãn Trung-Nhật vốn mỏng manh càng dễ rủi ro, vì lịch sử hai nước có nhiều uẩn khúc, rất khó tin nhau (deep distrust). Theo các nhà quan sát, gần đây Nhật đã quyết định nhảy vào vũ đài Biển Đông. (The Izumo deployment: Japan’s hat in the ring, Rupakjvoti Borah, Japan Times, May 23, 2017).
Gần đây, Bắc Triều Tiên và Malaysia là hai trường hợp điển hình (case study) về xoay trục chiến lược, theo xu hướng “thoát Trung”. Tuy hai nước này ở hai khu vực khác nhau và có bối cảnh quốc gia khác nhau, nhưng có chung mẫu số là sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc, và đang điều chỉnh chiến lược để thoát khỏi “chủ nghĩa thực dân mới”. Tuy diễn biến tại bán đảo Triều Tiên có thể làm Tokyo lo ngại, nhưng hiện tượng Malaysia là một tin mừng.
Tại Malaysia, Mahathir Mohamad đã thắng cử và lên làm thủ tướng một lần nữa (khi đã 93 tuổi). Người ta gọi sự kiện đó là “cơn địa chấn về chính trị”, vì đã tạo ra một bước ngoặt mới không chỉ cho Malaysia mà còn cho cả khu vực (trong đó có Việt Nam).
Khác với Rajib Razak, Mahathir đang dẫn dắt Malaysia thoát khỏi “bẫy nợ” của Trung Quốc (mà ông gọi là “chủ nghĩa thực dân mới”). Nhưng để “an toàn”, Malaysia vừa phải thân thiện với Trung Quốc, vừa tăng cường quan hệ hợp tác với các cường quốc khác, đặc biệt là Nhật, theo chính sách “Hướng Đông” (Look East), mà trước đây Mahathir đã từng theo đuổi. Đây là tầm nhìn mà Việt Nam có thể chia sẻ về chiến lược “Indo-Pacific” và “Bộ Tứ” tại Biển Đông.
Tầm nhìn Indo-Pacific
Biển Đông không chỉ có vị trí chiến lược quan trọng (như eo biển Malacca) mà còn giàu tài nguyên thiên nhiên (như dầu khí và hải sản). Theo số liệu thống kê, mỗi ngày có khoảng 300 tàu vận tải đi qua Biển Đông, trong đó có hơn 200 tàu chở dầu, chiếm 1/3 lượng dầu thô và 1/2 lượng khí hóa lỏng. Trong số 90% lượng hàng hóa trên thế giới vận chuyển qua đường biển, khoảng 45% phải đi qua Biển Đông. Hàng năm, khoảng 70% khối lượng dầu mỏ nhập khẩu và 45% khối lượng hàng hóa xuất khẩu của Nhật được vận chuyển qua Biển Đông. Trong khi đó, khoảng 70% khối lượng dầu mỏ nhập khẩu và 60% khối lượng hàng hóa xuất nhập khẩu của Trung Quốc được vận chuyển qua Biển Đông. Lượng hàng hóa vận chuyển qua Biển Đông của các nước ASEAN là 55%, của Úc là 40%, của Việt Nam là 100%.
Trong mắt Bắc Kinh, Biển Đông đối với Trung Quốc cũng như vịnh Mexico đối với Mỹ, nên họ coi Mỹ và Nhật là “người ngoài” (outsider) không được can dự vào Biển Đông (vì đây là vùng ảnh hưởng của Trung Quốc). Trung Quốc tự coi mình có quyền thay đổi luật chơi để kiểm soát Biển Đông (như cái ao riêng của họ) bằng cách áp đặt “đường lưỡi bò”, bất chấp phán quyết của Tòa Trọng tài Quốc tế (PCA). Nhưng trong mắt Washington và Tokyo, Trung Quốc là một “cường quốc xét lại” (revisionist power) muốn thay đổi luật lệ và quân sự hóa Biển Đông (Hoàng Sa và Trường Sa), bắt nạt các nước làng giềng (như không cho Việt Nam khai thác dầu khí tại thềm lục địa của mình), bất chấp luật biển quốc tế (UNCLOS).
Đối với Tokyo, vị trí chiến lược của Biển Đông quan trọng không kém Biển Hoa Đông, vì bàn cờ địa chính trị khu vực Đông Á liên quan đến Trung Quốc và gắn liền với lợi ích kinh tế và an ninh của Nhật trong trật tự thế giới và khu vực. Nói cách khác, tranh chấp chủ quyền đảo Điếu Ngư là một yếu tố quan trọng thúc đẩy Nhật triển khai lực lượng tại Biển Đông. Dưới thời thủ tướng Shinzo Abe, Tokyo điều chỉnh (recalibration) chính sách đối ngoại và an ninh của Nhật như “một nước hòa bình tích cực” (proactive pacifist country).
Gần đây, Tokyo đang tiến hành sửa đổi hiến pháp (điều 9), theo đó, “Tư duy chiến lược của Nhật về Biển Đông sẽ tiếp tục được định hình với ngôn ngữ của trật tự toàn cầu dựa trên luật pháp” (Japan’s grand strategic thinking about the South China Sea will continue to be framed in the language of the rules-based global order). (Japan’s Grand Strategy in the South China Sea, Takashi Inoguchi & Ankit Panda, in Anders Corr (ed), 2018, Great Powers, Grand Strategies: The New Game in the South China Sea, Naval Institute Press).
Trong bối cảnh Mỹ điều chỉnh chiến lược theo “tầm nhìn Indo-Pacific tự do và rộng mở” (FOIP) dựa trên khuôn khổ “Bộ Tứ” (Quad) gồm Mỹ, Nhật, Ấn, Úc, thì vai trò của Nhật tại khu vực này càng quan trọng hơn.
Có 2 lý do, Thứ nhất, “Quad” là ý tưởng của Shinzo Abe từ nhiệm kỳ trước, nay mới có điều kiện triển khai (bằng cách đặt vào tay Trump) trong chiến lược an ninh và quốc phòng (NSS và NDS); và Thứ hai, với tầm nhìn của Trump vì nước Mỹ trước (America First) Nhật và các đồng minh ở Đông Á cũng phải “tự lo cho mình trước khi Mỹ cứu”.
Đối với Việt Nam, Hà Nội ủng hộ chiến lược FOIP “một cách kín đáo và thận trọng” (low key and cautious). Trong khi tăng cường quan hệ hợp tác kinh tế và chiến lược (song phương) với các nước trong “Bộ Tứ”, Hà Nội vẫn ngại Bắc Kinh cho rằng Việt Nam muốn tham gia vào một liên minh chống Trung Quốc. Vì vậy, Hà Nội chọn cách tham gia vào “một mạng lưới hợp tác an ninh mềm dẻo” với các nước lớn và đối tác cùng chính kiến nhằm kiềm chế sự trỗi dậy của Trung Quốc, theo hướng tự do thông thương, và tôn trọng pháp luật.
Theo chuyên gia Lê Hồng Hiệp, FOIP vẫn còn là tầm nhìn, chứ chưa phải một kế hoạch cụ thể, hay một cơ chế tổ chức (institutionalized mechanism), nên đối với khu vực, đó vẫn là một câu hỏi lớn mà Mỹ phải giải đáp. Washington có thể không tổ chức “Bộ Tứ” như một liên minh chặt chẽ về an ninh để thực hiện chiến lược FOIP, mà “thiết lập và tăng cường một mạng lưới đồng minh và đối tác an ninh để cộng tác nhằm bảo vệ trật tự dựa trên pháp luật” (establish and strengthen a network of allies and security partners that will work together to defend the rules-based order). (America’s Free and Open Indo-Pacific Strategy: A Vietnamese Perspective, Le Hong Hiep, Yusof Ishak Institute, Issue 2018 No. 43, August 7, 2018).
Lời cuối
Trong thời đại bùng nổ thông tin (với internets & social media) và cơn bão trí tuệ nhân tạo (AI) đang ập tới, giới nghiên cứu và báo chí đang đứng trước những thách thức mới. Thế giới “hậu sự thật” (post-truth) mà Yuval Harari cảnh báo là một con dao hai lưỡi. Trong cái thế giới thật giả lẫn lộn đó, người ta có thể bị hacked bởi Facebook hoặc “thẻ tính điểm tín nhiệm xã hội” (social credit score cards), như trong “1984” của George Orwell. Trên mạng ngày càng nhiều “tin vịt” (fake news) và thông tin “nửa thật nửa hư” (half-truth) khó phân biệt thật giả, dễ làm người ta ngộ nhận.
Thế giới ngày càng diễn biến khó lường, với nhiều biến số (như Trump), nên khó phân biệt thực chất vấn đề (như chiến tranh thương mại Mỹ-Trung).
Gần đây, có nhiều ý kiến trái chiều khi đánh giá một vấn đề. Tuy lý giải khác nhau là chuyện bình thường, nhưng nếu đánh giá trái ngược nhau lại là chuyện khác. Trong khi một số người khen Trump hết lời và khẳng định Mỹ nhất định thắng, Tàu nhất định thua, thì một số khác lại phục Tàu sát đất và khẳng định Tàu nhất định thắng, Mỹ nhất định thua. Điều đó có thể do xu hướng đơn giản hóa vấn đề vốn phức tạp, do người ta thích trắng đen rõ ràng (black or white), trong khi thực tế toàn màu xám (gray area), hoặc do chủ quan duy ý chí, thích nhìn sự việc qua lăng kính của mình, nên người ta dễ ngộ nhận, hoặc do tâm trạng “yêu nên tốt, ghét nên xấu”, nên người ta dễ kết luận vội vàng (như “hội chứng mì ăn liền”).
Tham khảo
1. Japan’s Grand Strategy in the South China Sea, Takashi Inoguchi & Ankit Panda, in Anders Corr (ed), 2018, Great Powers, Grand Strategies: The New Game in the South China Sea, Naval Institute Press. Kindle Edition.
2. Russia and the South China Sea Issue: Paradoxes Abounding, Stephen Blank, in Anders Corr (ed), 2018, Great Powers, Grand Strategies: The New Game in the South China Sea, Naval Institute Press. Kindle Edition.
3. The Izumo deployment: Japan’s hat in the ring, Rupakjvoti Borah, Japan Times, May 23, 2017.
4. America’s Free and Open Indo-Pacific Strategy: A Vietnamese Perspective, Le Hong Hiep, Yusof Ishak Institute, Issue 2018 No. 43, August 7, 2018.
5. Russias massive military exercise with China aimed at Pacific leverage, Stephen Bryen, Asia Times, September 7, 2018.
6. Japan challenges China with submarine military exercise in South China Sea, Laura Zhou, SCMP, September 17, 2018.
7. Japan Challenges China With Submarine Exercise, Chieko Tsuneoka & Peter Landers, Wall Street Journal, September 17, 2018).
8. Why Japan’s First Submarine Visit to Vietnam Matters, Prashanth Parameswaran, diplomat, September 19, 2018.
NQD. 27/9/2018