Sau một số bài đã gửi và đăng trên trang blog này, hôm rồi tác giả là ông bạn Nguyễn Quang Dy có gọi điện bảo sẽ gửi một bài mới viết xong về hội chứng tượng đài.
Về việc này tôi có ít dòng trên một Stt ở trang FB, đại ý là chủ đề về Ông cụ trước nay tôi không viết, là có ý tránh. Đúng là quay nhìn lại từ mấy năm nay, cả gần ngàn Entry ở Blog và hơn ngàn Stt trên FB của trang tôi đều không đề cập đến chủ đề hay đề tài về Ông cụ. Chỉ ngoại trừ bữa trước, thấy chuyện tượng đài dấy lên quá ồn ỹ với sự việc Sơn La thông tin về một dự án 1.400 tỉ thì tôi buộc phá lệ, có viết một Stt ngắn (mời đọc ở phần dưới đây).
Cho nên có thể coi bài của ông bạn Nguyễn Quang Dy của tôi nằm trong ngoại lệ đó. Mời bà con và bạn bè đọc tham khảo.
Vệ Nhi
----
Hội chứng Tượng đài:
phần nổi của tảng băng chìm
Tác giả: Nguyễn Quang Dy
Gần đây dư luận lại ồn ào phẫn nộ về “hội chứng tượng đài”. Mà không
phẫn nộ sao được khi một tỉnh nghèo như Sơn La (với tỉ lệ nghèo đói 64%) dám bỏ
ra 1.400 tỷ đồng để xây tượng đài theo kiểu văn hóa “cờ đèn kèn trống”. Nhà
toán học trẻ Ngô Bảo Châu đã phẫn nộ dùng tới những từ ngữ nặng nề nhất: “hoặc
là khốn nạn hoặc là thần kinh”. Lúc còn sống cụ Hồ thường kêu gọi “cần kiệm
liêm chính”. Bây giờ họ “học tập” cụ bằng cách làm ngược lại ý cụ để “cúng cụ”,
còn họ thì “xơi lộc”. Phải chăng “hội chứng tượng đài” phản ánh rõ khủng hoảng
về nhân cách và dân trí trong công tác văn hóa tư tưởng hiện nay?
Giọt nước tràn ly
Còn nhớ cách đây 5-6 tháng, Hà Nội đã ồn ào phẫn nộ phản đối
thành phố quyết định chặt hạ 6700 cây xanh vô tội. Báo chí lề phải và lề trái
đều vào cuộc, dư luận trong nước và ngoài nước cùng lên tiếng. Lãnh đạo thành
phố buộc phải dừng tay, lùi bước trước dư luận, và buộc phải xử lý một số cá
nhân có liên quan để đối phó với dư luận.
Nhưng chặt cây chỉ là “bề nổi của tảng băng chìm”. Bề nổi thường
dễ thấy nên dễ bàn, nhưng tảng băng chìm thì khó thấy nên dễ bỏ qua. Khi bề nổi
bị chìm đi hay trôi qua rồi, thì đâu lại vào đấy. Trong khi đó tảng băng chìm
vẫn còn nguyên, thỉnh thoảng nó lại nổi lên chỗ này chỗ khác, với hình dạng
khác. Sau vụ việc chặt cây có lẽ là tượng đài.
Thực ra chuyện xây tượng đài tốn kém, cũng như các lễ hội “cờ
đền kèn trống”, đã diễn ra từ lâu rồi. Những vụ việc trước đây gây tai tiếng
như cướp ấn Đền Trần, lộn xộn ở Đền Hùng, đánh lộn ở Đền Gióng, thất thoát 30% ở
Điện Biên, v.v. tưởng đã chìm rồi, thì gần đây lại nổi lên ở Quảng Nam với dự
án “Tượng Mẹ Anh hùng” tốn hơn 400 tỉ đồng, và ở Vĩnh Phúc với dự án xây “Văn
Miếu” tốn gần 300 tỉ đồng, làm công chúng phẫn nộ.
Nhưng lần này giọt nước làm tràn ly là tỉnh Sơn La. Lãnh đạo
tỉnh đã quá tham chạy bằng được dự án “Bác Hồ với đồng bào các dân tộc Tây Bắc”
lên đến 1.400 tỉ đồng (trong khi tỉ lệ nghèo đói là 64%). Có một nghịch lý là
các tỉnh càng nghèo, thì xây dựng tượng đài (hay công sở) càng tốn kém (và thất
thoát càng lớn). Đây là một nghịch lý đau lòng, nhưng vẫn lặp đi lặp lại. Các quan
tỉnh Sơn La vẫn thấy mình còn “thiệt thòi” so với tỉnh bạn.
Trước đây Lai Châu nổi tiếng là tỉnh nghèo nhất nước (với 76%),
nhưng lại xây dựng công sở có quy mô hoành tráng nhất nước (tốn mất 554 tỷ
đồng). Những sai phạm tại Lai Châu đã lập một kỷ lục về “hội chứng công sở”, bị
lên án. Phải chăng Sơn La định lập một kỷ lục mới về “hội chứng tượng đài”. Có
lẽ lãnh đạo các tỉnh này quen được Trung ương ưu ái vì là “vùng cao vùng xa”,
và quen nghĩ rằng tỉnh nghèo nên dân trí thấp, càng dễ bề thao túng, còn dư
luận thì chắc họ không sợ, vì vô cảm nên chẳng hiểu gì về truyền thông.
Dân trí thấp hay quan
lại vô cảm
Muốn biết dân trí thấp hay quan lại vô cảm, hãy xem phản ứng
của lãnh đạo tỉnh Sơn La. Trong khi dư luận phân nộ đến đỉnh điểm (như Gs Ngô
Bảo Châu nói, “bỏ ra 1400 tỷ để xây tượng đài thì hoặc là khốn nạn, hoặc là
thần kinh”), và trong khi Thủ tướng đã yêu cầu UBND tỉnh Sơn La “báo cáo về
việc đầu tư đề án này và làm rõ những nội dung báo chí phản ánh, gửi Thủ tướng
Chính phủ trước ngày 15/8”, thì lãnh đạo tỉnh vẫn chưa tỉnh ngộ. Cùng ngày 5/8/2015,
Chủ tịch UBND tỉnh Sơn La nói, “dư luận đang
hiểu sai về con số 1400 tỷ” cho công trình tượng đài “Bác Hồ với đồng bào các
dân tộc Tây Bắc” và lý giải, “việc xây dựng tượng đài có ý nghĩa lớn về mặt giá
trị văn hóa và lịch sử, Ban Bí thư đã cho phép xây dựng và xin ý kiến các Bộ,
Ban ngành để thực hiện và Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý”. Phó giám đốc Sở Văn hóa-Thể
thao-Du lịch còn nói, “Đã là tình cảm của nhân dân Tây Bắc thì không thể cân
đong đo đếm được. Do đó, cá nhân nào nói lãng phí là chưa đúng”… Tuyệt vời!
Phải chăng dư luận đã nói
sai và Thủ tướng cũng chỉ đạo sai? Hay là có thế lực thù địch nào đứng sau? Làm
quan cấp tỉnh mà chẳng hiểu gì về chính trị và thời cuộc. Sắp lên thớt rồi mà
vẫn cãi lấy được, hay tưởng rằng ai đó ở Ban Bí thư và Chính phủ sẽ tiếp tục
bảo kê cho họ. Ông Vũ Quốc Hùng, nguyên Phó Chủ nhiệm Ban Kiểm tra Trung ương, nghỉ
hưu rồi cũng phải lên tiếng, “dân đang khổ, bão bùng ở khắp nơi, trường học còn
thiếu, bệnh viện quá tải, sao lại xây tượng đài đồ sộ như vậy”, và kiến nghị
Quốc hội vào cuộc.
Nhưng cũng không nên chỉ
đổ lỗi cho mấy ông quan tham của tỉnh, mà bỏ qua trách nhiệm của “cấp trên nào”
đã ký duyệt dự án thất nhân tâm đó. Nếu không được trung ương duyệt và cấp vốn
thì UBND một tỉnh nghèo đói như vậy “bói” đâu ra 1.400 tỉ đồng để làm dự án
“thần kinh” đó. Nghe nói, dự án tượng đài của Sơn La đã được Bộ Văn hóa-Thể
thao-Du lịch, Bộ Xây dựng, Bộ Kế hoạch Đầu tư, Bộ Tài chính ủng hộ, đã trình
Ban Bí thư và được sự đồng ý về chủ trương. Dù lãnh đạo tỉnh, hay các bộ ngành
liên quan có đổ lỗi cho nhau, hay tranh cãi về tiểu tiết, thì bản chất câu
chuyện đã quá rõ rồi. Vấn đề là xử lý thế nào thôi.
Đồng thời, cũng không được bỏ qua trách nhiệm của “cấp dưới”
nào đã đồng lõa với họ để ăn theo. Nếu không có các kiến trúc sư, nghệ sĩ điêu
khắc tạo hình và các nhà thầu tham gia thì mấy ông UBND tỉnh làm sao có thể tự tay
làm đươc dự án khủng đó. Phải chăng “một bộ phận” trí thức và văn nghệ sĩ đã vô
cảm hay vì tham lam, đánh mất nhân cách, tiếp tay cho các nhóm lợi ích thao
túng công quỹ. Họ cũng phải chịu một phần trách nhiệm.
Cả trên và dưới, cả trong và ngoài đã câu kết thành “nhóm
lợi ích”. Bọn họ không những đã lãng phí quá nhiều công quỹ trong khi dân chúng
vẫn trong vòng “xóa đói giảm nghèo”, mà còn dựng lên quá nhiều tượng đài không
có giá trị nghệ thuật và tính dân tộc, sau này không biết để làm gì. Nhiều
người nhận xét tượng vua Lê Thái Tổ có hình dáng giống một hoàng đế Trung Hoa,
và tượng cụ Hồ có phong cách giống Mao, Lê Nin, Stalin (?). Đây không phải chỉ là
hệ quả của hệ tư tưởng, mà còn do bàn tay của các nghệ sỹ tạo ra. Cụ Hồ mà sống
lại, chắc ông cụ buồn lắm!
Thời trước, Việt Nam Cộng hòa cũng bỏ tiền ra xây tượng các
anh hùng dân tộc ở khắp Sài Gòn (để khuấy động tinh thần dân tộc, chống cộng),
nhưng không đến nỗi tốn kém như bây giờ. Các nghệ sỹ lúc đó không đến nỗi vô
cảm như bây giờ, và các bức tượng đó còn có giá trị nghệ thuật nhất định. Khi nền
móng nhân văn của đất nước đã bị phá vỡ, thì cái ngọn nghệ thuật dễ bị sâu
bệnh. Không phải vô cớ mà người ta nói, “Dân nào thì Chính phủ nấy”.
Những góc khuất của tảng
băng chìm
Có lẽ Việt Nam
là một nước có nhiều tượng đài nhất nhì thế giới. Riêng Hà Nội đã có hơn 30
tượng đài, và người ta đang lên kế hoạch xây thêm hơn 30 tượng khác từ nay đến năm
2020. Theo thống kê, cả nước có 137 tượng đài Hồ Chí Minh các loại, tại 31 tỉnh
thành. Bộ Văn hóa - Thể Thao - Du lịch đề xuất từ nay đến năm 2030 sẽ xây thêm
58 tượng đài Hồ chí Minh trên cả nước. Ngoài ra,
người ta còn định đầu tư 11.000 tỉ đồng để xây Bảo tàng Lịch sử Quốc gia, và
1.475 tỉ đồng xây khu tưởng niệm Chu Văn An. Những người trong cuộc nói rằng
sau viện bảo tàng là đến Văn miếu, sau Văn miếu là đến tượng đài chủ tịch Hồ Chí
Minh. Còn sau tượng đài Hồ Chí Minh là cái gì tiếp, thì chưa dám nói trước. Chỉ
biết rằng họ đang lợi dụng biểu tượng của một người đã khuất như một công cụ.
Thật là bất lương.
Xưa nay người ta nói “làm nghề gì ăn nghề ấy”. Chỉ có khác
là bây giờ họ ăn trắng trợn hơn nhiều. Có lãnh đạo than thở, “họ ăn không chừa
một cái gì”. Ngành điện lực xơi điện. Ngành than xơi than. Ngành dầu khí xơi xăng
dầu. Ngành công chính xơi vỉa hè. Ngành giao thông xơi cầu đường. Ngành giáo
dục xơi sách giáo khoa. Ngành xây dựng xơi nhà cửa và cây xanh. Còn ngành văn
hóa tư tưởng xơi tượng đài, lễ hội. Tất nhiên họ không thể “xơi” một mình, mà
phải “nộp tô” theo luật chơi của các nhóm lợi ích. Người dân không còn gì để
xơi thì đi ăn cắp vặt. Người ta gọi Việt Nam là “đất nước tận thu” (rents
seeking country).
Thực ra, bản thân tượng đài đâu có vấn đề. Nghệ thuật điêu
khắc và tượng đài thì quốc gia nào cũng cần, cũng có. Nhưng “lạm phát” tượng
đài với quy mô như trên thì chỉ có tại Việt Nam (hay Bắc Triều Tiên). Các tác
phẩm điêu khắc, cũng như hội họa, nếu là sản phẩm của dân trí cao, có giá trị
nghệ thuật, là một phần “sức mạnh mềm” (soft power) của một quốc gia. Nhưng
đáng tiếc, tượng đài hiên nay là sản phẩm tuyên truyền của ngành văn hóa tư
tưởng, do Đảng chỉ đạo. Nó là sản phẩm của dân trí thấp và tham nhũng, nên vô
hồn và không có giá trị nghệ thuật. Vì vậy nó không góp phần tạo ra sức mạnh
mềm, mà còn phản cảm.
Nếu lập luận rằng xây tượng đài lãnh tụ là để hấp dẫn khách
du lịch trong nước, ngoài nước đến xem (như viếng lăng) thì đúng là thần kinh,
nếu không phải là bịp bợm. Có thể nói “tham nhũng văn hóa” là thứ tham nhũng tệ
hại nhất, vì nó hủy hoại tâm linh và nguyên khí quốc gia. Có thể gọi tham nhũng
kiểu đó là “tham nhũng cùng cực” (extreme corruption).
Nhà văn Phạm Đình Trọng gọi đó là “Một trào lưu, một phương cách tham nhũng
tập thể, công khai, đang là những cơn bão, những trận mưa lũ tàn phá đất nước,
như những trận mưa lũ đang tàn phá Quảng Ninh...”, và kêu gọi các tổ chức xã
hội dân sự cần lên tiếng mạnh mẽ về những dự án vô cảm trước những cảnh nghèo
đói của người dân. Còn giáo sư Nguyễn Văn Tuấn thì gọi Việt Nam là “đất nước của những tượng đài
vô cảm”. Ví dụ, tranh thủ dịp kỷ niệm 1000 năm Thăng Long, họ có thể vô cảm phá
mất những di tích lịch sử vô giá, hàng nghìn năm tuổi, để thay bằng một công
trình “văn hóa” mới một tuổi, vô hồn.
Không hiểu sao, các chế độ độc tài rất thích dựng tượng lãnh
tụ (có lẽ vì tệ sùng bái cá nhân, độc tài chuyên chế). Tại các nước có cơ chế
điều hành thiếu minh bạch và mất lòng dân, họ phải tìm mọi cách để kiểm soát dân
chúng bằng tuyên truyền. Họ cho rằng một phương tiện tuyên truyền hiệu quả là mượn
tượng đài lãnh tụ để duy trì chính danh cho chế độ. Nhưng họ quên mất rằng thời
thế đã thay đổi, nên cách làm này không còn tác dụng.
Trong thời đại toàn cầu hóa và kết nối thông tin bằng kỹ
thuật số, người dân đã biết sử dụng internet và blogosphere (như một cuộc cách
mạng truyền thông) thì dân trí ắt thay đổi. Họ không thể bịt mắt, bịt miệng người
dân dễ dàng như trước. Tuy họ có thể kiểm duyệt được báo chí “lề phải”, nhưng
không thể kiểm duyệt được báo chí “lề trái”. Khi báo chí lề phải và lề trái
cùng vào cuộc (như về vấn đề này), thì truyền thông báo chí có thể mạnh gấp
đôi.
Trong bối cảnh đấu tranh quyền lực quyết liệt diễn ra trước
Đại hội Đảng, thì những vấn đề “nhạy cảm” hiện nay (như ngân hàng hay văn hóa
tư tưởng) có thể được sử dụng làm công cụ để hạ thủ nhau. “Chân dung Quyền lực”
là một ví dụ ngoạn mục. Nhưng vở bi hài kịch về ông Phùng Quang Thanh còn ngoạn
mục hơn. Sau Phùng đại tướng là ai, còn chưa biết rõ. Người dân chỉ mong mọi
chuyện đau lòng này kết thúc “có hậu”, nhắm cái đích hòa giải dân tộc, để phát
triển đất nước cường thịnh và bảo vệ chủ quyền quốc gia. Muốn cường thịnh và độc lập phải nâng cao dân
trí, sống tử tế hơn, và tránh cực đoan.
Trước đây người ta
hay nói tới hai câu thơ đầy khí phách, “Người ta lớn, bởi vì ngươi cúi xuống. Hỡi nhân dân!
Hãy đứng thẳng lên!” (On est grand, parce-que vous vous mettez à
genoux. Citoyens! Levez-vous droitement!). Hình như đây là hai câu thơ của Jean-Paul Marat
(1743 – 1793) mà Tố Hữu lúc còn trẻ rất tâm đắc. Nhưng bây giờ không thấy ai
nhắc đến hai câu thơ cách mạng này nữa (kể cả Tố Hữu, nếu còn sống). Hay là
cách mạng đã bị đánh tráo, và thay đổi khái niệm mất rồi? Phải chăng hai chữ
cách mạng, và nhân dân, nay cũng trở nên “nhạy cảm”? Tại sao vô cảm thì không
sợ, mà lại sợ nhạy cảm? Có lẽ đã đến lúc phải dẹp “Hội chứng Tượng đài”, cả
phần nổi lẫn phần chìm. Thiện tai! Thiện tai!
NQD. 12/8/2015
----
Stt ngày 6/8/2015 trên trang FB (vinh.nguyenvan)
CHUYỆN XÂY, ĐÚC TƯỢNG...
Định chả nói. Trước nay, viết gì thì viết, gần ngàn cái entry post trên blog cá nhân rồi, lại thêm số lượng nhiều hơn thế cho các stt ở trang FB này mấy năm nay... mình tránh hoàn toàn đề tài về ông Cụ, bởi nó là một chủ đề nhạy cảm, dễ bị nã đạn, ném đá từ cộng đồng...
Nhưng gần tuần nay câu chuyện định dựng tượng Cụ ở Sơn La ầm ỹ náo động quá mức khiến mình có khi phải tính nước vượt qua "ngoại lệ".
Định chả nói. Trước nay, viết gì thì viết, gần ngàn cái entry post trên blog cá nhân rồi, lại thêm số lượng nhiều hơn thế cho các stt ở trang FB này mấy năm nay... mình tránh hoàn toàn đề tài về ông Cụ, bởi nó là một chủ đề nhạy cảm, dễ bị nã đạn, ném đá từ cộng đồng...
Nhưng gần tuần nay câu chuyện định dựng tượng Cụ ở Sơn La ầm ỹ náo động quá mức khiến mình có khi phải tính nước vượt qua "ngoại lệ".
Sẽ viết, nhưng cũng chỉ thu gọn ít dòng. Nói dài vấn đề này, nếu không
làm chủ được ngòi bút, dễ đi vào các chi tiết lập luận dông dài, có thể
là vô bổ với nhiều người đọc hiện nay...
Nếu nói về cuộc đời thì phải nói rằng ông Cụ của chúng ta khi sống tác phong thế nào, trải bao chục năm trên đất nước này Dân ai chẳng biết. Cả những lúc còn hoạt động trên núi rừng heo hút cũng như khi đã làm chủ tịch nước trở về nơi phồn hoa đô hội..., thì ông Cụ vẫn nếp giản dị mà sống, công dân Việt chúng ta quá rõ ông Cụ sinh hoạt ra sao rồi. Đó là một phong thái sống ung dung, giản dị, ghét cay ghét đắng thói phô trương lãng phí. Về điểm này viết thêm nữa là dư thừa, sa vào ngợi ca trùng lặp..
.
Tuy vậy cũng nên nói thêm một chi tiết đặc biệt sau đây. Chuyện kể rằng ông Cụ rất sợ Dân tung hô sùng bái mình. Cái tiếng hô "muôn năm" mà người dân biểu lộ với cụ chủ tịch thì Ông cụ lại thích biến thành câu đùa, nói trại là Bác bây giờ (chỉ) "muốn nằm" thôi (vì đó là một chuyến đi bộ vượt rừng mệt quá chẳng hạn!).
Thơ viết về Ông cụ có nhiều người viết. Trong số đó chắc mọi người nhớ hai câu sau này:
Mong manh áo vải hồn muôn trượng,
Hơn tượng đồng phơi những lối mòn...
Hai câu thơ thôi nhưng nói lên hết cái chí khí vút cao lên của một nhân cách HCM, cũng là sự vượt lên bao cái tầm thường mà cứ tưởng dựng lên "tượng đồng bia đá" là thu lại được tất cả tiếng thơm thiên hạ. Đâu phải. Có khi là trái lại !
Áo vải (thì) hồn muôn trượng. Còn tượng đồng (có khi mãi mãi) chỉ là thứ vật chất phơi ra những lối mòn mà muôn đời sau có khi người ta vẫn chối bỏ, chả mất công ngắm nhìn đâu cũng nên ! Cái tầm của cụ Hồ là tầm nhìn xa, vượt qua thói thường mang danh hão tượng đồng bia đá...
Ai cũng biết hai câu thơ ca ngợi Ông cụ trích trên đây là của một nhà hoạt động chính trị cấp cao, làm tới chức ủy viên BCT, phó thủ tướng, lại có điều kiện rất gần với đời sống và hoạt động của Ông cụ, cũng là một nhà thơ lớn, đó là ông Tố Hữu.
Nếu nay chúng ta vẫn đồng tình với cách nhìn nhận đánh giá phẩm chất cao đẹp của HCM như thi sĩ Tố Hữu ca ngợi, vinh danh Người thì không lý gì chúng ta cứ ồn ào và thi thố nhau đúc dựng những bức tượng nó sẽ chả mấy ý nghĩa thực chất. Một Con Người lâu nay đã bước vào lịch sử dân tộc, là một trong một số huyền thoại đẹp nhất của Đất nước ta mà trong lòng nhân dân tự lựa chọn lưu giữ không nên đo bằng số lượng các pho tượng chúng ta bày đặt nên. Con người đó đâu cần chúng ta tạo dựng, xây đắp nhiều tượng thờ mà làm gì !
Sơn La hay bất cứ một địa phương nào khác còn/hoặc sắp có ý định như tỉnh Sơn La cũng chẳng nên thanh minh, cải chính dựng tượng "tiền to hay tiền bé" nữa, việc đó chẳng có ích gì. Chỉ nên tự nhắc nhở mình đã thấm lời nhắc nhở lúc sinh thời của ông Cụ hay chưa, hoặc là mình đã xứng với đạo đức và khí phách của ông Cụ "mong manh áo vải hồn muôn trượng" hay chưa mà thôi, phải không nào !?
Mà khi đã thấm, đã biết sống xứng đáng với Người xưa thì hãy biết chắt chiu, tiết kiệm tiền bạc và công sức của nhân dân đóng góp, tuyệt đối không được hoang toàng, lãng phí của công...
(Nguồn: https://www.facebook.com/vinh.nguyenvan.165)
Nếu nói về cuộc đời thì phải nói rằng ông Cụ của chúng ta khi sống tác phong thế nào, trải bao chục năm trên đất nước này Dân ai chẳng biết. Cả những lúc còn hoạt động trên núi rừng heo hút cũng như khi đã làm chủ tịch nước trở về nơi phồn hoa đô hội..., thì ông Cụ vẫn nếp giản dị mà sống, công dân Việt chúng ta quá rõ ông Cụ sinh hoạt ra sao rồi. Đó là một phong thái sống ung dung, giản dị, ghét cay ghét đắng thói phô trương lãng phí. Về điểm này viết thêm nữa là dư thừa, sa vào ngợi ca trùng lặp..
.
Tuy vậy cũng nên nói thêm một chi tiết đặc biệt sau đây. Chuyện kể rằng ông Cụ rất sợ Dân tung hô sùng bái mình. Cái tiếng hô "muôn năm" mà người dân biểu lộ với cụ chủ tịch thì Ông cụ lại thích biến thành câu đùa, nói trại là Bác bây giờ (chỉ) "muốn nằm" thôi (vì đó là một chuyến đi bộ vượt rừng mệt quá chẳng hạn!).
Thơ viết về Ông cụ có nhiều người viết. Trong số đó chắc mọi người nhớ hai câu sau này:
Mong manh áo vải hồn muôn trượng,
Hơn tượng đồng phơi những lối mòn...
Hai câu thơ thôi nhưng nói lên hết cái chí khí vút cao lên của một nhân cách HCM, cũng là sự vượt lên bao cái tầm thường mà cứ tưởng dựng lên "tượng đồng bia đá" là thu lại được tất cả tiếng thơm thiên hạ. Đâu phải. Có khi là trái lại !
Áo vải (thì) hồn muôn trượng. Còn tượng đồng (có khi mãi mãi) chỉ là thứ vật chất phơi ra những lối mòn mà muôn đời sau có khi người ta vẫn chối bỏ, chả mất công ngắm nhìn đâu cũng nên ! Cái tầm của cụ Hồ là tầm nhìn xa, vượt qua thói thường mang danh hão tượng đồng bia đá...
Ai cũng biết hai câu thơ ca ngợi Ông cụ trích trên đây là của một nhà hoạt động chính trị cấp cao, làm tới chức ủy viên BCT, phó thủ tướng, lại có điều kiện rất gần với đời sống và hoạt động của Ông cụ, cũng là một nhà thơ lớn, đó là ông Tố Hữu.
Nếu nay chúng ta vẫn đồng tình với cách nhìn nhận đánh giá phẩm chất cao đẹp của HCM như thi sĩ Tố Hữu ca ngợi, vinh danh Người thì không lý gì chúng ta cứ ồn ào và thi thố nhau đúc dựng những bức tượng nó sẽ chả mấy ý nghĩa thực chất. Một Con Người lâu nay đã bước vào lịch sử dân tộc, là một trong một số huyền thoại đẹp nhất của Đất nước ta mà trong lòng nhân dân tự lựa chọn lưu giữ không nên đo bằng số lượng các pho tượng chúng ta bày đặt nên. Con người đó đâu cần chúng ta tạo dựng, xây đắp nhiều tượng thờ mà làm gì !
Sơn La hay bất cứ một địa phương nào khác còn/hoặc sắp có ý định như tỉnh Sơn La cũng chẳng nên thanh minh, cải chính dựng tượng "tiền to hay tiền bé" nữa, việc đó chẳng có ích gì. Chỉ nên tự nhắc nhở mình đã thấm lời nhắc nhở lúc sinh thời của ông Cụ hay chưa, hoặc là mình đã xứng với đạo đức và khí phách của ông Cụ "mong manh áo vải hồn muôn trượng" hay chưa mà thôi, phải không nào !?
Mà khi đã thấm, đã biết sống xứng đáng với Người xưa thì hãy biết chắt chiu, tiết kiệm tiền bạc và công sức của nhân dân đóng góp, tuyệt đối không được hoang toàng, lãng phí của công...
(Nguồn: https://www.facebook.com/vinh.nguyenvan.165)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét