Thời cuộc trong bàn cờ Việt-Mỹ-Trung
Thời cuộc Việt Nam nhiều thập kỷ nay muốn hay không muốn
xoay quay cái trục “tam giác” Việt-Trung-Mỹ, trong đó 2 đại/siêu cường kia rõ
ràng không lúc nào “buông bỏ” cái anh bé nhỏ VN (!?). Vì sao vậy, thôi thì qua
quá trình lịch sử ngắn-dài mà nhìn lại, ai cũng thấy, chẳng cần trình bày thêm ra
đây làm gì. Nếu nói theo dân gian, theo Phật… thì đó cũng là một thứ Duyên Nợ,
vừa duyên vừa nợ. Muốn hay không muốn, thích hay không thích mặc lòng, mối quan
hệ, tác động lẫn nhau/vào nhau của 3 quốc gia nó cứ diễn ra, lúc thuận lúc nghịch
- mà nghịch xem ra nhiều hơn -, khiến việc xử lý nó với VN chúng ta là cả một
loạt vấn đề làm “đau đầu” các nhà chính trị chuyên nghiệp.
Tuy nhiên khi nhìn nhận thời cuộc đất nước - liên hệ tới mối
quan hệ tam giác nói trên - vào lúc này như thế nào với một đối tượng rộng rãi hơn lại tùy thuộc vào chỗ đứng
và suy nghĩ của mỗi người.
Với Nguyễn Quang Dy, anh có một cách trình bày, lập luận và
lý giải rất đáng để mọi người tham khảo.
Bài viết dưới đây Nguyễn Quang Dy đã chuyển cho trang Trần Hữu
Dũng (Việt-studies), nhưng sau khi đăng thì tác giả muốn sửa lại đôi ba chỗ. Và
tác giả mới gửi cho chủ blog tôi bản đã được chỉnh sửa này - mà theo anh “đây
là bản mới mà tôi đã cập nhật, hay hơn so với bản đăng trên Việt-studies".
Xin mời bà con trên mạng và bạn bè đọc tham khảo.
Vệ Nhi g-th
-----
Tam giác Mỹ-Trung-Việt đang chuyển đổi
Nguyễn Quang Dy
Nếu chuyến thăm Mỹ gần
đây của ông Tập Cận Bình làm nổi bật quan hệ Trung-Mỹ (đang xấu đi), thì kế
hoạch thăm Việt Nam sắp tới của ông Tập và ông Obama sẽ làm rõ hơn quan hệ
Trung-Việt (đang xấu đi) và quan hệ Mỹ-Việt (đang tốt lên). Dù tốt lên hay xấu
đi, thì chuyển động trong quan hệ tay ba này đang định hình lại bức tranh địa
chính trị tại Biển Đông, và tác động đến quá trình cởi mở chính trị tại Việt
Nam. Bởi vì sự trỗi dậy đầy thách thức của Trung Quốc đang đe dọa an ninh khu
vực Đông Á, nên Nhật Bản và các nước khác buộc phải chạy đua vũ trang và liên kết
chặt chẽ hơn với Mỹ, trong một trò chơi quyền lực đầy nguy hiểm.
Biển Đông không của
riêng ai
Trước chuyến thăm Mỹ của ông Tập Cận Bình, có một số diễn
biến đáng lưu ý. Trong khi thái độ của Washington
muốn hòa hoãn (để tránh đối đầu) thì thái độ của Bắc Kinh lại càng cứng rắn. Trung
Quốc không hề giảm nhịp độ xây dựng sân bay và hạ tầng quân sự trên các đảo
nhân tạo tại Biển Đông, bất chấp phản đối của Mỹ và các nước khác. Những hình
ảnh vệ tinh mà CSIS cung cấp kịp thời (trong khi ông Tập thăm Mỹ) đã chứng minh
rõ.
Trước đó Bắc kinh còn cho 5 tàu chiến đến ngoài khơi Alaska (nơi tổng thống
Obama đang đến thăm) để thách thức và thử gân ông Obama. Máy bay chiến đấu của
Trung Quốc đã bay ngang chặn đường máy bay trinh sát của Mỹ trên không phận biển
Hoa Đông. Cả hai lần Nhà Trắng đã lờ đi không muốn làm to chuyện. Cho đến gần
đây, Nhà Trắng vẫn chưa cho Bộ Quốc Phòng điều tàu chiến đến tuần tiễu (để
khẳng định quyền tự do hàng hải) trong phạm vi 12 hải lý xung quanh các đảo
nhân tạo mà Trung Quốc đang xây hạ tầng quân sự, vì ông Obama không muốn gây ra
sự cố nào trước chuyến thăm của ông Tập Cận Bình.
Nhưng thái độ hòa hoãn của Washington có thể phản tác dụng. Thứ nhất,
nó có thể làm cho đồng minh và bạn bè hoang mang, mất lòng tin vào Mỹ. Lãnh đạo
Hà Nội đã bị ám ảnh bởi mối lo Trung Quốc và Mỹ có thể “đi đêm” thỏa thuận ngầm
với nhau sau lưng Việt Nam. (Điều này đã từng xảy ra trong quá khứ). Thứ hai, nó
có thể làm cho Bắc Kinh ngộ nhận rằng ông Obama mềm yếu không dám hành động (vì
sắp hết nhiệm kỳ), nên Bắc Kinh càng tranh thủ cơ hội để lấn sân và biến những
gì còn đang tranh chấp thành chuyện đã rồi.
Vì vậy, tại buổi họp báo chung ở Nhà Trắng (25/9/2015) trước
mặt tổng thống Obama và giới truyền thông quốc tế, ông Tập không ngần ngại lên
tiếng khẳng định“Các quần đảo ở Nam Hải từ thời cổ đại là lãnh thổ của Trung Hoa”.
Thái độ ngang ngược bất chấp luật pháp này tự mâu thuẫn với bài diễn văn ông
Tập đọc tại LHQ ngay sau đó, với những lời lẽ hoa mỹ, “Những nước lớn, mạnh, giàu không nên hiếp đáp các nước nhỏ, nghèo và
yếu”.
Bà Clinton nói
không oan rằng ông Tập “đạo đức giả” và “không biết xấu hổ” (shameless) khi đề
cập đến vấn đề nữ quyền. Về vấn đề Biển Đông cũng như vậy. Thái độ hai mặt (nói
một đằng làm một nẻo) là một “đặc sản Trung Hoa” (Chinese exceptionalism).
Trong quan hệ với
Việt Nam,
Trung Quốc luôn ngạo mạn và bắt nạt (như thiên triều đối với chư hầu). Ví dụ, gần
đây Bắc Kinh ngầm dọa Hà Nội là nếu không thôi chỉ trích Trung Quốc xây đảo nhân
tạo tại Biển Đông, thì ông Tập Cận Bình có thể bỏ chuyến đi thăm Việt Nam vào
tháng này (mặc dù họ biết nếu bỏ sẽ bất lợi cho TQ). Họ còn nói nhỏ với lãnh
đạo Việt Nam
là họ không muốn ngoại trưởng Phạm Bình Minh được vào Bộ Chính Trị.
Chính thái độ và
cách hành xử đó của Trung Quốc đang xô đẩy Việt Nam càng gần hơn với Mỹ. Dường như Trung Quốc vẫn chưa học được bài
học Miến Điện. Có thể nói quá trình “Miến Điện hóa” (Myanmarization) đang diễn
ra trong quan hệ Trung-Việt. Trên thực tế, quá trình “Thoát Trung” đã được đẩy
mạnh kể từ khi Trung Quốc đem dàn khoan HD-981 vào Biển Đông, gây sốc và làm vỡ
mộng cả những người thân Trung Quốc trong lãnh đạo Hà Nội. Đó là một bước ngoặt
lớn, với một “hệ quả không định trước” (unintended consequence)
Thoát Trung như thế nào
Muốn “Thoát Trung”
thì trước hết phải thoát ra khỏi “cái bẫy ý thức hệ” (ideological trap) đã trói
buộc số phận Việt Nam
với Trung Quốc mấy thập kỷ nay (đặc biệt là sau Thỏa thuận hành Đô, 1990); phải
thoát ra khỏi “cái bẫy lệ thuộc kinh tế” (economic dependency trap). Muốn thoát
về kinh tế thì tự mình phải mạnh lên bằng cách thay đổi thể chế, và liên kết kinh
tế với Mỹ-Nhật, thông qua sân chơi TPP (đã thỏa thuận) và Tầm nhìn Đông Á (chưa
thể chế hóa).
Nếu Việt Nam tiếp
tục đi với Trung Quốc thì phải lệ thuộc và nghe theo Trung Quốc, không được chơi
với Mỹ và Phương Tây (họ dùng chiêu bài “diễn biến hòa bình” để dọa); không
được dân chủ hóa mà phải duy trì chế độ độc tài, độc đảng (giống như Trung
Quốc); và không được dùng ASEAN làm đối trọng với Trung Quốc tại Biển Đông…
Nếu đi với Mỹ thì
Việt Nam vẫn có thể chơi với Trung Quốc (nhưng bình đẳng và độc lập hơn); Việt
Nam không cần phải thay đổi chế độ (nhưng phải dân chủ hóa); Việt Nam sẽ có vai
trò và lợi ích lớn hơn trong ASEAN và Đông Á (với sân chơi mới TPP). Đi với Mỹ
không có nghĩa là để chống Trung Quốc, mà chỉ để “Tái cân bằng” một quan hệ
“mất cân bằng”.
Muốn hay không, quá trình này đang diễn ra rồi. Hà Nội không có nhiều sự lựa chọn. Cánh cửa cơ hội có thể mở ra, có thể khép lại. Thời cơ và thời điểm là rất hệ trọng. Hà Nội đã từng đánh mất những thời cơ vàng vào những thời điểm hệ trọng đối với vận mệnh quốc gia. Từ nay đến cuối năm 2015 là một thời cơ và thời điểm như vậy. Liệu lịch sử có lặp lại hay không, và Việt Nam có đánh mất cơ hội một lần nữa hay không?
Tại
lề Đại Hội đồng LHQ ở New York (28/9/2015) chủ tịch Trương Tấn Sang đã lên
tiếng đáp lại tuyên bố ngang ngược của ông Tập Cận Bình, khẳng định
hành động xây đảo nhân tạo của Trung Quốc ở Biển Đông là vi phạm luật pháp quốc
tế và ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh và an toàn hàng hải. Đây là một dấu
hiệu chuyển biến tích cực mới của lãnh đạo Hà Nội, ngay sau khi ông Obama gặp
ông Tập Cận Bình (25/9/2015). Có lẽ lãnh đạo Hà Nội đã thở phào vì thấy Mỹ đã
không “đi đêm” với Trung Quốc (như Hà Nội vẫn lo sợ).
Tiếp theo chuyến thăm Mỹ chính thức của chủ tịch Trương Tấn
Sang (24-26/7/2013) và của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng (6-10/7/2015), có lẽ
chuyến thăm Mỹ lần này của ông Tập Cận Bình đã góp phần thúc đẩy Mỹ và Việt Nam
xích lại gần nhau hơn. Điều đáng nói là không phải chỉ có phái cải cách, mà cả
phái bảo thủ cũng đang chuyển thái độ. Trong bối cảnh hiện nay, hãy ủng hộ xu
hướng nào đỡ xấu hơn cho đất nước. Đây là lúc các bên nên dẹp bớt ân oán để hợp
tác, từng bước thay đổi thực trạng, đặt lợi ích dân tộc lên trên lợi ích cá
nhân và phe nhóm, trước nguy cơ mất hết chủ quyền biển đảo và Bắc thuộc.
Hình như lãnh đạo Hà Nội đã tự tin hơn, quyết định họp Hội
nghị Trung Ương 12 sớm hơn dự kiến, để bàn về nhân sự cho Đại hội (mà không chờ
ông Tập Cận Bình sang thăm). Tuy quyết định cuối cùng về 4 vị trí cao nhất (còn
gọi là “Tứ Trụ”) vẫn chưa ngã ngũ, phải chờ đến Hội nghị Trung Ương chót (phút
89), nhưng dù dàn xếp thế nào thì xu hướng đã khá rõ. So sánh thực lực sẽ thấy
dù có phải thỏa hiệp, thủ tướng sẽ thâu tóm thực quyền. Tuy còn nhiều đồn đại,
hỏa mù, hay bất ngờ vào phút chót, nhưng xu hướng này khó lòng đảo ngược.
Một dấu hiệu mới là chỉ vài ngày sau khi kết thúc cuộc gặp Tập
Cận Bình và Obama, báo chí nhà nước đã đưa tin Tòa án nhân dân Hà Nội công khai
xét xử vụ một nhà báo bị truy tố về tội danh “làm gián điệp” (có liên quan đến cơ
quan tình báo Trung Quốc). Tuy còn những dấu hiệu khác, nhưng đó là một dấu
hiệu rõ ràng nhất (mà trước đây không thể có).
Đồng sàng dị mộng
Trên thực tế, chuyến thăm Mỹ của ông Tập Cận Bình có ba mục
tiêu chính, mục tiêu nào cũng quan trọng, nhưng kết quả có thể khác nhau. Thứ
nhất là đến Seattle
nơi ông Tập gặp 15 CEO của các công ty công nghệ hàng đầu của Mỹ (Business
Summit). Thứ hai là đến Washington
DC nơi ông Tập gặp tổng thống
Obama (Political Summit). Thứ ba là đến New
York nơi ông Tập phát biểu tại Đại Hội đồng LHQ (UN
Summit).
Đáng lưu ý là chương trình tại Seattle do Paulson Institute bố trí. Ông Hank
Paulson là cựu chủ tịch Golman Sach trước khi làm bộ trưởng tài chính (thời
chính quyền Bush). Ông Paulson và các đồng nghiệp phố Wall đã từng giúp Trung
Quốc cải tổ hệ thống ngân hàng (như mua 10% Bank of China và giúp niêm yết trên
sàn chứng khoán HK). Có thể nói Trung Quốc trở thành cường quốc kinh tế lớn thứ
hai thế giới là nhờ một phần vào sự hợp tác và tiếp tay của giới kinh doanh Mỹ.
Nay muốn tháo gỡ khó khăn kinh tế, hai bên tiếp tục phụ thuộc lẫn nhau (dù muốn
hay không) như một “cái bẫy” kinh tế (co-dependancy trap).
Hợp tác Trung-Mỹ là một đám cưới do tiện lợi (marriage of
convenience) chứ không phải do tình yêu (vì hai chế độ rất khác biệt), vì vậy
nó không thể lâu bền. Người Mỹ hy vọng cứ làm ăn với nhau (theo lộ trình “constructive
engagement”) rồi người Trung Quốc sẽ dần thay đổi (như kinh nghiệm với người
Nhật). Nhưng đến nay người Mỹ bắt đầu thất vọng, vì không hiểu được người Trung
Quốc (lại càng không hiểu được ông Tập Cận Bình là ai).
Chính người Mỹ đã hợp tác đắc lực giúp ông Tập Cận Bình đối
phó với các đối thủ chính trị như Bạc Hy Lai và Chu Vĩnh Khang (được Giang
Trạch Dân hậu thuẫn), qua vụ Vương Lập Quân chạy vào lãnh sự quán Mỹ tại Thành
Đô (7/2/2012), đem theo nhiều bí mật quốc gia. Người Mỹ đã cộng tác với ông Tập
không phải chỉ về kinh tế, mà cả an ninh chính trị (trao hết bí mật đó cho ông
Tập). Ông Tập không thể thoát hiểm để mạnh tay “đả hổ diệt ruồi” nếu không có
người Mỹ hỗ trợ. Thế mà hai bên vẫn không hiểu nhau thì đúng là “đồng sàng dị
mộng”.
Người ta ví ông Obama và ông Tập Cận Bình đối thoại với nhau
như hai người máy được vận hành bởi hai hệ điều hành khác hẳn nhau. Đến bây giờ
người Mỹ mới nhận ra điều này có lẽ là quá muộn và hơi ngây thơ. Ngay từ năm
1995, ông Nixon trước khi qua đời đã thừa nhận một sự thật trần trụi, “Có lẽ
chúng ta đã tạo ra một con quái vật Frankenstein”.
Xu hướng đang diễn ra ở cả Mỹ và Trung Quốc là người ta chỉ chú ý đến những yếu tố tiêu cực chứ không còn quan tâm đến những yếu tố tích cực trong quan hệ hai nước. Đà suy thoái trong quan hệ đối tác giữa hai nước lớn này rất đáng lo ngại, nhưng những bế tắc không được tháo gỡ trong dịp gặp cấp cao vừa qua. Trong chính quyền cũng như trong quốc hội, người ta đang tìm lý do để trả đũa Trung Quốc, trong vấn đề thâm hụt cán cân thương mại (mỗi ngày một tỷ USD) cũng như vấn đề tấn công mạng (cyber hacking).
Không biết ông Kissinger có tính trước được hệ quả này hay
không, nhưng cái bóng dài của ông ta vẫn còn phủ lên chính sách Trung Quốc của
Mỹ. Mỗi khi đề cập đến Trung Quốc, không thể thiếu được ông Kissinger (như là
“bố già”). Điều này được minh họa bằng tấm hình chụp ngoại trưởng John Kerry
phát biểu trong bữa tiệc chiêu đãi ông Tập Cận Bình, trong đó “bố già”
Kissinger ngồi hàng ghế đầu như một cây đại thụ.
Mỹ-Trung, Trung-Mỹ, chính hai ông lớn này đang ở hồi "gay gắt" nhất trong phân chia ảnh hưởng cả vùng biển Đông Nam Á (Biển Đông) và vùng biển Hoa Đông. (Hải quân Trung Quốc, ảnh trên; và ảnh dưới Hải quân Hoa Kỳ).
Kết quả của “business summit” tại Seattle phản ánh hai sự thật khác nhau về
quan hệ Trung-Mỹ. Một là, hai bên vẫn cần nhau (vì cái bẫy kinh tế). Hai là,
hai bên không thể nói chuyện được với nhau (vì hai hệ điều hành khác hẳn nhau).
Hai bên đã có một cơ hội tuyệt vời để đối thoại một cách cởi mở và xây dựng (do
sự dàn xếp khéo léo của ông Hank Paulson). Nhưng ông Tập đã không tận dụng được
cơ hội này. Trong khi 15 CEO Mỹ (đại diện cho $2.5 trillion tài sản) đến dự và tưởng
sẽ được đối thoại cởi mở, thì ông Tập chỉ bắt tay, chụp ảnh kỷ niệm, đọc một
bài diễn văn 10 phút, rồi…phắn! Chắc ông Hank Paulson rất buồn.
Cuộc gặp “thượng đỉnh” giữa tổng thống Barack Obama và chủ
tịch Tập Cận Bình (đại diện hai cường quốc mạnh nhất hành tinh) mà hai bên
trông đợi và chuẩn bị rất công phu, cũng không giải quyết được bế tắc nào. Nó
giống như một màn kịch được dàn dựng công phu nhưng kết thúc bằng “anti-climax”
(không bên nào “lên đỉnh”).
Tại LHQ, ông Tập Cận Bình đã diễn xuất một cách khá ấn tượng
bằng những lời hoa mỹ trong một bài diễn văn rất mỵ dân, và bằng một kiểu ngoại
giao “ký séc” (checkbook diplomacy) mà trước đây người Nhật đã nổi tiếng. Ông
Tập đã cam kết đóng góp 1 tỷ USD cho quỹ phát triển TQ-LHQ (China-US
Development Fund), 100 triệu USD cho African Union để ứng phó với các trường
hợp khẩn cấp, và 8000 quân cho lực lượng gìn giữ hòa bình LHQ…
Chính sách ngoại giao dùng tiền để mua chuộc lòng người và
xây dựng uy tín quốc tế vẫn còn tác dụng trong một thế giới đang khủng hoảng
kinh tế. Nhưng về lâu dài, dùng tiền và sức mạnh để mua chuộc lòng người (charm
offensive) không hiệu quả. Hiện nay, Trung Quốc có rất nhiều tiền và sức mạnh
cứng, nhưng lại thiếu sức mạnh mềm. Tại sao 64% người Trung Quốc có tài sản
trên 1,6 triệu USD đã hoặc đang định di cư khỏi Trung Quốc? (Elizabeth
Economy). Xu hướng này là “gót chân Asin” của Trung Quốc.
Khi mặt trời mọc lại
Có hai sự kiện sẽ đi vào lịch sử như bước ngoặt làm thay đổi
cục diện địa chính trị tại khu vực Đông Bắc Á và Đông Nam Á. Thứ nhất là Trung
Quốc biến tranh chấp quần đảo Điếu Ngư (Senkaku islands) thành khủng hoảng quan
hệ Trung-Nhật, áp đặt “khu vực nhận diện phòng không” (ADIZ) tại biển Hoa Đông (23/11/2013).
Thứ hai là Trung Quốc đặt dàn khoan HD-981 tại vùng lãnh hải của Việt Nam tại
Biển Đông (1/5/2014), xây đảo nhân tạo và hạ tầng quân sự, gây ra khủng hoảng quan hệ Trung-Việt và xung
đột lợi ích Trung-Mỹ.
Hệ quả của các hành động vũ đoán này của Trung Quốc dường
như không thể tính trước được (unintended consequence). Có lẽ Trung Quốc không hề
muốn thúc đẩy Nhật Bản sửa đổi hiến pháp (điều 9) để tái vũ trang, và cũng
không định xô đẩy Việt Nam trở thành đồng minh của Mỹ. Trước đây, nhắc đến Nhật
Bản tái vũ trang và quân sự hóa là một điều cấm kỵ, không những đối với các
nước láng giềng, mà còn đối với cử tri Nhật. Không một chính khách Nhật nào dám
cả gan và dại dột như vậy, vì điều đó đồng nghĩa với tự sát chính trị.
Nhưng nay chính điều đó đang diễn ra, biến điều không thể
thành có thể, biến điều cấm kỵ thành chính đáng và được hoan nghênh. Tuy còn
nhiều người phản đối, nhưng thủ tướng Abe sẽ đi vào lịch sử là thủ tướng đầu
tiên của Nhật từ sau Đại chiến II đã làm được một điều phi thường là sửa đổi (điều
9) Hiến pháp để mở đường cho Nhật trở thành cường quốc quân sự ở Đông Á. Tuy
đây là một ác mộng đối với Trung Quốc, nhưng chính sự đe dọa của Trung Quốc mới
làm được điều này. Có lẽ người Nhật phải cám ơn người Trung Quốc đã tháo xích
cho nước Nhật.
Nhưng có một lý do nữa đã thúc đẩy người Nhật ủng hộ ông Abe
trong quá trình sửa đổi hiến pháp, đó chính là “tiếng kèn ngập ngừng” của người
Mỹ. Mặc dù chính quyền Obama nhận thức được sự trỗi dậy đầy thách thức của
Trung Quốc đang đe dọa lợi ích của Mỹ và đồng minh ở Đông Á, và đang triển khai
chính sách “xoay trục sang Châu Á” để cân bằng chiến lược và ngăn chặn Trung
Quốc, nhưng hành động của Mỹ lại ngập ngừng, thiếu nhất quán, làm đồng minh lo
ngại. Đã đến lúc người Nhật phải tự lo cho mình và khu vực.
Trong khi một số nước trong khu vực sợ cái gậy (hay cần củ
cà rốt) của Trung Quốc, nên phải có thái độ hai mặt, thì một số nước khác đẩy
mạnh tái vũ trang và thúc đẩy quan hệ đối tác chiến lược với Mỹ để làm đối
trọng với Trung Quốc. Vì ASEAN yếu và chia rẽ trước sự thao túng của Trung
Quốc, nên cần một cơ chế an ninh tập thể mới ở Đông Á, trong đó Nhật Bản là
nước có vai trò đầu tàu. Nói cách khác, vì Trung Quốc thì đe dọa và Mỹ thì ngập
ngừng, làm Nhật lo ngại và bức xúc, nên mặt trời Nhật đang mọc lại ở Đông Á.
Trong bối cảnh đó, tam giác Mỹ-Trung-Việt càng trở nên quan
trọng, không những ở Biển Đông mà còn ở cả khu vực Đông Á. Muốn Tam giác
Mỹ-Trung-Việt chuyển đổi theo hướng tích cực (Mỹ-Việt gần nhau hơn) để duy trì
an ninh khu vực, thì cần sự hỗ trợ của một cơ chế an ninh tập thể mới ở Đông Á
hiệu quả hơn ASEAN. Cơ chế này có thể bao gồm 5 nước thành viên nòng cốt
(Japan, Korea, Vietnam, the Philippines, Indonesia) và 3 đối tác chiến lược (America,
Australia, India) để hình thành một cơ chế mở: “5+3 security partnerships”.
Hãy cùng xoay trục
Đã đến lúc Việt Nam phải xem xét lại chính sách ngoại giao “3 không”, vì không thể làm vừa lòng tất cả các bên (nhất là Trung Quốc). Một trong những vấn đề nổi cộm là vai trò của quân cảng Cam Ranh. Đối với Philippines, thì quân cảng Subic trở thành một điểm tựa quan trọng trong chiến lược xoay trục sang châu Á và tái cân bằng lợi ích an ninh của Mỹ. Đối với Việt nam, thì quân cảng Cam Ranh cũng có ý nghĩa tương tự như vậy.
Một điều kiện tiên quyết để trở thành đối tác chiến lược với Mỹ và tham gia sân chơi TPP là cải thiện hồ sơ nhân quyền. Đây vừa là thỏa hiệp trước mắt theo “luật chơi” (the rule of engagement) vừa là mục tiêu phát triển lâu dài của một quốc gia tiến bộ. Nếu trì hoãn việc cải thiện vấn đề nhân quyền và pháp quyền (the rule of law) Việt Nam có thể tự cản trở quá trình hợp tác chiến lược với Mỹ và dẫn đến hậu quả đáng tiếc nếu xung đột Trung-Việt xảy ra ngoài ý muốn. Các chuyên gia quân sự cảnh báo “giai đoạn cuối 2016 và đầu 2017 là thời cơ tốt nhất để Trung Quốc chiếm toàn bộ phần còn lại của Trường Sa” (Joshure Kurlantzick).
Trong cuộc họp báo
chung với ông Tập Cận bình tại Nhà Trắng (25/9/2015) tổng thống Obama đã
bày tỏ “lo ngại lớn về việc lấn biển, xây dựng và quân sự hóa khu vực tranh
chấp” và nhấn mạnh là Hoa Kỳ sẽ “tiếp tục dùng tàu thủy và máy bay đi qua và
hoạt động ở bất cứ nơi nào mà công pháp quốc tế cho phép.” Nhưng nếu ông Obama
không biến tuyên bố thành hành động, thì sẽ mất uy tín với đồng minh, và bị
lãnh đạo Trung Quốc qua mặt.
Theo Foreign Policy (2/10/2015) Bộ
Quốc phòng Mỹ đã thúc giục Nhà Trắng bật đèn xanh cho chiến dịch “tuần tra vì
quyền tự do lưu thông trên biển”, nhưng chưa được chấp thuận. Một lý do khiến ông
Obama dè dặt là không muốn gây căng thẳng trước chuyến thăm của ông Tập, trong khi
hai nước đang có bất đồng nghiêm trọng. Nhưng sau chuyến thăm của ông Tập,
chính quyền Obama tỏ ra thất vọng và đang xúc tiến các biện pháp cứng rắn hơn
đối với Trung Quốc.
Theo ABC Australia (6/10/2015), Đô đốc Scott Swift (Tư lệnh
Hạm đội Thái Bình Dương) đã khẳng định tại Sydney (Pacific 2015 Expo), “hơn bao
giờ hết, Hoa Kỳ kiên quyết duy trì cam kết sẽ bảo vệ quyền tự do hàng hải” và
“Tự do hàng hải phải được duy trì bất chấp những tranh chấp chủ quyền biển đảo,
bất chấp những vụ tranh chấp này kéo dài bao lâu và bất chấp các đảo này là do
thiên nhiên tạo ra hay bàn tay con người tạo ra.”
Theo Financial Times (8/10/2015) Mỹ sắp cho tàu chiến đến
gần các hòn đảo nhân tạo của Trung quốc ở Biển Đông. Một quan chức Mỹ nói rằng
các tàu chiến này sẽ đi vào bên trong khu vực 12 hải lý mà Trung Quốc nói là
lãnh hải của họ quanh những hòn đảo nhân tạo mà họ đã xây dựng ở Quần đảo
Trường Sa, và việc này sẽ bắt đầu trong vòng hai tuần nữa…
Căn cứ vào Công ước LHQ về Luật Biển, thì 4 bãi ngầm Ga Ven (Gaven), Tư Nghĩa (Hughes), Vành Khăn (Mischief), Xu Bi (Subi) trước lúc tôn tạo, thuộc diện “bãi cạn lúc chìm lúc nổi” (Low-tide elevations), nên chỉ được quyền có hải phận 50 mét bao quanh. Ba bãi còn lại là Đá Châu Viên (Cuarteron), Chữ Thập (Fiery Cross) và Gạc Ma (Johnson) được coi là “đảo đá” (rocks), có lãnh hải 12 hải lý, nhưng không có vùng đặc quyền kinh tế.
Theo báo Diplomat (4/10/2015), có thể Mỹ sẽ chọn phương án cho
tàu chiến tiến sâu vào bên trong vùng 12 hải lý quanh các thực thể như Xu Bi và
Vành Khăn (là bãi cạn lúc chìm lúc nổi trước lúc được bồi đắp), nên chỉ được phép
tối đa có 50 mét bao quanh. Hãy chờ xem Mỹ triển khai “xoay trục” tại Biển Đông
như thế nào để đối phó với Trung Quốc (trước khi quá muộn), và xem Trung Quốc
sẽ phản ứng ra sao (như một phép thử).
Không biết diễn biến trên Biển Đông có ảnh hưởng đến kế hoạch
thăm Việt Nam
vào cuối năm nay của ông Tập Cận Bình và ông Barack Obama hay không. Dù kế
hoạch thăm Việt Nam của họ
có thay đổi vì lý do gì đi nữa, thì cũng không làm thay đổi đáng kể xu hướng
đang diễn ra trong tam giác Mỹ-Trung-Việt, cũng như trong bức tranh chính trị
Việt Nam.
Bởi vì thỏa thuận TPP đang làm thay đổi cuộc chơi (a game changer), tình hình sẽ
sáng sủa hơn (nếu Mỹ và Việt Nam
cùng xoay trục). Theo quy luật, cái gì đã xấu hết mức rồi sẽ phải tốt dần lên.
NQD. 16/10/2015
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét