Các nhà lãnh đạo bàn về xã hội dân sự
Bài viết từ giữa năm 2014, nhưng ý nghĩa của vấn đề đặt ra vấn có giá trị thời sự.
Bài vừa nhận được từ một nhóm chuyên gia gửi cho đọc, thấy được ý nghĩa và giá trị thời sự của vấn đề nêu ra, lại của các vị lãnh đạo viết và nghiên cứu, vậy xin đưa lại ở đây để bạn bè blog và mọi người đọc, tham khảo.
Vệ Nhi g-th
Bản chất của xã hội dân sự là đối thoại, hoà giải
LTS:
Mới đây, tại diễn đàn Kinh tế mùa xuân do uỷ ban Kinh tế của Quốc hội
tổ chức, ông Trương Ðình Tuyển, nguyên bộ trưởng bộ Thương mại, cho rằng
“đã đến lúc thừa nhận xã hội dân sự”. Ông Tuyển đưa ra nhận định “thể
chế kinh tế thị trường hiện đại phải bao gồm thị trường, nhà nước và xã
hội dân sự” trong bối cảnh các diễn giả đang bàn thảo về cải cách thể
chế, mở đường tiếp tục phát triển.
Phóng viên
Người Ðô Thị trò chuyện với PGS.TS Ðặng Ngọc Dinh, giám đốc trung tâm
Nghiên cứu hỗ trợ cộng đồng (CECODES) thuộc liên hiệp các hội Khoa học
và kỹ thuật Việt Nam (VUSTA), nhằm tìm hiểu rõ hơn tính chất và vai trò
của xã hội dân sự (XHDS) trong bối cảnh hiện nay.
Năm 2006, trong một lần trả lời
phỏng vấn báo Tuổi Trẻ, ông nói “Ðừng sợ xã hội dân sự”. Tám năm qua,
xã hội dân sự của chúng ta đã phát triển hay thụt lùi và tác động của nó
đối với sự phát triển chung hiện ra sao, thưa ông?
Trước hết, ta cần nhắc lại một vài khái
niệm: XHDS là các tổ chức xã hội nằm ở khu vực ngoài nhà nước, ngoài gia
đình và ngoài doanh nghiệp, ở đó người dân tự nguyện kết nối với nhau
vì những quyền lợi chung. Một thành phần quan trọng của XHDS là các hội,
hiệp hội, các tổ chức tự nguyện trong dân chúng, từ làng xóm đến đô
thị, mang tính chất liên kết cộng đồng.
Một xã hội muốn phát triển bền vững, cần
được vận hành theo một thể chế dựa trên “chiếc kiềng” ba chân: nhà
nước, thị trường và XHDS. Nhà nước vận hành theo luật pháp; thị trường
theo lợi nhuận; còn XHDS vận hành theo sự liên kết tự nguyện và dựa trên
đạo lý, nhân văn.
Ở Việt Nam đã và đang tồn tại
XHDS, mà điển hình là các hội nghề nghiệp, các tổ chức phi chính phủ
(NGO), các tổ chức dựa trên cộng đồng (CBOs). Tuy nhiên, có câu hỏi
thường đặt ra là: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức quần chúng
(hội Nông dân, Công đoàn, Thanh niên, Phụ nữ, Cựu chiến binh…) ở Việt
Nam có thuộc XHDS không?
Theo định nghĩa trên đây thì câu trả lời
có thể là các tổ chức này có tính chất đặc biệt: vừa mang tính XHDS
(tính xã hội: liên kết người dân, phản ánh nguyện vọng người dân), vừa
mang tính chính trị (đặt nặng chức năng “vận động” người dân thực thi
các chính sách của nhà nước).
Với cách hiểu như trên, XHDS ở Việt Nam
đã có những bước phát triển trong nghiên cứu cũng như trong hoạt động
thực tiễn và có tác động tích cực đến sự phát triển của xã hội. Ngoài
những hoạt động thường xuyên và tích cực của các tổ chức NGO, đặc biệt
là các NGO thuộc liên hiệp các hội Khoa học và kỹ thuật Việt Nam
(VUSTA), một vài dự án phát triển như “Thúc đẩy sự tương tác hiệu quả
giữa Quốc hội và tổ chức xã hội” nhằm góp phần cải thiện chất lượng và
hiệu quả của các cơ chế tương tác giữa tổ chức xã hội và Quốc hội, hoặc
dự án “Con đường tham gia” (2011) nhằm nâng cao năng lực và vị trí của
XHDS trong cung cấp các dịch vụ chống căn bệnh HIV tại cộng đồng…
Tuy nhiên, có một hiện trạng là trong
những năm gần đây, nếu hoạt động của XHDS ở nước ta có phong phú, tích
cực hơn, thì ở khía cạnh “thể chế” lại chưa đạt được những tiến bộ tương
ứng. Luật về hội (một thành phần cơ bản của XHDS) vẫn chưa được ban
hành.
Khi ông đặt vấn đề “đừng sợ”,
nghĩa là đã có những lo sợ, mà sự phát triển của xã hội dân sự thì có
tính quy luật. Vì sao chúng ta lại sợ một “quy luật”? Làm thế nào để hoá
giải nỗi sợ này?
Đến nay, ở Việt Nam, trên các văn bản
chính thống (của các cơ quan nhà nước và truyền thông quốc gia) XHDS
hình như vẫn là vấn đề “nhạy cảm”, chưa được bàn luận một cách cởi mở.
Đó là do còn nghi ngại về vai trò và mối quan hệ giữa XHDS và nhà nước.
XHDS có thể hoạt động với vai trò thể hiện trong một “dãy” các vị trí từ
(1) đến (6) (theo nhà nghiên cứu Hannah 2003).
Trong đó: (1) là vị trí mà XHDS gần như
là một tổ chức nhà nước, vận động người dân thực thi các chính sách của
nhà nước” (vì vậy ở vị trí này XHDS được gọi là “cánh tay nối dài” hoặc
“cái bóng” của nhà nước); (2) Vận động chính sách: XHDS hoạt động để
chính sách được hoàn thiện và thực thi hiệu quả; (3) Vận động “hành
lang” (lobby), XHDS cố gắng hoạt động nhằm thay đổi chính sách theo
chiều hướng có lợi cho người dân; (4) Giám sát, ở vị trí này XHDS tiến
hành những hoạt động giám sát việc thực thi chính sách, phản biện chính
sách, chống tham nhũng trong xã hội.
Đây là vị trí thể hiện vai trò XHDS một
cách tích cực nhất, tác động hiệu quả nhất của XHDS đến xã hội. Tiếp
theo (5) và (6) là hai vị trí mà nhà nước coi là XHDS mang tính tiêu
cực, và không khuyến khích, trong đó (5): vai trò của XHDS trong chức
năng đối lập (ngôn luận trái chiều, những chỉ trích của công chúng về
chính sách); và (6): vai trò của XHDS thể hiện trong việc vận động công
chúng kháng cự lại chế độ (bất tuân chính quyền).
Người dân không bao giờ muốn “chỉ
trích”, “bất tuân chính quyền” vì bản chất của xã hội dân sự là đối
thoại, hoà giải, mang tính nhân văn, đạo đức. Qua dãy các vị trí của
XHDS và mối quan hệ với nhà nước nêu trên đây, hoàn toàn hiểu được tại
sao chính quyền chưa vượt qua được “nỗi sợ” XHDS, lo rằng XHDS chỉ là
hoạt động ở vị trí (5) và (6)! Tuy nhiên, nên thấy rằng, người dân không
bao giờ muốn “chỉ trích”, “bất tuân chính quyền” vì bản chất của XHDS
là đối thoại, hoá giải, mang tính nhân văn, đạo đức.
Dù có “thừa nhận” hay không thì
XHDS vẫn đang tồn tại dưới dạng này hay dạng khác. Có lẽ vấn đề “thừa
nhận” mà ông Tuyển đặt ra liên quan đến khuôn khổ pháp luật, làm nhiều
người nghĩ đến dự án luật về hội dang dở mười mấy năm qua hay nhu cầu
bức thiết về một luật biểu tình chưa được đáp ứng. Theo ông, vấn đề
“thừa nhận” nên được hiểu và hành động như thế nào? Tác động đối với xã
hội nói chung và với bản thân XHDS nói riêng nếu chúng ta thừa nhận hay
không thừa nhận?
Tất nhiên, sự “thừa nhận” tốt nhất, tối
ưu là thông qua thể chế (ban hành luật về hội), khi đó sẽ rất thuận lợi
và “song phẳng” cho hoạt động của XHDS; trong đó, nhà nước quy định pháp
luật rõ ràng để XHDS tuân thủ; XHDS giám sát để nhà nước không bị mua
chuộc bởi thị trường, và khuyến khích thị trường mang tính xã hội, nhân
bản.
Một khi hoạt động của XHDS được thể chế
hoá, nhà nước và xã hội sẽ khai thác được những mặt tích cực của XHDS
(vị trí 1, 2, 3, 4 đã trình bày) và khắc phục, hạn chế hoặc loại bỏ
những mặt tiêu cực của XHDS (vị trí 5 và 6).
Để thúc đẩy quá trình “thừa nhận” XHDS
bằng thể chế, những hoạt động từ nghiên cứu, đào tạo đến thực tiễn cần
xúc tiến nhiều hơn, nhằm phân tích những măt tích cực/tiêu cực của XHDS
(đặc biệt những mặt tích cực trong bối cảnh Việt Nam, một quốc gia có
truyền thống liên kết, hỗ trợ, “đùm bọc” trong người dân, từ làng quê
đến đô thị); tiến hành nhiều hơn những hoạt động của XHDS theo các vị
trí (1) đến (4), từ góp phần xoá nghèo, hoàn thiện chính sách, đến giám
sát, phản biện xã hội.
Lê Vy thực hiện
------
Xã hội công dân là tất yếu
… Trên cơ sở đó, chúng tôi đề xuất những khuyến nghị sau:
“Thứ nhất là, cần phải thiết lập
đồng bộ ba yếu tố kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa và xã hội công dân ở nước ta. Hiện nay chúng ta đang xây dựng,
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; và
tất yếu cũng phải xây dựng xã hội công dân của nhân dân… Trong di sản lý
luận của C.Mác: xã hội công dân là trung tâm thực sự, vũ đài thực sự
của toàn bộ lịch sử.
Xã hội công dân là lĩnh vực đời sống
xã hội được tổ chức một cách tự nguyên, tự chủ và tự quyết, độc lập với
nhà nước và được ràng buộc bởi những quy định hoặc hệ thống luật lệ
chung. Xã hội công dân là môi trường thực hiện dân chủ, lôi cuốn đông
đảo quần chúng tham gia vào đời sống xã hội và củng cố, bảo vệ lợi ích
cộng đồng. Xã hội công dân được hình thành và phát triển còn hỗ trợ,
phối hợp với nhà nước thực hiện những chức năng xã hội mà nhà nước không
làm được hoặc thực hiện không có hiệu quả. Mặt khác, nó lại phản biện,
giám sát nhà nước, hạn chế sự lạm quyền, chuyên quyền của nhà nước.
Để hình thành xã hội công dân, trước
hết cần xác định rõ phạm vi quyền lực, chức năng của nhà nước, phạm vi
các quyền tự do cá nhân, còn khoảng trống giữa cá nhân và nhà nước chính
là phạm vi của xã hội công dân. Những năm trước đây chúng ta đã thiết
lập hệ thống chính trị mà quyền lực của Đảng và Nhà nước dường như bao
trùm toàn bộ đời sống xã hội, ngay cả trong lĩnh vực đoàn thể nhân dân
(phi nhà nước) cũng mang tính chất hành chính nhà nước, còn cá nhân thì
mờ nhạt đi, gần như hoà tan trong cộng đồng xã hội…
Để hình thành xã hội công dân, cần
khuyến khích phát triển các hội, các đoàn thể tự nguyện, tự chủ, tự
quản, đảm nhận những chức năng xã hội như: từ thiện, nhân đạo; giúp nhau
xoá đói giảm nghèo, nâng cao nghề nghiệp; đảm bảo môi sinh, môi trường,
an ninh xã hội…; khôi phục những mặt tích cực của các thiết chế tự quản
truyền thống như thiết chế làng xã, phường hội… Nhưng quan trọng là đổi
mới tổ chức và phương thức hoạt động của các đoàn thể nhân dân… Khắc
phục tính chất hành chính nhà nước của các tổ chức này và nhằm nâng cao
tính tự nguyện, tự chủ, tự quản, tự quyết trong tổ chức và hoạt động…”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét