Chủ Nhật, 31 tháng 7, 2016

Ngã ba đường

Ngã ba đường

Chuyển bài này cho blog tôi, Nguyễn Quang Dy viết mấy chữ, trước là hỏi thăm, và sau là nói ra cái ý định về bài viết: "Chắc ông vẫn đang trong Saigon? (vì mới hơn tuần trước hai anh em cùng ngồi ăn sáng cà-phê tại thành phố phương Nam này)". Rồi anh viết tiếp: "Đây là bài mới, vừa gửi cho trang Viêt-studies, ông nên đăng (đề viếng ngoại trưởng hụt Lê Mai). Có thể đây là bài cuối trong series gồm 36 bài chọn lọc về chủ đề "Bốn thập kỷ sau: VN vẫn mắc kẹt tại ngã ba đường".

Như Nguyễn Quang Dy vừa viết, liệu đây có phải là bài cuối cùng cho chuỗi 36 bài mà anh đã suy nghĩ kỹ càng và viết nó ra như một cách giải thoát hay không? Tôi nói thế vì đã hơn một lần anh bảo tạm dừng bút, nghỉ ngơi, nhưng rồi sự kiện chính trị kinh tế xã hội diễn ra, hé lộ ra những tình tiết mới mà trước đây chưa một lần nghĩ tới, rồi những động thái mới manh nha và xuất hiện... thì lại thôi thúc ngòi bút Nguyễn Quang Dy nhập cuộc để lại ra một bài viết mới. Hy vọng lần nà cũng vậy.

Đến đây xin giới thiệu bài viết mới nhất của Nguyễn Quang Dy.

Vệ Nhi

-------




Việt Nam vẫn mắc cạn tại ngã ba đường

Nguyễn Quang Dy

“Có hai thứ vô hạn: vũ trụ và sự ngu xuẩn của con người…” (Two things are infinite: the universe and human stupidity - Albert Einstein)



Hơn bảy thập kỷ sau khi lập quốc (1945) và hơn bốn thập kỷ sau cuộc chiến tranh Việt Nam (1975), đất nước vẫn đang mắc kẹt tại ngã ba đường. Tại sao lại có bi kịch này? Làm thế nào để thoát ra ra khỏi ngã ba đường của lịch sử? 

Trong nhiều thập kỷ, đất nước đã bị sa vào chiến tranh và bạo lực, cực đoan và hận thù, như cái bẫy ý thức hệ. Những thế lực cực đoan (trong và ngoài nước) đã thao túng số phận đất nước này, làm cho chính họ và ít nhất một thế hệ người Việt bị ngộ nhận, lạc vào ma trận (như chiến tranh Việt Nam). Muốn thoát ra khỏi ngã ba đường không dễ. Báo cáo “Việt Nam 2035” khuyến nghị phải đổi mới thể chế và cải cách vòng hai.   

Có nhiều việc phải làm, như cách thể chế và chống tham nhũng. Trong phạm vi bài viết này, hãy thử xem lại mấy điều cơ bản: Thứ nhất là đặc điểm bối cảnh hiện nay; Thứ hai là nguyên nhân và hệ quả; Thứ ba là các giải pháp khả thi.   

Đặc điểm bối cảnh hiện nay

Cuộc tranh cãi hiện nay về giải pháp nào cho các vấn nạn quốc gia vẫn còn bế tắc. Đất nước có thể tiếp tục suy thoái và tụt hậu, nếu vẫn chưa cải cách được thể chế, vẫn chưa xử lý được nạn tham nhũng bị thao túng bởi các nhóm lợi ích.

Sau bao thăng trầm, Việt Nam vẫn bị mắc kẹt tại ngã ba đường, bị các nhóm lợi ích tham nhũng bắt làm con tin, mà vẫn tưởng mình đang làm chủ. Đoàn tàu đất nước bị bắt cóc (hijacked), đang đi chệch đường ray, chạy loanh quanh trong thung lũng mù, mà vẫn tưởng đang chạy trên đường ray “kinh tế thị trường định hướng XHCN”.

Nhiều người ngồi trong các toa tàu (cả chủ lẫn khách) vẫn tưởng an toàn và vô can, mà không biết rằng đoàn tàu đang lầm đường lạc lối. Một số người nhanh chân thu gom tài sản, nhảy khỏi đoàn tàu, hy vọng thoát thân tại một “thiên đường” nào đó.

Một hệ quả đáng buồn là dòng người và dòng tiền đang lũ lượt ra đi. Theo UN DESA, từ năm 1990 đến 2015 đã có 2.558.678 người Việt di cư ra nước ngoài (trung bình mỗi năm gần 100 ngàn người). Theo World Bank (năm 2013), Việt Nam là một trong 10 quốc gia có nhiều người di cư nhất khu vực Đông Á-Thái Bình Dương.

Trong mấy năm qua, đã có 92 tỷ USD được chuyển ngầm ra nước ngoài bằng nhiều cách, và có hàng trăm người Việt có tên trong Hồ sơ Panama và có tài khoản tại các “thiên đường trốn thuế” như Virgin Islands, Cayman và Malta… Đây không chỉ là hiện tượng tham nhũng, chảy máu chất xám và tài nguyên, mà còn là khủng hoảng lòng tin.

Những vấn đề hậu chiến như hòa giải dân tộc, tái thiết đất nước, cải cách kinh tế và chính trị, vẫn còn ngổn ngang như mới bắt đầu. Những thành tựu đầy ấn tượng của hai thập kỷ cải cách kinh tế thị trường đã bị triệt tiêu bởi thiếu đổi mới chính trị. Các nhóm lợi ích dựa vào cơ chế thân hữu, tiếp tục thao túng thể chế “kinh tế thị trường định hướng XHCN” như một miếng mồi ngon, làm đất nước ngày càng kiệt quệ và tụt hậu.

Không khỏi giật mình khi nhìn vào các chỉ số kinh tế cơ bản. Hàng trăm ngàn doanh nghiệp phá sản hoặc “chết lâm sàng”. Thâm hụt ngân sách tới mức báo động. Nợ xấu và nợ công chồng chất. Các khoản vay World Bank để ứng phó thay đổi khí hậu, phát triển đồng bằng Mekong, và nâng cao năng lực cạnh tranh, như muối bỏ bể.  





Theo Ngân hàng Nhà nước, tính đến đầu năm 2016, dự trữ ngoại hối của Việt Nam chỉ còn khoảng 30 tỷ USD, đến tháng 6/2016 tăng lên 38 tỷ USD. Theo Bộ tài chính Mỹ, Việt Nam nắm giữ 12 tỷ USD trái phiếu chính phủ Mỹ (chiếm 1/3 dự trữ ngoại hối), do đó dự trữ tiền mặt chỉ có 26 tỷ USD. Năm 2015, Việt Nam phải trả nợ 20 tỷ USD và năm 2016 ít nhất là 12 tỷ USD (trả nợ nước ngoài chiếm 40%). Năm 2015, nhập siêu từ Trung Quốc là 30 tỷ USD (nhập chính thức) và 20 tỷ USD (nhập lậu). Nếu Trung Quốc muốn, họ có thể làm cho dự trữ ngoại hối của Việt Nam (30 tỷ USD) “bốc hơi trong một ngày”.

Chỉ cần quan sát kỹ một chút là thấy bức tranh quốc gia đầy bất ổn, cả về sức khỏe kinh tế lẫn ổn định chính trị và chủ quyền quốc gia. Cách đây 26 năm, cựu ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch đã bức xúc thốt lên rằng một thời kỳ bắc thuộc mới bắt đầu. Những hệ quả của Thành Đô vẫn dai dẳng như một nghiệp chướng, chưa biết bao giờ thoát Trung.  

Mấy năm qua, tai họa môi trường xảy ra liên tiếp. Không phải chỉ do ông trời làm thay đổi khí hậu, mà còn do con người gây ra. Trong khi hạn hán và ngập mặn chưa từng có trong lịch sử tại đồng bằng Mekong đe dọa cuộc sống hàng triệu nông dân, vẫn chưa có giải pháp hữu hiệu, thì thảm họa môi trường biển miền Trung do Formosa gây ra đã hủy diệt hải sản và môi sinh, đe dọa cuộc sống hàng vạn ngư dân và cộng đồng. Không phải chỉ có ngành hải sản và du lịch biển bị tê liệt, mà chủ quyền Biển Đông có nguy cơ bị mất.

Tại sao ta lại từ chối đề nghị giúp đỡ của cộng đồng quốc tế (như Liên Hợp Quốc và Mỹ)? Tại sao phạt Formosa có 500 triệu USD để đền bù thiệt hại (và cho tồn tại)? Tại sao lại phải nhẹ tay “khoan hồng” đối với thủ phạm đã và đang gây ra thảm họa môi trường miền Trung? Trong khi lại nặng tay đàn áp người dân biểu tình ôn hòa đòi “biển sạch” và “minh bạch”? Và bưng bít thông tin bằng cách kiểm duyệt và đe nẹt báo chí? Tại sao Chính phủ và các cơ quan chức năng phải mất gần 3 tháng mới công bố nguyên nhân và thủ phạm gây ra thảm họa môi trường (trong khi hầu như ai cũng biết thủ phạm là Formosa)?

Thật là nghịch lý nếu ta phải cầu cứu Trung Quốc giúp đỡ, khi đồng bằng sông Mekong bị hạn, (do họ xây quá nhiều đập thủy điện trên thượng nguồn) và khi máy bay Su 30MK và CASA 212 bị rơi liên tiếp ngoài khơi Biển Đông (một cách bí ẩn). Tại sao ta lại sợ Trung Quốc như vậy? Trong khi Philippines dám kiện (và đã thắng), nhiều nước ủng hộ phán quyết của PCA, thì Việt Nam vẫn giữ thái độ rất dè dặt, không dám kiện. 

Nguyên nhân và hệ quả

Thứ nhất là nỗi sợ đi vào tiềm thức. Đó là nguyên nhân sâu xa gây chia rẽ, hận thù, nghi ngờ, dối trá, không thể hòa giải (như những chỉ số năng lượng tiêu cực). Người Việt vốn sợ Tây, sợ Tàu, sợ tất cả, nên căm thù và đánh tất. Nhưng khi phải quyết định lựa chọn kế thoát hiểm, thì lại sợ thay đổi thể chế, nên mắc kẹt tại ngã ba đường. Dân sợ và không tin chính quyền. Chính quyền sợ dân (coi dân như thù địch), vì sợ mất ghế, mất chế độ, mất độc quyền, nên phải bưng bít thông tin và trấn áp. Làm sao thoát khỏi nỗi sợ?

Trung Quốc không đáng sợ như vậy, và họ đang suy yếu. Về đối ngoại Trung Quốc ngày càng bị cô lập, nhất là sau phán quyết của PCA về Biển Đông. Về đối nội, kinh tế xuống dốc, uy tín của Đảng cầm quyền suy giảm. Theo một báo cáo của Ủy ban Kỷ luật Trung ương (1/7/2016) chỉ có 2,2% đảng viên đạt tiêu chuẩn, và 90% bộ máy cầm quyền của Đảng phải cải tổ, vì “đã mục nát triệt để”. Các lãnh đạo cao nhất của Đảng (như Tập Cận Bình và Vương Kỳ Sơn) đã công khai thừa nhận chế độ Cộng sản Trung Quốc đang đứng trước “nguy cơ vong Đảng” và đã đến “điểm giới hạn gần như sụp đổ” (theo Vương Kỳ Sơn).  

Thứ hai là tư tưởng cực đoan ẩn tàng trong cộng đồng, nhất là các quan tham muốn “làm giàu bằng mọi giá”, nên thường bỏ qua và quên mọi rủi ro tiềm ẩn (do vô minh). Tư tưởng cực đoan dẫn đến “hội chứng nhất” (cái gì cũng phải nhất). Ví dụ, Hà Tĩnh có dự án to nhất (Formosa), tốc độ duyệt dự án này cũng nhanh nhất, và có số cán bộ tham gia trung ương cũng đông nhất (16 người). Nay xảy ra thảm họa môi trường cũng lớn nhất.

Có thể nói, đó là hệ quả của cực đoan và bè phái, là hai trở ngại lớn nhất đối với quá trình đổi mới và phát triển. Các nhóm lợi ích thân hữu (bán nước hại dân) có thể làm đất nước trệch khỏi đường ray phát triển, và tiếp tục mắc kẹt tại ngã ba đường. Phải chăng nhóm lợi ích thân hữu  lũng đoạn Hà Tĩnh đã biến Formosa Vũng Áng thành một tô giới Tàu, hay “vương quốc nước ngoài trong lòng Hà Tĩnh” (GDVN, 26/7/2016).

Thứ ba là khủng hoảng nhân cách (như đa nhân cách). Trong khi các quan lại (địa phương và trung ương) làm giàu bất minh và gây ra tai họa, thì họ luôn mồm “vì quê hương đất nước”.  Khi đã mất nhân cách thì họ thường vô cảm, vô minh, và làm như “vô can” trước tai họa do họ gây ra. Vì vậy, ông Võ Kim Cự mới tỏ ra “thực sự bất ngờ…không lường được” và thản nhiên phán “phải kiên quyết xử lý đối với những vi phạm dù bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào” nhưng lại khẳng định “ký giấy chứng nhận đầu tư là đúng luật và đúng quy trình…”   

Điệp khúc “đúng quy trình” là một cách ngụy biện thô thiển đến phản cảm, mà những kẻ đạo đức giả và mất nhân cách hay sử dụng để qua mặt những ai nhẹ dạ cả tin. Làm “đúng quy trình” mà không cần biết quy trình đúng hay sai và hậu quả ra sao, là một trò lừa đảo mà những nhóm lợi ích (bán nước hại dân) hay dùng để thao túng luật lệ trong một thể chế bất minh có nhiều kẻ hở. Họ tìm đủ cách lý giải và đổ cho quy trình và kỹ thuật (chứ không phải do con người), đổ lỗi cho người khác (chứ không phải do mình).  

Vì vậy, sau khi xảy ra tai họa thì ông Cự làm như vô can, rồi lý giải như “lấy thúng úp voi” (lời ông Phạm Quyết Thắng, nguyên phó Tổng thanh tra Chính phủ). Ông Thắng bức xúc hỏi, “ông là người trình xin thủ tướng cho phép dự án có thời hạn 70 năm hay trình dự án 50 năm mà thủ tướng chữa lại thành 70 năm?... Tôi không loại trừ trong quá trình quan hệ đó có lý do nể nang, quen biết, cảm tình, và có cả vấn đề lợi ích cá nhân… Ông Cự chủ động, tích cực làm việc này, nhưng chắc chắn phải có người hậu thuẫn, bật đèn xanh cho ông ấy.   

Formosa: Phần nổi của tảng băng chìm

Đại dự án Formosa như “con ngựa thành Troy” đã gây ra thảm họa môi trường và đẩy đất nước vào một cuộc khủng hoảng với những hệ quả khôn lường, liên quan đến phát triển kinh tế, ổn định chính trị và an ninh quốc phòng. Nó xẩy ra đúng lúc chuyển giao quyền lực giữa chính phủ cũ (đã “ăn không từ cái gì”) và chính phủ mới (còn “chưa ấm chỗ”), nên đối phó bị động và lúng túng như “gà mắc tóc” và “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”.

Hãy điểm lại mấy nét chính của câu chuyện Formosa, với những lỗ hổng lớn về quản lý nhà nước và giám sát an toàn môi trường. Không thể đổi mới thể chế, nếu không làm rõ và xử lý thích đáng vụ Formosa như một “case study” mà cả ba chỉ số cơ bản của mô hình cải cách đều thiếu hụt: (1) chống tham nhũng (corruption), (2) quản trị tốt (governance), (3) minh bạch & trách nhiệm giải trình (transparency & accountability).  

Điều phi lý nhất là sau khi để xảy ra một thảm họa môi trường lớn như vậy, và sau khi Formosa (nhà đầu tư) đã nhận tội, phía chủ nhà vẫn im lặng như vô can, vì làm “đúng quy trình”, mà không hề quan tâm quy trình đó đúng hay sai. Nếu ông Cự (nguyên Chủ tịch/Bí thư Hà Tĩnh) và những quan chức liên đới trong chính phủ cũ và các bộ ngành (TN&MT, KH&ĐT, KH&CN, NN&PTNT…) mà vô can, thì ai là bị can đây?      

Ông Cự  đúng là người có “công đầu”, đưa đường chỉ lối cho Formosa vào đầu tư tại Vũng Áng và Sơn Dương (một vị trí chiến lược tại Miền Trung), nhưng không phải chỉ có một mình. Nếu ông Cự (và cộng sự) không biết Formosa nổi tiếng hủy diệt môi trường, và đằng sau Formosa là Trung Quốc, thì là vô minh. Ông Cự (và cộng sự) còn tìm mọi cách lách luật (hay phạm luật) để đáp ứng các yêu cầu tối đa của FHS (chủ đầu tư Đài Loan) và MCC (nhà thầu Trung Quốc). Đó là bất minh (chứ không phải “bất ngờ”).

Ông Cự đầy tự tin và tự hào về “đứa con” Formosa sẽ “làm cho Hà Tĩnh và đất nước này thay đổi cơ bản… góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế Hà Tính và khu vựcđây là dự án chủ lực của Hà Tĩnh. Nếu đi vào hoạt động, dự án sẽ đem lại lợi ích rất lớn. Riêng tiền thu được từ thuế cũng lên đến hàng chục tỷ USD. Ngoài ra, còn tạo ra hàng ngàn việc làm cả trong và ngoài hàng rào nhà máy…Khi đi vào hoạt động, 12 huyện thị của Hà Tĩnh sẽ trở thành khu hậu cần cho dự án. Hơn nữa, dự án sẽ tạo ra cú hích để cấu trúc lại kinh tế cho nhiều thế hệ. Đây là cơ hội tốt để người dân Hà Tĩnh đổi đời” (Tiền Phong, 10/4/2014). 




Nay “cháy nhà ra mặt chuột”, ông Cự có muốn người dân Hà Tĩnh “đổi đời” bằng cách bỏ ngư trường Biển Đông (cho Trung quốc)? Sự vô minh và bất minh của ông Cự (và cộng sự) khác gì bán nước hại dân. Nhưng đến nay ông Cự vẫn khẳng định “tôi làm đúng, khi thẩm định dự án đều có ý kiến của 12 bộ nghành… sau đó báo cáo Chính phủ và được Chính phủ đồng ý…”. Theo báo Tuổi Trẻ, ngày 9/4/2008 ông Cự ký văn bản số 858/UBND-CN2 gửi Formosa nêu rõ thời hạn cho thuê đất là 70 năm. Tới ngày 8/5/2008, Hà Tĩnh mới có công văn gửi các bộ nghành xin ý kiến. Theo Thanh tra Chính phủ, ý kiến các bộ ngành không đề nghị Chính phủ cho phép thời hạn 70 năm, và tại thời điểm đó Chính phủ cũng chưa có ý kiến cho phép thời hạn trên 50 năm. Nếu đúng vậy thì ông Cự phạm tội nói dối, và đổ lỗi quanh.

Trước khi FHS đầu tư vào Khu Kinh tế Vũng Áng làm nhà máy thép Formosa và cảng biển Sơn Dương, thì Tata Group, một tập đoàn lớn có kinh nghiệm sản xuất thép hơn 100 năm của Ấn Độ cũng quyết định đầu tư vào Vũng Áng. Nhưng vì ông Cự đã chọn FHS nên Tata đành bỏ cuộc. Trả lời phỏng vấn báo Tiền Phong, ông Cự giải thích, “Đúng là Tata vào trước, đáng ra Tata phải được ưu tiên, nhưng do họ triển khai quá chậm nên Formosa đã chớp lấy cơ hội!”. Phải chăng Formosa nhanh chân hơn Tata, hay lại quả nhiều hơn, nên ông Cự cũng “chớp lấy cơ hội” bất chấp rủi ro tiềm ẩn về môi trường và an ninh? 

Không biết ông Cự vì quê hương đất nước hay vì “lợi ích cá nhân” (như lời ông Quyết Thắng), mà bất chấp luật lệ và dư luận xã hội, cho Formosa hưởng quá nhiều ưu đãi (như một tô giới). Buông lỏng quản lý và giám sát đã dẫn đến thảm họa môi trường (“đúng quy trình”). Đó là quy trình gì? Làm bậy “đúng quy trình” rồi đổ lỗi để chạy tội là một đặc thù văn hóa tham nhũng kiểu Việt Nam (tham nhũng “đi vào ổn định”). Đó là quy trình siêu tốc đối với một đại dự án, khi hai bên câu kết trở thành đồng minh về lợi ích, thao túng luật lệ. Nếu Formosa đã từng thao túng chính quyền Quốc Dân Đảng tại Đài Loan thì nay (với MCC) họ thừa sức thao túng những quan tham trong chính quyền Hà Tĩnh (và Hà Nội).

Báo cáo đầu tư của Formosa lập trong 3 ngày (thật kỷ lục!). Quá trình thẩm định và phê duyệt dự án của UBND tỉnh làm trong 1 tháng. Ngày 9/4/2016, ông Cự (lúc đó là phó chủ tịch tỉnh) ký văn bản số 858/UBND-CN2 xác nhận ưu đãi đầu tư cho Formosa thuê đất 70 năm. Chỉ 2 tháng sau (12/6/2008) ông Cự đã ký giấy phép đầu tư, và chỉ 18 ngày sau (30/6/2008) bộ TN&MT đã phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường (DTM).

Theo nhà báo Lan Anh (VTC) người đã phỏng vấn ông Chu Xuân Phàm với câu nói nổi tiếng “chọn cá hay thép” (25/4/2016), chỉ 3 ngày sau (28/4) ông Phan Tấn Linh (giám đốc sở TTTT Hà Tĩnh) đã gửi công văn cho các cơ quan chức năng, đề nghị xử lý VTC vì đã phát nội dung cuộc phỏng vấn. Tại sao ông Linh lại mẫn cán gửi công văn bênh vực Formosa và chĩa mũi nhọn vào báo chí? (tuy báo chí làm đúng chức năng). Lý giải hành động mẫn cán của ông Linh, nhà báo Lan Anh gọi đó là hành động “cõng rắn cắn gà nhà”.   

Trong khi cá chết hàng loạt thì ông Đặng Ngọc Sơn (phó chủ tịch UBND) khuyên dân cứ ăn cá và tắm biển (như không có chuyện gì). Hôm đó chắc không phải là “ngày cá 1/4” và cá chết không phải là chuyện đùa. Còn ông Đặng Quốc Khánh (chủ tịch UBND) thì vẫn yên lặng một cách bí ẩn, chưa hề xuất hiện và lên tiếng (tuy 3 tháng đã trôi qua).

Đến nay, một số nhà thầu phụ Hà Tĩnh vẫn đang tiếp tay cho Formosa gây ô nhiễm môi trường bằng cách bí mật di chuyển hàng ngàn tấn rác thải các loại đi chôn trộm tại nhiều nơi (như công viên, khu dân cư) tại Kỳ Anh, Hà tĩnh, và chở hàng trăm tấn chất thải nguy hiểm ra chôn trộm tại Phú Thọ. Nếu bị phát hiện thì họ đổ lỗi quanh, và cho người hành hung báo chí. Phải chăng vì đồng tiền nên họ “đâm lao phải theo lao”? Nhưng điều đáng nói là một số quan lại địa phương vẫn vô cảm và vô can trước thảm họa môi trường (mà họ là đồng phạm). Một quan nhỏ như Phan Duy Vĩnh (phó chủ tịch 
thị xã Kỳ Anh) mà cũng dám coi thường công chúng khi viết trên Facebook, “Biển nhiễm chất độc từ cái mồm của các bạn.

Tiến sỹ Tô Văn Trường (một chuyên gia về môi trường) cho biết ông “không khỏi giật mình vì sự tắc trách và trình độ chuyên môn của những người có trách nhiệm phía Việt Nam trong công tác kiểm tra, và giám sát môi trường…Khuyết điểm lớn nhất không phải là cấp giấy phép xả thải hay báo cáo ĐTM mà chính là lỗ hổng về công tác kiểm tra, giám sát về môi trường của Bộ TN&MT và Sở TN&MT Hà Tĩnh…Một số người phụ trách về môi trường chẳng những làm ngơ, mà còn nhận làm thuê, đổ chất thải của Formosa không đúng quy định… Chỉ có một nguyên nhân là họ tham tiền và đã bị Formosa móc ngoặc”. (BVN, 27/7/2016).

Ông Trường còn đặt nghi vấn là ngoài chất độc đã được phát hiện là phenol, cyanua mà thủ phạm là Formosa, liệu còn chất độc nào khác chưa bị lôi ra ánh sáng? Một số người vẫn tin là phải có một lượng độc tố khác ngoài phenol và cyanua, được thải vào biển. Theo kỹ sư Nguyễn Minh Quang (Basam.info, 28/7/2016), kết quả phân tích mẫu cá chết của Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt nam đã xác nhận cá chết vì ammonia. “Mọi bằng chứng khoa học về nguyên nhân cá chết hàng loạt tại miền Trung đều hướng về phía ammonia chứa trong nước thải xả từ nhà máy luyện than coke của Formosa”.  




ĐBQH Trần Quốc Khánh cho rằng, Formosa là bài học cảnh tỉnh cho những ai có tư duy bất chấp tất cả để chạy theo lợi ích, kể cả lợi ích cá nhân và lợi ích địa phương… Cần phải xử lý nghiêm khắc những sai phạm tại Formosa, kể cả xử lý hình sự”. ĐBQH Trương Trọng Nghĩa cũng nói, “Tôi ủng hộ quan điểm nên thành lập Ủy ban Lâm thời để xem xét, điều tra các vấn đề môi trường nổi cộm. Trước mắt là tập trung vào trường hợp Formosa… Đã đến lúc phải rà soát lại tất cả các quy trình để xem có đủ sức ngăn chặn được những tiêu cực của những người có trách nhiệm xây dựng cũng như là phê chuẩn những quy trình đó hay không”.

Ông Vũ Quốc Hùng (nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra TƯ) khẳng định. “lần này theo chỉ đạo của Trung ương, khi xem xét khuyết điểm của cán bộ thì không hề có bất cứ vùng cấm nào, bất luận người đó đương chức hay đã về hưu, ngay cả đương chức thì dù ở bất cứ chức vụ nào cũng phải bị xem xét Về xử lý nội bộ, Đảng không phân biệt một ai, kể cả là đã về hưu nhiều năm nhưng nếu có liên quan đến những sai phạm trong thời kỳ công tác thì cũng không có chuyện “hạ cánh an toàn”. Chúng ta hãy chờ xem!

Phải nhắc lại câu chuyện Formosa bởi vì đó là phần nổi của tảng băng chìm. Nó lý giải một phần tại sao Việt Nam vẫn đang mắc kẹt tại ngã ba đường. Ông Trịnh Xuân Thanh, ông Vũ Huy Hoàng, và bà Nguyễn Thị Nguyệt Hường đã “lên thớt” (theo chỉ đạo của TBT) trong chiến dịch “đả hổ diệt ruồi” (kiểu Việt Nam). Trận “Núi Pháo” cũng đã mở màn. Nhưng chưa biết bao giờ đến lượt ông Võ Kim Cự (và cộng sự)? Đến nay ông Cự vẫn vô can, vẫn là đại biểu Quốc Hội và Chủ tịch Liên Minh Hợp Tác Xã. Việc ông Cự “lên thớt” hay hạ cánh an toàn là thước đo lập trường của Việt Nam đối với câu chuyện Formosa và Biển Đông (sau phán quyết của PCA), và đổi mới thể chế (như khuyến nghị trong báo cáo “Việt Nam 2035”).

Miến Điện & Mông Cổ: Bài học chuyển đổi

Trong mấy thập kỷ qua, nhiều nước đã chuyển đổi thể chế chính trị từ độc tài thành dân chủ. Trong đó, Miến Điện và Mông Cổ là hai bài học thành công, đáng để cho Việt Nam tham khảo và học hỏi. Tất nhiên, bối cảnh lịch sử mỗi nước một khác, với những đặc thù kinh tế, văn hóa, tôn giáo, sắc tộc cũng khác nhau, nhưng đây là hai câu chuyện chuyển đổi thành công bằng đường lối ôn hòa và không bạo lực.

Trong khi Trung Quốc và Việt Nam đổi mới kinh tế khá thành công (với các mức độ khác nhau), nhưng không đổi mới chính trị, nên đất nước đang gặp rắc rối. Việc tham khảo các mô hình chuyển đổi như Miến Điện và Mông Cổ là cần thiết, để đổi mới thể chế, nhằm giải phóng và phát huy những tiềm năng của đất nước.    

Người ta đã nói nhiều về Miến Điện như một bài học chuyển đối mà Việt Nam cần tham khảo. Những người dẫn dắt quá trình chuyển đổi ôn hòa tại Miến Điện đã thành công vì họ đặt lợi ích quốc gia lên trên lợi ích riêng. Ông Then Sein (cựu tổng thống) và bà Aung San Suu Kyu (lãnh tụ đảng NLD) đã thay đổi lịch sử Miến Điện bằng hòa giải dân tộc, chuyển đổi nền độc tài quân sự thành thể chế dân chủ. Nhưng họ mới đi được nửa đường. 

Nhiều người cho rằng Miến Điện đang có dấu hiệu bất ổn, vì bà Aung San Suu Kyi đã khẳng định “ở trên tổng thống” (trong vai trò “cố vấn nhà nước”). Người ta lo rằng hành động này làm xói mòn nền dân chủ mà chính bà chủ trương. Một số người lên án đảng NLD của bà đang lạc vào chủ nghĩa độc đoán. David Matieson (một chuyên gia về nhân quyền) nhận xét, “Văn hóa trong đảng rất không minh bạch và độc đoán…Nhiều đảng viên bị khoá miệng không được nói…Họ đang thật sự cố gắng để giữ kỉ luật đảng ở mức độ phi dân chủ.”

Trong khi đó, những người khác cho rằng bà Suu Kyi cũng chỉ là con người, và là một chính khách. Để làm một chính khách khác với đoạt giải Nobel, và hoạt động dân chủ. Không nên nhầm lẫn. Trong một cuộc phỏng vấn với CNN, bà Suu Kyu nói, “Tôi đã là một chính khách từ lâu… Tôi khởi đầu làm chính trị không phải như một người bảo vệ nhân quyền, hay một nhà hoạt động nhân đạo, mà là lãnh tụ của một đảng chính trị. Nếu đó không phải là chính khách thì tôi không hiểu thế nào mới là chính khách”.

Đây là những vật vã trong quá trình phát triển (growing pains), chứ không phải bế tắc tại ngã ba đường. Miến Điện đã thoát khỏi ngã ba đường và đang trên con đường dân chủ hóa và kiến tạo đất nước. Khó khăn, thử thách còn nhiều. Bà Suu Kyu không chỉ là một “ngọn đèn hi vọng” (như lời Tổng thống Obama), mà là một tổng thống (de facto). 

Bên cạnh bài học Miến Điện, bài học Mông Cổ cũng đáng suy nghẫm. Một nước nghèo, lạc hậu, dân số ít, bị kìm kẹp giữa hai nước láng giềng khồng lồ, đã trỗi dậy và chuyển đổi ngoạn mục. Trong suốt bảy thập kỷ, Mông Cổ chưa hề biết đến tự do và dân chủ, bị chìm đắm trong bóng đen của nền độc tài. Nhưng người Mông Cổ đã dứt khoát đoạn tuyệt với quá khứ, đồng hành với tự do dân chủ để tiến bước về phía tương lai của dân tộc.

Tsakhiagiin Elbegdorj (sinh 1963), là lãnh tụ của phong trào dân chủ Mông Cổ, được ca ngợi như là “Thomas Jefferson của Mông Cổ”. Khi từ Moscow trở về nước (năm 1989), hành trang của anh sinh viên 26 tuổi này không phải là tài liệu sách vở về CNXH học được tại trường đảng Moscow mà là những thay đổi từ chính sách Glasnost của Gorbachev. (Theo Trần Trung Đạo, “Dân cần minh bạch”, Danlambao.vn, 21/5/2016).

Elbegdorj tin rằng chỉ có dân chủ mới cứu được Mông Cổ. Trong bài phát biểu (28/11/1989), Elbegdorj đã nhấn mạnh, “Mông Cổ cần dân chủ và minh bạch…”  Mông Cổ phải chuyển đổi từ độc tài sang dân chủ bằng một cuộc cách mạng bất bạo động.

Cuộc biểu tình tuyệt thực đầu tiên ngày 10/12/1989 chỉ có 13 “tên phản động” (do Elbegdorj cầm đầu). Ngày nay người Mông Cổ gọi họ một cách kính trọng là “13 nhà dân chủ Mông Cổ đầu tiên”. Cuộc cách mạng dân chủ không làm rơi một giọt máu nào là do hầu hết 2.1 triệu dân Mông Cổ dứt khoát đoạn tuyệt với quá khứ, trong số đó có Tổng Bí Thư Đảng Công sản Jambyn Batmönkh. Năm 1998, khi cách mạng thành công, Elbegdorj được bầu làm Thủ Tướng, và năm 2009 ông được bầu làm Tổng thống Cộng Hòa Mông Cổ.

Elbegdorj đã biến điều không thể thành có thể. Về đối nội, Mông Cổ từ bỏ chính sách “kinh tế kế hoạch hóa tập trung” theo mô hình Liên Xô cũ, và áp dụng chiến lược “hai chọn một”. Về đối ngoại, từ 1994, Mông Cổ theo phương châm “ngoại giao trong thế cân bằng về khoảng cách”.  Từ cuối thập niên 1990, Mông Cổ thực hiện chính sách “láng giềng thứ ba”, và đến năm 2015, đề xuất ý tưởng “nước trung lập vĩnh viễn”. Mông Cổ đã từng bước phá thế kìm kẹp địa chính trị để tạo ra bước nhảy vọt, mở rộng không gian sinh tồn cho mình.

Mông Cổ coi mối quan hệ cân bằng với Nga và Trung Quốc là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong chính sách ngoại giao của mình. Tháng 8/2014, tại Ulan Bator, Mông Cổ và Trung Quốc đã ra tuyên bố chung về “xây dựng và phát triển mối quan hệ hợp tác chiến lược toàn diện”. Đồng thời, ngoài Nga và Trung Quốc, Mông Cổ đã phát triển quan hệ hợp tác với các nước lớn khác như Mỹ, Nhật và Đức theo chính sách “láng giềng thứ ba”.

Vai trò của của Ulan Bator trong vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên cũng như mở rộng đối thoại đa phương đã giúp Mông Cổ có vai trò quan trọng trên thế giới. Mông Cổ đã dần trở thành cầu nối giữa Triều Tiên và các nước Đông Bắc Á, và đã tận dụng ưu thế này để trở thành nước hòa giải giữa Triều Tiên và Hàn Quốc. Mông Cổ đã đề xuất sáng kiến “Đối thoại Ulan Bator” nay trở thành diễn đàn đa phương quan trọng, bên cạnh vòng đàm phán 6 bên do Bắc Kinh khởi xướng. Khi Đàm phán 6 bên bị đình trệ thì “Đối thoại Ulan Bator” là kênh đàm phán hiệu quả nhất giữa Bình Nhưỡng với thế giới. 

Nói tóm lại, Mông Cổ đã dũng cảm và khôn ngoan chuyển đổi thành công, mà vẫn giữ được độc lập chủ quyền, trong khi Việt Nam vẫn mắc kẹt tại ngã ba đường.

Thay lời kết: Lối thoát nào cho Việt Nam

Trong lịch sử gần đây, không có một chính thể độc tài nào (kể cả Miến Điện và Mông Cổ) lại tình nguyện từ bỏ độc quyền và độc tài, nếu không có đủ sức ép đòi đổi mới. Mọi chuyển đổi (dù ôn hòa và bất bạo động) đều phải từ dưới lên (bottom up), chứ không chỉ từ trên xuống (top down). Điều kiện thiết yếu là phải dứt khoát đoạn tuyệt với quá khứ, để đưa dân tộc tiến tới tự do dân chủ (như Miến Điện và Mông Cổ).

Đặc điểm của những người không dám đoạn tuyệt với quá khứ là họ chỉ phê bình hiện tượng, nhưng tránh nhắc đến bản chất, chỉ nói đến hệ quả nhưng bỏ qua nguyên nhân, chỉ nói lên thực trạng xã hội mà không lý giải nguyên nhân nào dẫn đến thực trạng đó. Có lẽ hầu hết là sản phẩm của ý thức hệ đã thấm dần và ăn sâu vào tiềm thức thành thói quen tư duy. Họ thường hoài nghi những thay đổi “không chính thống”, mà không hiểu rằng chế độ đã bị thao túng bởi các nhóm lợi ích bất minh như “tư bản đỏ và xã hội đen”. 

Bị ngộ độc bởi ý thức hệ cực đoan, lòng tin gần như vô thức của nhiều người quen lệ thuộc vào cơ chế xin cho và ban phát. Nay dù ủng hộ tự do dân chủ, nhưng tâm thức và thói quen tư duy của họ vẫn chưa thoát khỏi ám ảnh về cực đoan và bạo lực, là hệ quả của chiến tranh. Mọi thay đổi đều có quy luật và phải trả giá. Đổi mới thể chế tại Việt Nam cũng không phải ngoại lệ. Phải từ bỏ cực đoan và bạo lực. Không thể thay thế độc quyền này bằng độc quyền khác. Muốn thoát Trung và thoát khỏi ngã ba đường, phải ra khỏi cái hang ý thức hệ. Einstein đã từng nói, “không thể giải quyết vấn đề bằng chính tư duy đã tạo ra vấn đề đó”. 

NQD. 29/7/2016



Thứ Tư, 27 tháng 7, 2016

Tri ân

Tri ân

Entry này không định trước mà trùng khớp là entry thứ 1.000 trên blog của tôi. Tôi dành nó cho ngày 27/7 - ngày Thương binh Liệt sĩ. Gia đình tôi là gia đình liệt sĩ. Nên sự trùng hợp bất ngờ này khiến tôi nao nao lòng tưởng nhớ đến chú em ruột Nguyễn Văn Yên của tôi.

Yên sinh 1948, tuổi Mậu Tý. Đi bộ đội khi 18 tuổi, tập luyện rèn quân trên đất Bắc khoảng gần 1 năm là vào Nam, lúc hành quân vào trong đó rơi đúng mùa hè 1968. Sau gần 4 năm có mặt trên các chiến trường phía Nam, ngày 5/7/1972 Nguyễn Văn Yên hy sinh ở "chiến trường B2 Nam Bộ" như giấy báo tử gửi về gia đình ghi như vậy. Tính ra năm đó em tôi mới 24 tuổi.

Thời gian trôi nhanh thật, bởi nếu không là liệt sĩ mà trở về với gia đình được thì đến Tết này, Nguyễn Văn Yên đã là một ông lão thất thập như cách tính tuổi ta trên quê hương Kinh Bắc của chúng tôi...

Mấy dòng mở đầu dành riêng cho người em liệt sĩ, giờ xin trở lại chủ đề 27/7.  

Hôm nay trên các nghĩa trang liệt sĩ khắp đất nước, những nén hương tri ân lại được thắp lên. Tôi nhớ cũng vào dịp này vài năm trước anh bạn tổng biên tập tờ báo trước tôi làm có đặt tôi viết một bài ngắn cho ngày 27/7. Tôi đoán chắc anh bạn đồng nghiệp được ai đó biết mà ghé tai bảo là tôi có em trai liệt sĩ nên trực tiếp đặt bài...

Về tôi, khi bài viết xong, rất nhanh tôi đặt tên là "Nén hương tri ân". Ban biên tập tờ báo đã dành một vị trí trang trọng đặt vào bài viết này. Đó là điều đặc biệt vì đây là một tờ báo đối ngoại, báo của bộ ngoại giao, thế mà các bạn lứa sau vẫn xử lý trân trọng một vấn đề dù sao cũng chỉ là một vấn đề, một chủ đề đối nội.

Bài báo cũ mà tôi viết tôi vẫn trân trọng giữ nó trong toàn vẹn cả số báo đó. Hôm nay lại được nhớ đến một ngày đáng nhớ này. Tôi trộm nghĩ, ngày hôm nay, đứng trước những bàn thờ từng gia đình liệt sĩ trên mọi miền Tổ quốc, các bà mẹ và người vợ liệt sĩ Việt Nam lại giấu giọt nước mắt (như là muốn linh hồn người ngã xuống đỡ buồn lòng). Các mẹ và các chị một lần nữa lại trân trọng lau cho trong mặt kính của những khung ảnh mà phía sau đó là đôi mắt các anh mãi mãi một nụ cười nhẹ nhàng không bao giờ tắt ở trên các di ảnh để lại kia...

Trên thế gian rộng lớn bao la này, tôi tự nghĩ cái tình người cũng như đạo nghĩa thủy chung bền chặt cuả gia đình giữ lại trong nhau - người ở lại và kẻ ra đi mãi mãi - chắc chắn ở người Việt chúng ta chả thua kém dân tộc nào, quốc gia nào về độ bền chắc, nghĩa sâu rộng nếu không muốn chủ quan nói là chúng ta ở vào hàng đầu của thứ tình cảm thiêng liêng và đầy chất người, chất nhân văn nhân đạo đó.



Bản thân tôi do nghề nghiệp cũng có dịp đi đến rất nhiều vùng đất xa xôi ngoài biên giới nước mình, có những lưu tâm tìm hiểu phong tục tập quán cũng như đời sống người bản địa... thì nói thật nhé, tịnh không/chưa thấy dân tộc nào, quốc tịch nào có đạo thờ gia đình tổ tiên "chặt chẽ" và "phổ biến rộng khắp" như dân tộc Việt Nam mình. Sau những cuộc chiến tranh mà đất nước ta buộc phải trải qua, rất nhiều chiến sĩ đã ngã xuống nơi chiến trường - bên này hay bên kia mặc lòng -, thì những bàn thờ tổ tiên/gia tiên kia bao giờ cũng là nơi dành thờ ông bà, cụ kỵ, rồi cha sinh mẹ dưỡng, thì nay được đặt thêm ảnh hoặc di vật của người liệt sĩ để cùng thờ, cùng thắp nén hương tưởng nhớ.

Đấy là nét đẹp, rất đẹp của văn hóa Việt Nam, của tính cách Việt Nam, của tình nghĩa Việt Nam, thật vậy!

Mọi điều, mọi cái dù quý đến đâu, dù tưởng như trơ trơ, bất hoại, nhưng rồi vẫn cứ xoay vần, đổi thay, thậm chí mỏi mòn và biến mất. Ấy nhưng thứ tình cảm thiêng liêng cố kết của gia đình Việt Nam kia, thứ đạo nghĩa ăn quả nhớ kẻ trồng cây, uống nước nhớ nguồn luôn luôn là thứ báu vật không bao giờ thay đổi trong con người Việt Nam.

Tôi nghĩ ngày 27/7, ý nghĩa sâu xa của ngày kỷ niệm này, chắc chắn nó sẽ trường tồn cùng lịch sử...

Vệ Nhi






     

Thứ Hai, 25 tháng 7, 2016

Chính là sách vở TQ viết HS & TS là của VN

Chính là sách vở TQ viết HS & TS là của VN

Sự kiện lớn đầu tháng 7 này là Tòa Trọng tài tại La Haye, Hà Lan, vừa ra phán quyết về vụ Philippines kiện Trung Quốc về đường lưỡi bò. 

Theo chi tiết phán quyết bằng văn bản mà Thông báo báo chí của Tòa đã nói rõ, tất cả những đòi hỏi chủ quyền trên Biển Đông của TQ là vô lý, bởi trong thực tế không có bất cứ một cơ sở khoa học và pháp lý nào nói TQ có "chủ quyền lịch sử" trên vùng biển rộng lớn này cả. 

Dịp này lục trong hồ sơ tư liệu có bài báo đăng từ cuối năm ngoái liên quan đến một cuốn sách cổ. Đó là cuốn sách có tên “Danh hoàn Chí lược” (Sách ghi chép về địa lý Thế giới), có khổ 20cm x 14,5cm, người giám định sách là hai vị Bích Tinh Tuyền và Lưu Ngọc Ba. Sách do Nhà xuất bản Hòe Lý Đường in.

Nhận thấy tư liệu bổ ích cho những ai muốn theo dõi sâu hơn về vụ Philippines thắng kiện và hiện thực trớ trêu từ sau phán quyết 12/7/2016 là TQ "trắng tay" trước những yêu sách vô lý về chủ quyền lịch sử trên Biển Đông (TQ gọi là Nam Hải), xin phép tác gỉa đưa bài viết đó lên đây để mọi người cùng đọc tham khảo và chia sẻ.

Vệ Nhi

------


VIỆT STAR MEDIA: “LỊCH SỬ GHI LẠI…”

– Phát hiện cuốn sách cổ của nhà Thanh, in đời vua Quang Tự (1875-1909) khẳng định Hoàng Sa, Trường Sa, Biển Đông là của Việt Nam.

Trong quá trình điền dã tại các địa phương trên địa bàn tỉnh Thái Bình, tại gia đình anh Phan Văn Luyện (xã Vũ Chính, Thành phố Thái Bình) chúng tôi đã tiếp cận được cuốn sách cổ, in vào đời Vua Đức Tông (Tải Điềm) – nhà Thanh (niên hiệu Quang Tự, 1875-1909). Sách in thạch bản (in đá) bằng chữ Hán).

Anh Luyện đã vui vẻ trao quyển sách này cho chúng tôi sở hữu và nghiên cứu với hi vọng có thêm những cứ liệu để công bố trước công luận và làm bằng chứng để khẳng định chủ quyền biển, đảo Hoàng Sa – Trường Sa là của Việt Nam.

Cuốn sách này có tên “Danh hoàn Chí lược” (Sách ghi chép về địa lý Thế giới), có khổ 20cm x 14,5cm, người giám định sách là hai tiên sinh Bích Tinh Tuyền và Lưu Ngọc Ba. Sách do Nhà xuất bản Hòe Lý Đường in.


unnamed (2)


Ở trang 2 của sách ghi: “Quang Tự Mậu Tuất Mạnh Thu” (Tháng 7, năm Mậu Tuất, niên hiệu Quang Tự, triều vua Đức Tông (Tải Điềm -1898). Cũng ngay ở trang 2 ghi: Thượng Hải Thư Cục Đại Ấn (Thư cục Thượng Hải được cho quyền in sách này). Bộ sách này được biên soạn vào năm thứ 28 (Kỷ Dậu, 1849), niên hiệu Đạo Quang, triều vua Thanh Tuyên Tông (Mân Ninh, 1821-1851).

Ở trang 3, 4 và trang 5 của sách có ghi bài tựa của Lưu Vận Kha, soạn vào năm Kỷ Dậu (1849), mùa hạ tháng 4 – triều vua Thanh Tuyên Tông, niên hiệu Đạo Quang. Bài tựa thứ 2 cũng viết vào năm Đạo Quang thứ 28, triều vua Thanh Tuyên Tông, do Bành Uẩn Chương soạn. Bộ sách này từ khi soạn (vào năm 1849, thời vua Thanh Tuyên Tông) phải mất 49 năm sau mới được in (vào năm 1898), triều vua Đức Tông (Nhà Thanh) – niên hiệu Quang Tự.

Bộ sách gồm nhiều tập. Chúng tôi chỉ chú tâm tới các tập 3, 4, 5 (vì 3 tập này đóng gộp thành 1 quyển) và có ghi các đảo thuộc chủ quyền biển, đảo của Việt Nam.

Sách Danh hoàn chí lược. Dòng chữ nhỏ bên phải ghi người giám định Bích Tinh Tuyền, Lưu Ngọc Ba. Dòng chữ nhỏ bên trái ghi Hòe Lý Đường Bản.




unnamed (9)

Dòng chữ bên phải ghi Quang tự Mậu Tuất Mạnh Thu. Dòng thứ hai bên trái ghi Thượng Hải thư cục đại ấn.


Nội dung của sách chủ yếu tóm lược vị trí địa lý, lịch sử… của các nước trên thế giới. Sách còn vẽ bản đồ của các nước trên thế giới: từ Trung Quốc, Nhật Bản, Indonesia … cho đến Ả Rập.

Đặc biệt, ở trang 24, 25 của tập sách này có in tấm bản đồ Trung Quốc, mang tên “Hoàng Thanh nhất thống dư địa toàn đồ” (Bản đồ toàn quốc thống nhất đời nhà Thanh). Trên bản đồ này đều có vẽ các nước có chung đường biên giới với Trung Quốc, như: Việt Nam, Mông Cổ, Ấn Độ, Triều Tiên…

Đáng chú ý, ở phần biển đảo, Trung quốc chỉ vẽ đảo Quỳnh Châu (tức đảo Hải Nam), Đảo Đài Loan (của Trung Quốc)… sau đó ghi chú là biển nhưng không hề vẽ và ghi chú đảo Hoàng Sa, Trường Sa thuộc Trung Quốc. (Bản đồ thứ 1, có ghi chú: Hoàng Thanh Nhất thống dư địa toàn đồ).


unnamed (6)


Bản đồ của nhà Thanh không có đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà chỉ ghi đảo Quỳnh Châu (Hải Nam) và đảo Đài Loan


Đặc biệt hơn nữa, ở tấm bản đồ in tại trang 40, 41 của cuốn sách này thì bên cạnh việc vẽ bản đồ đường biển Trung Quốc lại có vẽ eo biển Quảng Nam (và ghi rõ là Nam Việt – tức Việt Nam). Bên cạnh eo biển Quảng Nam, bản đồ này còn vẽ đảo Thất Châu Dương – biển Thất Châu (cả khu vực biển đảo Trường Sa, Hoàng Sa – Vạn lý Trường Sa. Nếu theo bản đồ Trung Quốc thì Hoàng Sa, Trường Sa là thuộc biển Thất Châu Dương – một cách gọi tên khác mà người Trung Quốc xưa thường dùng và ghi chú trên bản đồ để chỉ khu vực biển đảo Trường Sa, Hoàng Sa của Việt Nam (không có ghi khu vực biển Thất Châu Dương này thuộc địa giới của Trung Quốc).

Bản đồ đã chú thích trong đó có Trường Sa, Hoàng Sa thuộc địa phận biển Việt Nam.

Ở tấm bản đồ trang 55 và 56 – chủ yếu vẽ về biển, đảo và các nước giáp Trung Quốc: biển Ấn Độ Dương (Trung Quốc gọi là Tiểu Tây Dương) và có cả ghi chú về Ấn Độ Dương. Trên bản đồ này còn cho biết về biển và đảo Trường Sa của Việt Nam giáp với đảo Quỳnh Châu (Hải Nam – thuộc Quảng Châu, Trung Quốc). Vẽ cả hình tượng bãi đá ở quần đảo Trường Sa. Trên bản đồ này còn vẽ khu vực biển đảo Quảng Nam: Trong đó vẽ và ghi Thất Châu Dương (Hoàng Sa, Trường Sa), vẽ cả cửa biển Lộc Nại của Quảng Nam và vẽ đảo Côn Lôn của Việt Nam.

unnamed (8)

Bản đồ Hoàng Thanh nhất thống dư địa toàn đồ (chưa chú thích)


Đáng chú ý ở trang 88, 89 giúp cho người đọc hiểu về luồng lạch, hướng gió và các bãi đá ngầm ở trên các đảo Trường Sa, Hoàng Sa và phương hướng, độ dài (tính theo cách tính canh giờ của người xưa) đi trên biển để tới được các nước khác nếu xuất phát từ cửa biển: đảo Trường Sa của Việt Nam.
Phần phiên âm của sách được nhà Hán học Nguyễn Tiến Đoàn dịch như sau: “…Sách Hải quốc văn kiến lục có nói: Vùng Nam Dương (biển phía nam) là nơi thuyền buôn của vùng Mân Việt thường đến. Đường biển nơi đây nhiều chỗ nguy hiểm. Người chỉ huy thuyền đi qua biển này cần phải cẩn thận. Nguy hiểm nhất là nơi có hòn đảo Áo Khí. Thủy trình đi khoảng 7 canh giờ từ đảo Áo Khí đến đảo Lạc Tế. Đảo này nhỏ mà bằng phẳng. Ven đảo có nhiều đá ngầm ngổn ngang, thuyền không đến được; thu hút không khí, dòng chảy ở bốn phía. Trên đảo có nhiều cây cỏ mọc cao hơn một trượng, có núi Đông Sư Tượng, nếu muốn đến thì phải theo dòng nước mà đi. Không thể đi ngược lên phía Bắc vì nhiều doi cát nổi chìm, dài khoảng 200 dặm. Đi lên phía bắc thì có đảo và trên đảo có núi Sa Mã Kỳ. Hai ngọn núi này đối mặt vào nhau (ngọn núi Sa Mã Kỳ và Đông Sư Tượng).


unnamed (3)

Toàn trang chữ Hán (đã dịch trong bài viết)


Theo đường thủy trình trên biển là phải đi bốn canh giờ mới tới địa đầu Sa Mã Kỳ, lại có những doi cát liên tục ở phía nam đến Việt hải (biển Việt) gọi là Trường Sa đầu (địa đầu Trường Sa). Cứ đi về phía nam thì lại thấy nhiều doi cát nổi lên, theo đó mà đi thì đến Vạn Lý Trường Sa. Phía nam Trường Sa có nhiều bãi đá ngầm lởm chởm, đi tiếp là đến biển Thất Châu, gọi là Thiên Lý Thạch Đường. Đây là đất nguy hiểm của vùng Nam Dương, hay có gió bão lớn ở ngoài biển, thuyền đi biển đậu ở ngoài này thường gặp bão gió. Có những thuyền đi lạc đường mà gặp phải nơi đó thì rất nguy hiểm. Một cửa Trường Sa nằm ở phía tây bắc cùng với đảo Nam Áo. Ở phía tây nam là đảo Đại Tinh (Biển bình lặng¬) tạo thành thế chân vạc ở cửa nam bắc, ước rộng phải đi chừng khoảng ngũ canh (đơn vị đo lường thời cổ thường tính theo giờ). Thuyền buôn của người Việt thường đậu ở đó; phía Nam là đảo Lã Tống (Lucson – Philipin), Văn Lai, Tô Lập. Thuyền buôn thường qua mấy nước đó để trao đổi buôn bán, khi xuất phát đều từ cửa Trường Sa mà đi. Nếu gặp gió bắc thì lấy chuẩn từ đảo Nam Áo. Gặp gió Nam, lấy đảo Đại Tinh làm chuẩn để tới Giang Tô, Triết Giang, Phúc Kiến (Quảng Đông). Nếu đi về phía Nam của Nam Dương phải đi từ cửa Sa Mã Kỳ (Đài Loan) đến các nước ở Lữ Tống (Philipin), giáp phía Tây Dương. Muốn đến Chiết Giang, Mân Việt… Nhật Bản phải đi theo hướng phía Tây biển Thất Châu, Côn Lôn rồi đến Vạn Lý Trường Sa ngoại (ngoài Vạn lý Trường Sa), qua cửa biển đảo Sa Mã Kỳ – đi theo đường thẳng dây cung mới an toàn. Từ Trung Quốc mà đến nước Indonesia phải đi phía ngoài Vạn lý Trường Sa. Nơi đây biển mờ mịt, không lấy gì làm chuẩn được cho nên muốn đi phải theo những doi cát ở biển Việt rồi mới đến Thất Châu Dương và từ đó đi tới Indonesia; Vùng biển này nước mênh mông nên giới hạn cũng mênh mông…”. (Trích sách “Danh hoàn Chí lược”).


unnamed (5)

Bản đồ chưa chú thích trong đó có ghi eo biển Quảng Nam và đảo Thất Châu Dương cùng bản đồ Việt Nam


Thông qua tư liệu đã nêu ở cuốn sách này, giúp chúng ta có thêm những bằng chứng quý giá để góp phần khẳng định ngay từ thời nhà Thanh, các bản đồ của Trung Quốc đã vẽ các đảo trên vùng biển của họ chỉ có đảo Hải Nam, Đài Loan là gần với khu vực biển Việt Nam. Điều đó khẳng định Hoàng Sa, Trường Sa (biển Thất Châu Dương, theo tên gọi trên bản đồ Trung Quốc thời nhà Thanh) là thuộc chủ quyền biển đảo của Việt Nam.

unnamed (1)
Nhà Hán học Nguyễn Tiến Đoàn dịch sách Danh hoàn Chí lược
(source from DuyTracAuOanh’s Blog)

PhanNguyênLuân… tổng hợp/thực hiện

  ĐƯỜNG LINK THAM KHẢO:

https://cuuhocsinhphuyencom.wordpress.com/2015/11/13/da-co-sach-trung-quoc-khang-dinh-hoang-sa-truong-sa-la-cua-viet-nam/

-----

Thứ Năm, 21 tháng 7, 2016

Một nhà tu hành gốc Việt gây chấn động dư luận phương Tây

Một nhà tu hành gốc Việt gây chấn động dư luận phương Tây





Câu chuyện dưới đây không phải người Việt Nam nào ở trong nước cũng biết. Mà câu chuyện đó đã trôi qua tới 5 năm rồi. 

Bữa nay thư email bạn bè gửi chia sẻ bài viết này, blog tôi trân trọng giới thiệu để bà con "cái xóm blog nhỏ" của tôi cùng biết và tự ngẫm ngợi...

Vệ Nhi

-------



Description: https://mail.google.com/mail/u/0/images/cleardot.gif
Bài phỏng vấn chấn động phương Tây của thiền sư Thích Nhất Hạnh



Khi thiền sư Thích Nhất Hạnh tới Canada vào năm 2011, nhà báo Andrea Miller đã có cuộc phỏng vấn riêng với ông và bài viết đã gây nhiều tiếng vang ở đất nước này, cũng như tại nhiều quốc gia phương Tây.


Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Sau khi thầy Thích Nhất Hạnh trở lại Vancouver, hai sư cô đưa tôi vào căn phòng khách trong một khu ký túc xá của Đại học British Columbia. Tại đây, ngoại trừ một lọ hoa lan nằm trên bàn, mọi thứ còn lại đều có màu nâu đất.

Thầy Thích Nhất Hạnh mặc áo tu hành màu nâu, chậm rãi nhâm nhi một tách trà có màu vàng nâu, trong khi các nhà sư khác đang ngồi gần đó trên những chiếc ghế bành và thảm màu nâu giản dị.

Sư cô Chân Không giới thiệu tôi với thầy rồi mỉm cười và nói rằng tôi là một sự bất ngờ nhỏ với họ. Khi tôi đề nghị được thực hiện cuộc phỏng vấn này, tất cả đều không nghĩ rằng “Andrea Miller” là cái tên của một phụ nữ nên đều mong chờ một vị khách nam giới.

Nhưng sau cuộc phỏng vấn này, tôi mới là người bị bất ngờ, bởi những điều hay lẽ phải mà thầy Thích Nhất Hạnh giảng cho tôi, từ cuộc sống sau cái chết, cho tới niềm vui của việc ngồi thiền và về sự tồn tại hay không tồn tại.

Thầy đã mang tới những câu trả lời mà tôi không ngờ tới, rất mới mẻ và chứa đầy sự thông tuệ. Và đây là những gì ông đã trao đổi với tôi.

Khi những người được chúng ta yêu quý gặp vấn đề lớn, như bị tâm thần, bị chấn thương tâm lý hoặc nghiện ngập thứ gì đó, cảm giác sẽ vô cùng đau đớn. Đôi khi ta có thể cảm thấy như vấn đề mà họ đang đối mặt quá lớn, tới mức không còn muốn giúp đỡ họ nữa.

Thậm chí ta còn muốn chạy trốn khỏi họ cùng vấn đề họ đang đối mặt. Nhưng cũng có lúc chúng ta cố giúp và rồi bị cuốn vào vấn đề của họ. Vậy chúng ta có thể làm gì để giúp những người ở trong hoàn cảnh khó khăn mà không bị choáng ngợp bởi vấn đề của họ?

- Khi cảm thấy bị ngợp với vấn đề của người khác thì có lẽ bạn đã làm quá sức. Thứ năng lượng đó không giúp đỡ người khác và hiển nhiên là không giúp ích gì cho bạn. Bạn không nên quá vội vã giúp đỡ người khác. Có hai điều ở đây mà ta cần lưu ý: Cuộc sống và hành động.

Đừng nghĩ quá nhiều về việc phải làm ngay điều gì đó cho người khác - cần phải đặt vấn đề cuộc sống của bản thân mình lên trước. Cuộc sống của bạn phải an lành, phải vui vẻ, hạnh phúc. Khi đó bạn mới có thể hành động để tạo ra niềm vui và hạnh phúc.

Bởi vậy, trước tiên bạn phải tập trung vào việc rèn luyện cuộc sống của mình. Sống sao thật tươi vui, thật an lành. Sống quan tâm tới người khác. Sống hào phóng và biết cảm thông. Đây là các nguyên tắc cơ bản.

Chuyện cũng giống như khi ta ngồi dưới gốc một cái cây vậy. Cái cây chẳng phải làm gì, trừ việc sống khỏe mạnh và tươi tắn, nhưng vẫn khiến ta thấy dễ chịu. Khi bạn sống như cái cây đó và lan tỏa làn sóng tươi mới, bạn đã giúp giảm bớt sự khổ đau của những người khác rồi.

Cuộc sống của bạn phải đầy sự hài lòng, phải an lành và bạn nên có mặt khi người khác cần tới mình. Chừng đó đã là rất nhiều rồi. Khi trẻ con tới gần và ngồi bên bạn, đó không phải là vì bạn có nhiều bánh kẹo để cho chúng, mà bởi ngồi gần bạn mang tới cảm giác dễ chịu và tươi mới.

Vì thế, hãy ngồi cạnh một người đang đau khổ và hãy cố hết sức để làm những điều bạn có thể làm tốt nhất: Thể hiện sự dễ chịu, quan tâm, tươi mới.

Nếu đang có một cảm xúc khó khăn trong tâm hồn, như tức giận hoặc buồn bã sâu sắc và tôi (xử lý chúng bằng cách) cố tập trung điều hòa nhịp thở của mình thì liệu đó có phải là hành động né tránh cảm xúc của bản thân không?

- Thường thì mọi người dễ đánh mất bản thân mình trước những cảm xúc mạnh và bị chúng choán hết tâm trí. Đó không phải là cách để ta chế ngự cảm xúc, bởi khi chuyện xảy ra như thế, bạn sẽ là nạn nhân cuả cảm xúc.

Để tránh không trở thành nạn nhân, hãy hít thở, tĩnh tâm và rồi bạn sẽ nhìn sâu vào bên trong con người mình, thấy rằng cảm xúc cũng chỉ là cảm xúc mà thôi, không hơn. Việc nhìn sâu vào trong tâm hồn mình là rất quan trọng, bởi bạn sẽ không còn sợ hãi nữa.

Bạn sẽ bình tĩnh và không còn muốn chạy trốn nữa. Bạn sẽ xử lý tốt hơn các cảm xúc. Hãy xem hơi thở chính là con người bạn. Bạn cần có sự liên kết với hơi thở để trở thành chính mình một cách tốt hơn, để mạnh mẽ hơn.





Rồi bạn sẽ chế ngự cảm xúc tốt hơn. Bạn không nên tìm cách quên đi cảm xúc của mình. Thay vì thế, hãy sống thật với chính mình, dần dần bạn sẽ trở nên cứng rắn và mạnh mẽ để xử lý cảm xúc của mình.

Thật ấm áp khi thấy rất nhiều đứa trẻ xuất hiện ở chốn tu hành.

- Tôi cảm thấy thoải mái với trẻ con. Tôi chưa từng cắt đứt quan hệ của mình với thế hệ trẻ. Tôi luôn giao tiếp với thế hệ trẻ, dù các em sống trong chốn tu hành hay ngoài cuộc sống. Đó là một trong những yếu tố chủ chốt trong niềm hạnh phúc của tôi.

Đôi khi các bà mẹ trẻ đưa con của mình vào chùa nghe giảng pháp. Đó là hoạt động nuôi dưỡng tâm hồn rất tốt với mọi người.

Những đứa trẻ có thể không hiểu chuyện gì đang diễn ra, nhưng chúng cảm nhận được bầu không khí an lành. Thứ năng lượng an lành đó rất hiếm hoi trong xã hội - càng hiếm hơn khi có tới 500 người ngồi xuống và cùng nhau tạo ra bầu không khí đầy sự an yên.

Nếu bạn cho con cái tiếp xúc với sự an lành và tình yêu, dù rằng chúng rất nhỏ và chưa hiểu lời lẽ thì điều đó không có nghĩa chúng không cảm nhận được gì. Hãy tưởng tượng một bà mẹ trẻ đang cho con bú trong một buổi giảng pháp. Bà mẹ nghe và thấu hiểu những lời lẽ của buổi giáng pháp.

Về phần mình, đứa trẻ sẽ vừa uống sữa mẹ, vừa hấp thu phật pháp qua dòng sữa. Đó là một cảnh tượng rất đẹp. Sau này, khi đứa trẻ vấp phải nhiều điều nghiệt ngã trong cuộc sống, chúng sẽ nhớ rằng đã từng có thời gian được tiếp xúc với năng lượng tích cực.

Khi những người tu hành cùng nhau hành lễ, họ luôn tạo ra một năng lượng tích cực mà người trẻ có thể cảm nhận và năng lượng này giúp tạo ra các hạt giống cho tương lai.

Đạo Phật luôn cố gắng mang năng lượng tích cực này tới nhiều chốn khác nhau, từ các ngôi trường, các bệnh viện cho tới các tòa thị chính.

- Liệu cuộc sống tu hành có xung đột với việc thưởng thức truyền thông không? Liệu chúng ta có thể vừa toàn tâm hướng tới Phật giáo, vừa vui vẻ tận hưởng Internet, TV, các bộ phim và cuốn sách?

- Có những cuốn sách và phim hay mà bạn có thể thưởng thức. Điều này là bình thường - thưởng thức chúng hoàn toàn tốt.

Đôi khi chất lượng của một bộ phim hoặc cuốn sách lại không tốt. Tuy nhiên bạn không nên tắt đi hay ngừng đọc sách vì nếu làm vậy, bạn có thể sẽ hồi tưởng và nhớ lại những khổ đau bên trong tâm hồn mình.

Đó là điều mà rất nhiều người trong xã hội chúng ta đang làm. Nhiều người không thể là chính mình. Họ có nỗi đau, nỗi buồn hoặc lo lắng bên trong và họ đọc sách hoặc nghe nhạc chỉ để che giấu chúng, để chạy trốn khỏi bản thân mình.

Thưởng thức truyền thông theo cách thức như vậy chỉ là hành động trốn chạy và nó không có tác động lâu dài. Bạn có thể tạm quên đi nỗi khổ đau nhưng cuối cùng sẽ phải trở lại chính mình. Phật dạy rằng chúng ta không nên chạy trốn bản thân mình, thay vì thế phải chăm sóc bản thân và biến đổi nỗi đau.

Ngài sẽ nói gì với người thấy rằng ngồi thiền là chuyện rất khổ sở, khó khăn và họ phải chật vật để làm những điều này?

- Đừng ngồi thiền nữa.

Thật vậy sao?

- Đúng vậy. Nếu bạn không cảm thấy thoải mái khi ngồi thiền thì đừng làm thế nữa. Bạn phải nắm bắt chính xác tinh thần của việc ngồi thiền. Nếu phải cố gắng quá mức khi ngồi thiền, bạn sẽ trở nên căng thẳng và điều này khiến cơ thể bạn đau đớn.

Ngồi thiền phải mang tới cảm giác dễ chịu. Khi ngồi xem truyền hình trong phòng khách, bạn có thể ngồi xem suốt nhiều giờ mà chẳng khổ sở gì cả. Thế mà khi ngồi thiền, bạn lại thấy khổ sở? Vì sao? Vì bạn đang phải cố gắng làm vậy.

Bạn muốn ngồi thiền thành công nên phải chiến đấu (với chính mình). Khi xem TV bạn chẳng phải chiến đấu với ai cả. Bạn phải học cách ngồi thiền mà không phải chiến đấu chống ai cả. Nếu bạn biết cách ngồi thiền như vậy, việc thiền sẽ mang lại cảm giác rất dễ chịu.

Khi Nelson Mandela ghé thăm Pháp một lần, một phóng viên đã hỏi rằng ông thích làm điều gì nhất. Ông nói rằng mình rất bận nên điều thích làm nhất là ngồi không và chẳng làm gì cả. Bởi ngồi không và chẳng làm gì là một niềm hạnh phúc - bạn sẽ hồi phục bản thân mình.

Đó là lý do vì sao Phật mô tả thiền giống như ngồi trên một bông hoa sen vậy. Khi ngồi thiền, bạn cảm thấy nhẹ nhõm, tươi mới, tự do. Và nếu không cảm thấy những điều này thì thiền sẽ trở thành một dạng lao động khổ sai với bạn.

Đôi khi nếu bạn không ngủ đủ giấc hay bị cảm lạnh hay gặp điều gì đó khác về sức khỏe, ngồi thiền có thể không mang tới cảm giác hài lòng như bạn mong muốn. Nhưng nếu bạn cảm thấy bình thường, thì trải nghiệm thoải mái khi ngồi thiền là điều luôn có thể xảy ra.

Vấn đề không phải là ngồi thiền hay không, mà là ngồi thiền như thế nào. Ngồi thiền như thế nào để thu được nhiều nhất lợi ích có thể - nếu không bạn chỉ đang phí thời gian mà thôi.

Ông nhấn mạnh rất nhiều tới sự vui thích - thở một cách vui thích, thiền, đi đứng và tận hưởng cuộc sống cùng nhau một cách vui thích - nhiều hơn hẳn các sư thầy khác trong Phật giáo.

- Trong hoạt động giảng dạy Phật pháp, sự thoải mái và niềm vui là các yếu tố giúp mang tới sự giác ngộ. Trong cuộc sống có rất nhiều sự khổ đau. Tại sao bạn phải rước thêm sự khổ đau nữa khi tu theo đạo Phật. Bạn tu theo đạo Phật để bớt khổ đau, đúng không nhỉ? Đức Phật là người hạnh phúc.




Khi Phật ngồi, ngài ngồi một cách hạnh phúc. Khi ngài đi, ngài cũng đi một cách vui vẻ. Tại sao tôi lại muốn làm khác so với Đức Phật?

Có thể nhiều người đã lo sợ trước lời nói của kẻ khác, rằng "Anh/chị tu tập chưa nghiêm túc. Anh/chị cười cợt và vui vẻ quá mức. Khi tu tập anh chị phải nghiêm mặt, rất nghiêm túc".

Có lẽ chỉ những người muốn có thêm tiền công đức mới nói như thế, để tạo cảm giác rằng họ thực hiện việc tu hành nghiêm túc hơn so với kẻ khác.

Hãy lấy ví dụ về việc ngồi thiền suốt đêm. Bạn không được phép nghỉ ngơi và nghĩ rằng tu như thế mới là chăm chỉ. Nhưng bạn khổ sở cả đêm và phải uống cà phê chỉ để tỉnh táo. Thật vớ vẩn.

Chất lượng khi ngồi thiền mới là thứ giúp bạn biến đổi, chứ không phải ngồi thiền thật nhiều và khổ sở khi làm vậy. Ngồi thiền là hoạt động mang tới niềm vui và còn là cơ hội để ta có được tuệ quán. Tuệ quán có thể giải phóng chúng ta khỏi nỗi sợ, sự tức giận và tuyệt vọng.

Tôi thực sự rất thích việc hành thiền ngoài trời mà chúng ta thực hiện lần này.

- Thường thì theo truyền thống Phật giáo, bạn ngồi rồi đứng dậy và thực hiện việc đi bộ chậm rãi tại khu vực thiền, sau đó bạn lại ngồi xuống. Ở đây chúng tôi không làm thế. Thay vì vậy, chúng tôi thực hiện hành thiền ngoài trời. Việc này rất hữu ích vì bạn có thể áp dụng trong cuộc sống thường nhật.

Bạn đi bộ bình thường - không quá chậm - nên người khác không biết bạn đang hành thiền và tưởng như bạn đang thực hiện một hành động bình thường. Và rồi khi bạn đi về nhà, hoặc từ bãi đỗ xe tới văn phòng, bạn có thể làm điều đó một cách vui thích.

Nền tảng tập luyện cơ bản là làm sao để vui thích - làm sao để cảm thấy vui khi đi, khi ngồi thiền, ăn uống và tắm giặt. Hoàn toàn có thể khiến mọi người đều vui thích, nhưng xã hội của chúng ta được tổ chức theo cách thức ta không còn thời gian để vui thú nữa. Chúng ta phải làm mọi thứ quá nhanh.

Ông nghĩ rằng điều gì sẽ khiến ai đó trở thành tín đồ Phật giáo?

- Một người có thể không được gọi là tín đồ Phật giáo, nhưng anh ta vẫn có nhiều phẩm chất Phật giáo hơn cả một tín đồ. Phật giáo tạo thành từ niệm, định và tuệ. Nếu có những đặc điểm này, bạn đã là một người theo Phật giáo rồi. Nếu không thì không phải vậy.

Khi bạn nhìn vào một người và thấy người đó có niệm, định và tuệ thì bạn biết rằng đó là một người theo đạo Phật. Nhưng ngay cả khi đó là một ni cô và người này thiếu các năng lượng, phẩm chất kể trên thì khi đó cô ta chỉ có ngoại hình của một người theo đạo Phật chứ không có cái cốt cách của một người theo đạo Phật.

Liệu việc thường xuyên hành lễ có thể biến ai đó thành người theo đạo Phật?

- Không, bạn không thể thành người theo Phật giáo chỉ bằng việc hành lễ. Để làm vậy bạn phải chăm tu tập. Người theo đạo Phật hiện vướng vào khá nhiều nghi thức, lễ bái, nhưng Đức Phật không thích điều này.

Trong các đoạn kinh Phật, đặc biệt là những lời răn dạy của Đức Phật ngay sau khi ngài trở nên giác ngộ, ngài nói rằng chúng ta phải thoát khỏi các nghi lễ. Bạn không thể trở nên giác ngộ và giải thoát chỉ nhờ thực hiện lễ bái.

Nhưng người ta đã khiến đạo Phật đi tới chỗ có quá nhiều nghi lễ. Chúng ta đã cư xử không hay với Đức Phật.

Liệu người ta có phải tin vào sự tái sinh để trở thành một người theo đạo Phật?

- Tái sinh có nghĩa một linh hồn rời khỏi cơ thể bạn và đi vào thể xác khác. Đây là suy nghĩ rất phổ biến, nhưng lại rất sai lầm về sự nối tiếp trong Phật giáo. Nếu bạn nghĩ rằng có một linh hồn, một bản ngã, tồn tại trong một thể xác và linh hồn đó thoát ra ngoài khi thể xác không còn nữa và rồi biến thành một dạng sống khác, thì đó không phải là lối tư duy của Phật giáo.

Khi bạn nhìn vào ai đó, bạn sẽ thấy ngũ uẩn, hay các yếu tố tạo thành con người: Sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn. Không có linh hồn, thể xác nào bên ngoài 5 yếu tố này.

Vì thế khi 5 yếu tố này tan rã, thì nhân quả hay các hành động mà bạn đã thực hiện trong cuộc sống chính là sự tiếp nối của bạn. Những gì bạn đã làm và suy nghĩ vẫn sẽ còn đó như một dạng năng lượng. Bạn không cần một linh hồn hoặc một thể xác, để tiếp nối.

Chuyện giống như một đám mây vậy. Ngay cả khi đám mây không có ở đó, trời vẫn tiếp tục mưa hay có tuyết. Đám mây không cần phải có một linh hồn để nối tiếp. Không có sự khởi đầu và cũng chẳng có kết thúc. Bạn không phải chờ cho tới khi thân xác này tan thành cát bụi mới có thể tiếp nối. Thực ra bạn đã tiếp nối trong từng khoảnh khắc.

Giả dụ như tôi đã truyền năng lượng tới hàng trăm người, họ sẽ tiếp nối tôi. Nếu nhìn vào họ và bạn thấy (hình bóng) tôi hiện ra thì thực sự bạn đang trông thấy tôi đó. Nếu bạn nghĩ rằng tôi chỉ là thể xác này (ngài chỉ tay vào mình) thì bạn vẫn chưa trông thấy tôi đâu.

Khi bạn thấy tôi trong các bài phát biểu, bạn hiểu rằng người khác đã tiếp nối cuộc sống của tôi. Khi bạn nhìn vào các học trò, các đệ tử, những cuốn sách và bạn bè tôi, bạn sẽ thấy sự tiếp nối của chính tôi.

Tôi sẽ không bao giờ chết. Thân xác này có thể tan thành cát bụi, nhưng điều đó không có nghĩa tôi đã chết. Tôi sẽ tiếp tục (sống mãi), luôn là như vậy.
Và điều này là đúng với tất cả chúng ta.

- Chúng ta có thể làm gì với mức độ chủ nghĩa vật chất rất cao đang tồn tại hiện nay?

- Bạn có thể thiết lập một môi trường nơi người ta sống đơn giản, hạnh phúc và mời những người khác tới quan sát. Đó là điều duy nhất có thể thuyết phục họ từ bỏ ý tưởng hạnh phúc dựa trên vật chất.

Họ luôn nghĩ rằng chỉ khi có rất nhiều thứ để tiêu thụ, người ta mới hạnh phúc. Nhưng rất nhiều người không hạnh phúc dù họ rất giàu có. Và rồi còn có những người tiêu thụ rất ít, song họ hạnh phúc hơn rất nhiều những người kia.

Chúng ta phải thể hiện được rằng sống đơn giản kết hợp với tu tập theo Phật pháp mang tới một cuộc sống rất đủ đầy, bởi người ta sẽ không thể tin tưởng cho tới khi họ tận mắt chứng kiến và trải nghiệm.

Tại Làng Mai, chúng tôi đã cười đùa vui vẻ suốt cả ngày, nhưng không một ai trong số chúng tôi có tài khoản ngân hàng thuộc sở hữu cá nhân. Không ai trong số chúng tôi có xe hơi hoặc điện thoại riêng. Chúng tôi chỉ ăn chay. Nhưng chúng tôi không khổ sở vì việc không ăn trứng, thịt.

Thực tế chúng tôi hạnh phúc hơn nhiều vì biết rằng mình không ăn các sinh vật sống và đang bảo vệ hành tinh này. Điều đó mang tới rất nhiều niềm vui. Chúng tôi rất may mắn khi có thể sống như vậy, có thể ăn như vậy.

Có một niềm tin rằng trừ phi anh có rất nhiều tiền, trừ phi anh nắm vị trí cao trong xã hội, anh sẽ không thể hạnh phúc. Rất khó để thoát khỏi niềm tin này cho tới khi bạn thấy sự thực rằng sự hạnh phúc có thể tới theo cách thức khác. Nhìn thấy điều đó sẽ đảm bảo tương lai cho con cháu chúng ta.

Vì thế tôi nghĩ tới các vòng tròn luân hồi trong Phật giáo, nơi chúng ta có thể tái tổ chức lại để cho mọi người thấy cách thức sống hạnh phúc dựa trên sự thấu hiểu lẫn nhau, không dựa trên chủ nghĩa vật chất.

Chỉ giảng Phật pháp vẫn chưa đủ, bởi giảng pháp vẫn chỉ là lời nói mà thôi. Chỉ khi người ta thấy những thứ như một cộng đồng phi vật chất, khi tận mắt chứng kiến một cách sống như thế, họ mới thực sự bị thuyết phục và tin tưởng.

 Nguồn: Email bạn bè gửi 






Description: https://plus.google.com/u/0/_/focus/photos/public/AIbEiAIAAABECLHWhs2Bw72LygEiC3ZjYXJkX3Bob3RvKig4ZmVmM2JiYTBhNTIzZmYzMmI3ZTM2Y2I2NjAwN2E5NjVkNmVmZDFkMAHSVDyrY97EAVDqKtjQs_Jucv7Cog?sz=24Description: https://plus.google.com/u/0/_/focus/photos/public/AIbEiAIAAABDCMG0rLqS2_bpISILdmNhcmRfcGhvdG8qKDcxZGNiOTgwNDFmNzllMjg3NmJjOTZiZTBkZmM3YzE1YTNjMDRlNDAwASCVUzSwTtKAc-4n7gPd65kp1N-s?sz=24
17 khác

Minh Pham Gia








  Việt Nam trước các nguy cơ tiềm ẩn khó lường Nguyễn Quang Dy Trong bối cảnh thế giới đang biến động khó lường, các nước đang chuyển đổi nh...