Chủ Blog tôi vừa đây nhận được bài viết mới của Nguyễn Quang Dy.
Từ những sự kiện lớn của thế giới và trong nước, như Brexit bên châu Âu đến chuyện cá chết đã công bố thủ phạm ở Việt Nam và các biến chuyển khác trên thế giới đều được tác giả nhắc đến với những phân tích và nhận xét rất riêng và sắc sảo.
Đây là văn bản mà tác giả gửi cho blog tôi với vài ghi chú là đã sửa chữa lại một số chỗ cho rõ nghĩa và hoàn chỉnh hơn sau khi người viết ra nó đã chuyển bài đi một số địa chỉ bạn bè...
Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn bè đọc tham khảo.
Vệ Nhi
--------
Ngày Phán quyết & Khủng hoảng Lòng tin
Nguyễn Quang Dy
“Sự kiện, các bạn,
sự kiện!” (Harold Macmillan)
Có những sự kiện
làm thay đổi dòng chảy lịch sử và số phận các chính khách, dẫn đến hệ quả khôn
lường. Có những ngày phán quyết (day of reckoning) làm khủng hoảng lòng tin hay
khôi phục lòng tin. Hãy lấy vài ví dụ để minh họa.
Brexit & tương lai nước Anh
Cuộc trưng cầu
dân ý về “Brexit” tại nước Anh (23/6/2016) là một ví dụ điển hình. Xã luận báo
Observer (26/6/2016) đã gọi sự kiện này là một “siêu bão” (mega storm / super
typhoon) làm thay đổi đột ngột bức tranh chính trị, kinh tế, xã hội của nước
Anh. Nó làm bộc lộ một đất nước đang bị chia rẽ sâu sắc, do những khác biệt của
dân chúng về thu nhập, giáo dục, dân tộc và địa lý… Phe ly khai của Ukip (UK
Independence Party) đã tạo ra một cơn sốc chính trị lớn nhất Châu Âu, kể từ sau
sự kiện Bức tường Berlin bị sụp đổ.
Sau siêu bão này là một đất nước được
mô tả với đặc điểm nổi bật là “bấp bênh và bất ổn định”. Trước mắt nước Anh là
một con đường đầy bất ổn cho người dân, với một sự dẫn dắt không đáng tin cậy.
Bức tranh nước Anh đã bị thay đổi triệt để về gam màu chính trị, mang nhiều
thương tích do hệ quả khôn lường của cơn bão Brexit.
Vừa hoảng hốt vì
sợ phe Ukip trỗi dậy, vừa bị những nghị sĩ “backbenchers” trong đảng Bảo thủ
(Tory) ép, nên năm 2013 thủ tướng Cameron phải hứa sẽ trưng cầu dân ý, mà không
nghĩ đến hậu quả. Có thể Cameron sẽ đi vào lịch sử như là người đã gây ra sự đổ
vỡ của nước Anh. Cameron kêu gọi trưng cầu dân ý để gạt bỏ sự chống đối của
Ukip, nhưng khi dân Anh đổ xô đi bầu với tỷ lệ cao nhất trong 20 năm qua, thì
chính Cameron lại bị Ukip gạt bỏ (buộc phải từ chức).
Câu chuyện không phải đơn giản chỉ
vì những sai lầm của Cameron. Cái gương phản chiếu bộ mặt nước Anh bị rạn vỡ đã
bộc lộ một cộng đồng cử tri bị ám ảnh quá nhiều bởi những bất mãn và lo ngại
riêng, hơi khác so với những xã hội Châu Âu khác cũng bị sa sút tương tự. Câu
chuyện không phải chỉ là vấn đề của Châu Âu, mà là về những nhóm cử tri Anh bị
gạt ra lề, về những cộng đồng bị rạn nứt, về các dịch vụ công không đủ kinh
phí, về những trường học và bệnh viện hoạt động kém…
Đó còn là vấn đề định dạng quốc gia
(national identity), về cái hố ngăn cách Bắc – Nam, về khoảng cách giàu –
nghèo, về những chính sách phúc lợi và cắt giảm chi tiêu làm người dân mất hết
hy vọng và làm nhiều gia đình tan vỡ, về câu chuyện dài của một xã hội bị rạn nứt
và xuống cấp (decay). Cuộc trưng cầu dân ý lần này đã trở thành một cơ hội để
người dân Anh bộc lộ sự bực tức của họ làm tổn thương đến giới cầm quyền mà
theo họ là vô trách nhiệm và không để ý đến người dân.
Đối với người dân, dường như không
có ai trong Điện Westminster (Quốc hội) hiểu hoặc để ý đến họ. Cũng chẳng có ai
trong Downing Street (Chính phủ) hiểu hơn và đồng cảm với họ về những phân hóa
đang làm rạn nứt đất nước này. Theo họ, chính quyền cũng phải chịu trách nhiệm
về thái độ tự mãn và vô cảm đó.
Nhưng lãnh đạo phái Brexit cũng
không có chút khái niệm gì là họ phải làm thế nào tiếp theo, chưa nói gì đến phải
làm thế nào để thực hiện những lời hứa vô trách nhiệm của họ. Họ đã mù tịt và
không hiểu rõ các nền kinh tế và các công ty toàn cầu hoạt động thế nào. Quan
điểm biệt lập (isolationism) có thể làm tổn hại hơn cho những người dân mà họ
kêu gọi ủng hộ, với khẩu hiệu mỵ dân, “giành lại đất nước của mình” (take your
country back).
Câu hỏi cấp bách lúc này là hệ quả
của nó sẽ dẫn đất nước đến đâu? Thật đáng lo ngại là dường như những người theo
phái Brexit chẳng chuẩn bị gì cả. Liệu đây có phải là một thắng lợi của “những
người dân Anh thầm lặng” đã đứng lên chống lại “giai cấp thống trị xa dân”? Có
lẽ không phải như vây! Đó chính là bi kịch.
Một số lãnh đạo Châu Âu cũng đang
lo ngại về sự lây lan và ủng hộ việc đàm phán một cách cứng rắn với nước Anh về
quá trình rút khỏi EU, để răn đe những nước khác có ý định tương tự. Cộng đồng
Châu Âu có lẽ là thành quả dân chủ vĩ đại nhất thời hậu chiến, nay đang gặp
nguy hiểm. Tuy còn quá sớm để tiên liệu về hệ quả của sự kiện phức tạp này, trước
khi người Anh bắt đầu thủ tục rút khỏi EU bằng cách khởi động “điều 50” trong
Hiến pháp EU, nhưng cơn bão Brexit đã cảnh báo sự đổ vỡ nguy hiểm và hỗn loạn
tiếp theo, có sức hủy hoại khôn lường.
Donald Trump & chính trị nước Mỹ
Thắng lợi của
phái “Brexit” mà đại diện là Boris Johnson (nguyên thị trưởng London, có khả
năng thay Cameron) và thắng lợi của ứng cử viên Đảng Cộng hòa Donald Trump (tại
Mỹ) có cùng mẫu số chung. Cả hai đều cơ hội và thực dụng, đều theo phái dân túy
hữu khuynh, biết khai thác khủng hoảng lòng tin của người dân và những bất ổn
xã hội. Họ biết cưỡi trên làn sóng tức giận của người dân lao động bị toàn cầu
hóa gạt ra lề. Đây không phải chỉ là vấn đề của nước Mỹ hay nước Anh. Theo một
khảo sát gần đây, chỉ có 31% người Pháp trên 50 tuổi ủng hộ EU.
Donald Trump và Nigel
Farage (lãnh đạo Ukip) không phải tự nhiên xuất hiện. Họ đều là “đại gia” nhưng
biết “gần dân” (dân túy), khéo lợi dụng bức xúc và bất mãn của người lao động
và trung lưu. Mẫu số chung giúp họ thành công là biết lợi dụng phân biệt chủng
tộc. Hay nói cách khác là họ lợi dụng chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa biệt lập,
với khẩu hiệu mỵ dân, “Mỹ trước hết” hay “giành lại đất nước của mình”.
Phân biệt chủng
tộc và chủ nghĩa dân tộc đã có từ lâu, không có gì mới. Nhưng Donald Trump (và
Bernie Sanders) đã khéo lợi dụng tâm trạng lo lắng và bức xúc của dân chúng về
bức tranh kinh tế, và đổ lỗi cho quá trình toàn cầu hóa và thương mại tự do.
Tuy không thể ủng hộ thái độ phân biệt chủng tộc, phân biệt nam nữ, và bài ngoại
của Donal Trump, nhưng cũng không thể phủ nhận được lý do nhiều cử tri ủng hộ
Donal Trump vì bức xúc bởi họ trở thành nạn nhân của quá trình toàn cầu hóa,
trong khi lại bị những người được hưởng lợi từ quá trình đó coi thường và miệt
thị.
Thắng lợi của
phái Brexit đã chấm dứt câu chuyện toàn cầu hóa và thương mại tự do (ít nhất là
như hiện nay). Kết quả dân chúng bỏ phiếu cho Donald Trump (và Brexit) chứng tỏ
có một xu thế muốn phủ nhận tác dụng của toàn cầu hóa. Những người dân da trắng
không có bằng đại học bị mất việc và bị thiệt thòi do quá trình toàn cầu hóa và
nhập cư, cảm thấy bức xúc và bất lực, nên đã đổ xô bỏ phiếu cho Donald Trump
(và Brexit).
Với việc bỏ phiếu
cho Brexit, phong trào dân túy đã thành công, đảo ngược xu thế hội nhập kinh tế
mấy thập kỷ trước. Câu hỏi là “Toàn cầu hóa còn tác dụng hay không” (“Can
Globalization still Deliver”, David Lipton at IMF). Phải chăng đến lúc phải “cải
cách toàn cầu hóa” để nó có lợi cho mọi người? Phải chăng kinh tế toàn cầu đang
đứng trước một nghịch lý kép rất khó hòa giải, gồm ba xu hướng (trilemma) là
“dân chủ”, “chủ quyền quốc gia” và “hội nhập kinh tế toàn cầu”, trong đó chỉ có
thể chọn hai chứ không thể chọn cả ba. (“Inescapable Trilemma of the World
Economy”, Dani Rodrick at Harvard). Trong khi đó, một nhà kinh tế học khác là
Larry Summers (nguyên cố vấn kinh tế cho Obama) lại đề xuất “Chủ nghĩa Dân tộc
có Trách nhiệm” (Responsible Nationalism), chú trọng đến công nhân trong nước.
Thắng lợi của
Donald Trump còn cho thấy một thực tế là người dân Mỹ không muốn mất tiền cho
những kế hoạch tốn kém ở những khu vực khác trên thế giới. Dù Hillary Clinton
có thắng cử thì cũng khó lòng đảo ngược được xu thế này để tăng cường sự có mặt
của Mỹ ở Châu Á. Mặc dù Tổng thống Obama ra sức vận động (trước khi hết nhiệm kỳ),
chưa chắc TPP sẽ được Quốc hội Mỹ thông qua. Bản thân Hillary Clinton vừa rồi
cũng phải điều chỉnh lập trường về TPP vì sức ép tranh cử do phải đấu với
Bernie Sanders. Nhưng nếu “Mỹ giết chết TPP thì Trung Quốc sẽ trở thành trung
tâm kinh tế toàn cầu”. Đó là cảnh báo của Kishore Mahbubani (Hiệu trưởng Trường
Chính sách Công Lý Quang Diệu tại Singapore)
PCA & bàn cờ Biển Đông
Có thể gọi phán
quyết của PCA (Permanent Court of Arbitration) là “phiên tòa của thế kỷ” (Trial
of the Century). Tại sao? Vì phán quyết của PCA (12/7/2016) liên quan đến thái
độ hung hãn của Trung Quốc đối với tàu thuyền Philippines gần Scarborough
Shoal, cũng như việc Trung Quốc xây đắp hải đảo tác động đến môi trường sinh
thái gần Scarborough & Thomas shoals (thuộc Trường Sa). Ngoài ra, những vấn
đề then chốt khác liên quan đến lập trường ngang ngược của Trung Quốc về “đường
chín đoạn” và lập luận bất minh của họ về “bằng chứng lịch sử” (historical
rights) sẽ được phán quyết.
Những phán quyết
này có ý nghĩa rất lớn. Thứ nhất, không phải chỉ có Philippines mà các nước đòi
chủ quyền khác ở Biển Đông cũng có thể kiện tương tự như một mặt trận pháp lý
(lawfare) để ép Trung Quốc phải nhân nhượng. Thực tế, vụ kiện của Philippines
đã mở ra một loạt vụ kiện khác (lawfare multiplier). Indonesia đang bỏ dần lập
trường trung lập đối với tranh chấp tại Biển Đông, có thể kiện Trung Quốc. Việt
Nam đã tăng cường quan hệ quốc phòng với Mỹ, cũng dọa sẽ làm tương tự nếu Trung
Quốc tiếp tục lấn chiếm hải đảo. Thứ hai, (còn quan trọng hơn) là phán quyết của
PCA sẽ cung cấp cơ sở pháp lý để Mỹ và các nước khác như Nhật cùng triển khai
tuần tra “Tự do Hàng hải” (FONOP) thường xuyên tại Biển Đông.
Trong
khi một số nước ASEAN (Indonesia và Malaysia) nay tỏ ra cứng rắn hơn đối với
Trung Quốc, một số nước khác (Campuchia và Lào) lại bị phân hóa nhiều hơn do sức
ép lớn của Trung Quốc, vì lợi ích kinh tế hay vì sợ, nên các nước này đang tách
ra để ủng hộ lập trường của Trung quốc, thậm chí công khai phủ nhận phán quyết
của PCA. Xu hướng này làm rạn nứt ASEAN như một cộng đồng thống nhất, để đối
phó và kiềm chế Trung Quốc trỗi dậy như mối đe dọa tại Biển Đông. Quan hệ ngày
càng xấu đi giữa Việt Nam và Campuchia đang làm tăng thêm mối lo ngại về khả
năng xảy ra xung đột biên giới như trước đây.
Tổng thống mới
Rodrigo Duterte tỏ ra quan tâm đến triển vọng Trung Quốc có thể đầu tư hạ tầng
lớn cho Philippines, mặc dù điều đó có thể phương hại đến tranh chấp chủ quyền
tại Biển Đông. Tuy vậy, phán quyết của PCA cũng có lợi cho Manila như một đòn bẩy
để giúp Chính quyền Duterte đàm phán với Trung Quốc. Điều đáng nói là Duterte
có dấu hiệu muốn xa rời lập trường cứng rắn của người tiền nhiệm trong tranh chấp
chủ quyền, để đánh đổi lấy lợi ích kinh tế do hợp tác với Trung Quốc, và xoay
trục tách xa dần Mỹ và Nhật. Lập trường này của Duterte có thể sa vào cái bẫy của
Trung Quốc, làm suy yếu nghiêm trọng mặt trận ngoại giao và pháp lý của ASEAN để
đối phó với Trung quốc trong bàn cờ Biển Đông.
Trong
bối cảnh đó, Viêt Nam đang trở thành một đối tác then chốt của Mỹ trong cố gắng
ngăn chặn xung đột leo thang tại Biển Đông. Với vị trí chiến lược tại Biển
Đông, các căn cứ quân sự của Viêt Nam tại Cam Ranh và Đà Nẵng có ý nghĩa ngày
càng lớn đối với hoạt động tăng cường của hải quân Mỹ tại Biển Đông. Chính quyền
Mỹ hiện nay (cũng như trong tương lai) cần tăng cường hỗ trợ Việt Nam đứng vững
trong tam giác chiến lược Mỹ-Trung-Việt, để đảm bảo chủ trương “xoay trục sang
Châu Á” của Mỹ không bị đảo ngược.
Đến nay, các nước
G7 và hầu hết các nước Châu Á đã công khai hoặc gián tiếp ủng hộ phán quyết của
PCA, buộc Trung Quốc phải lên tiếng phủ nhận tính hợp pháp của PCA, và vội vàng
đối phó bằng cách vận động các nước ủng hộ. Trong số hơn 60 nước mà Trung Quốc
nói khống là ủng hộ mình, chỉ có 8 nước công khai lên tiếng.
Vài ngày trước
cuộc họp Cấp cao G7 tại Tokyo (26-27/5/2016) Tổng thống Obama đã đến thăm Việt
Nam, và tuyên bố bỏ cấm vận bán vũ khí cho Việt Nam. Ngay sau Cấp cao G7, Thủ
tướng Nhật Shinzo Abe đã tiếp đón Thủ tướng Việt Nam để thảo luận kế hoạch tăng
cường hợp tác quân sự và kinh tế, với sáng kiến “Kết nối Mekong với Nhật Bản”.
Trung Quốc luôn
lo ngại và thổi phồng nỗi ám ảnh bị bao vây. Dù điều này là thật hay tưởng tượng,
có hiệu quả hay không, thì nỗi ám ảnh đó vẫn tồn tại trong tâm thức Bắc Kinh.
Những động thái đối ngoại và quân sự gần đây của Mỹ ở Châu Á đang làm Trung quốc
có thêm lý do để phản ứng quyết liệt như là “nạn nhân” bị bao vây.
Từ 10-18/6/2016,
lần đầu tiên hải quân ba nước Mỹ, Nhật, Ấn Độ (“Tam cường”) đã tập trận chung về
phòng không và chống tàu ngầm tại Biển Philippine, tiếp giáp với khu vực Trung
Quốc tranh chấp chủ quyền tại Biển Hoa Đông và Biển Đông. Cuộc tập trận quy mô
lớn này nhằm thiết lập trật tự an ninh hàng hải mới tại Đông Á, để đối phó với
hành động quân sự hóa của Trung Quốc tại Biển Hoa Đông và Biển Đông.
Trong khi Ấn Độ
về cơ bản vẫn là một nước “không kiên kết”, còn dè dặt trong quan hệ quân sự với
Mỹ, thì Úc và Nhật Bản đều có hiệp ước an ninh với Mỹ, tuy hai nước này chưa có
quan hệ quân sự chặt chẽ với nhau. Nhưng một khi Úc tham gia tập trận chung thì
khuôn khổ trật tự an ninh hàng hải này sẽ còn mạnh hơn (“Tứ cường”).
Trong
cuốn sách mới xuất bản của nguyên trợ lý ngoại trưởng Mỹ Kurt Campbell “Xoay Trục:
Tương lai Chính sách của Mỹ tại Châu Á” (The Pivot: The Future of American
Statecraft in Asia, Kurt Campbell, Hachette Book, June, 2016), Campbell khuyến
nghị Mỹ cần xoay trục mạnh hơn về Châu Á, với tiến trình ngoại giao mạnh mẽ hơn
và có ngân sách quân sự cao hơn, để có thể kéo dài chủ trương này vài thập kỷ.
Khuyến nghị trong cuốn sách của Campbell được coi như “đơn xin làm ngoại trưởng”
nếu Hillary Clinton thắng cử.
Để
thúc đẩy chủ trương tăng cường sự có mặt quân sự của Mỹ tại khu vực Châu Á,
Campbell bác bỏ ý tưởng của một số nhà ngoại giao Mỹ gọi là “G2”. Ý tưởng này
khuyến nghị tập trung xây dựng quan hệ hợp tác Mỹ-Trung, với quan điểm thực dụng
cực đoan là hai nước lớn này sẽ chia đôi Châu Á thành hai khu vực ảnh hưởng,
làm suy yếu các thể chế đa phương và làm các nước láng giêng của Trung Quốc lo
sợ.
Campbell cho rằng
thúc đẩy chủ trương “xoay trục” là chiến lược Châu Á hợp lý nhất đối với Mỹ,
nhưng cũng khá phiêu lưu, vì không có lãnh đạo nào của Mỹ thực sự muốn kiềm chế
Trung Quốc. Thứ nhất, chủ trương này không phù hợp với đặc thù phức tạp của Châu
Á luôn phụ thuộc lẫn nhau. Thứ hai, hầu hết các nước Châu Á đều có quan hệ kinh
tế hay chính trị với Trung quốc. Thứ ba, chủ trương đó sẽ làm Trung Quốc tức giận
phản ứng.
Theo các nhà
phân tích, lập luận của Campbell trong quốn sách có hai điểm yếu. Thứ nhất,
Cambell tránh trả lời câu hỏi là Mỹ nên cứng rắn đến đâu nếu Trung Quốc tiếp tục
thách thức luật pháp quốc tế, như xây dựng thêm các đảo nhân tạo tại Biển Đông.
Thứ hai, Campbell không đi sâu phân tích Trung Quốc sẽ nhìn nhận thế nào các động
thái ngoại giao và an ninh mà Campbell đề xuất, nếu nghi ngờ Mỹ âm mưu ngăn chặn
Trung Quốc trỗi dậy.
Theo Andrew
Browne (“China’s Great Wall of confrontation”, Andrew Browne, Wall Street
Journal, June 28, 2016) Tập Cận Bình muốn xây “Vạn lý Trường thành trên Cát”
(Great Wall of sand, theo đô đốc Harry Harris) hay “Vạn lý Trường thành để Tự
Cô lập” (Great Wall of self-isolation, theo bộ trưởng quốc phòng Ash Carter).
Có người còn cho rằng Tập Cận Bình muốn xây “Điện Biên Phủ tại Biển Đông” theo
tư duy cố thủ và hướng nội (inward-looking) vì sợ bị bao vây, trong khi mở rộng
quyền lực ra ngoài bằng “Một Vành Đai, Một Con đường” và “Giấc Mộng Trung Hoa”
với “Đặc thù Trung Quốc” (Chinese Exceptionalism).
Trong nội bộ
Trung Quốc hiện nay có hai quan điểm chính đang tranh cãi về vấn đề này. Thứ nhất
là quan điểm hiếu chiến của phái dân tộc cực đoan, được hậu thuẫn bởi các tập
đoàn công nghệ quốc phòng và dầu khí, muốn bành trướng bá quyền bằng sức mạnh cứng.
Thứ hai là quan điểm ôn hòa hơn của giới ngoại giao và học giả, chủ trương dùng
giải pháp ngoại giao thay cho giải pháp quân sự (tránh đối đầu với Mỹ). Một bài
học lịch sử là sức mạnh thường do thỏa hiệp mang lại, trong khi xây trường
thành sẽ dẫn đến đối địch.
Nói cách khác,
phán quyết của PCA thách thức không những đòi hỏi chủ quyền ngang ngược của
Trung Quốc tại Biển Đông, mà còn động đến những vấn đề cơ bản và cốt lõi trong
lịch sử là “Trung Quốc dừng lại ở đâu?” (Where does China End?) và “Trung Quốc
nên cư xử thế nào trong quan hệ với thế giới?” (How should China conduct íts
relations with the world?).
Formosa & thảm họa môi trường
Sự kiện cá chết
hàng loạt, bắt đầu từ Vũng Áng (từ 20/4/2016) lan ra bốn tỉnh Miền Trung, với
nghi phạm là Formosa, đã trở thành tâm điểm của thảm họa môi trường cũng như khủng
hoảng truyền thông và bất ổn xã hội suốt mấy tháng qua. Cũng như phán quyết của
PCA về tranh chấp Biển Đông, việc chính phủ công bố nguyên nhân cá chết cũng là
một phán quyết quan trọng, tác động tích cực (hay tiêu cức) đến khủng hoảng
lòng tin và bất ổn xã hội.
Việc lúng túng
trong xử lý khủng hoảng, úp mở và trì hoãn công bố nguyên nhân cá chết ba tháng
qua đã làm dư luận bức xúc và bất bình, dẫn đến biểu tình tại nhiều nơi đòi bảo
vệ môi trường và minh bạch thông tin. Đáng tiếc, các cuộc biểu tình ôn hòa đã bị
chính quyền đàn áp thô bạo, làm khủng hoảng lòng tin. Thảm họa môi trường do
Formosa gây ra ở Vũng Áng làm bộc lộ những sai phạm về môi trường tại các dự án
khác (như Titan ở Bình Thuận, Lee & Man ở Sông Hậu, nhiệt điện Duyên Hải ở
Trà Vinh). Sức ép của dư luận không chỉ đến từ trong nước mà còn từ quốc tế
(như Liên Hiệp Quốc, Mỹ, Đài Loan, v.v.)
Ngày 6/5/2016,
phó Tổng Thư ký LHQ Jan Eliason phát biểu tại một cuộc họp báo, “Nếu Chính phủ
Việt Nam đề nghị giúp đỡ, chúng tôi sẽ rất sẵn lòng giúp Việt Nam trong vụ cá
chết ở Miền Trung, vì đây là vấn đề nghiêm trọng…” Nhưng đề nghị này đã bị từ
chối. Ngày 8/6/2016, Đại sứ Mỹ Ted Osius phát biểu tại CSIS, “Mỹ sẵn sàng trợ
giúp kỹ thuật nếu phía Việt Nam cần để điều tra xem chuyện gì đã xẩy ra và nguyên
nhân khiến nhiều cá chết ở bờ biển Miền Trung, nhưng đề nghị giúp đỡ đó đã
không được chấp nhận”. Từ chối quốc tế giúp đỡ là một điều bất bình thường, chắc
phải có lý do chính trị hay an ninh quốc gia “khó nói”.
Ngày 16/6/2016,
ba dân biểu Quốc hội Đài Loan và đại diện một số tổ chức phi chính phủ (NGO)
trong đó có liên minh Theo dõi và Thực thi Công ước về Nhân quyền, Hiệp hội Luật
sư Môi trường, Văn phòng Trợ giúp Công nhân và Cô dâu Việt Nam ở Đài Loan, đã tổ
chức họp báo, đề nghị Chính quyền Đài Loan phải điều tra xem Formosa có liên
quan đến thảm họa cá chết tại Việt Nam hay không. Tại cuộc họp báo, một đại diện
của Ủy Ban Ðầu Tư thuộc Bộ Kinh Tế Ðài Loan nói, Ðài Loan có quy định nếu dự án
đầu tư ở ngoại quốc gây ô nhiễm cho môi trường thì ủy ban này sẽ không cấp giấy
phép…Ngày 20 và 25/6/2016, kênh truyền hình PTS (Đài Loan) đã phát chương trình
phóng sự điều tra dài 60 phút “Viêt Nam: Cái chết của cá” về nguyên nhân cá chết
tại Miền Trung Việt Nam, mà Formosa là nghi phạm chính đã xả thải chất độc ra
biển. Chương trình này đã gây chấn động dư luận.
Theo BBC, đại diện
Formosa Hà Tĩnh cho biết ngày khai trương lò số một bị hoãn để “chờ giấy phép
liên quan đến môi trường”. Báo chí Đài Loan đưa tin Formosa Hà Tĩnh hoãn ngày
khai trương vì bị truy thu thuế. Theo báo chí Việt Nam, Formosa Hà Tĩnh bị Bộ
Tài Chính Việt Nam truy thu 2,000 tỷ đồng tiền thuế, trong đó hơn 2/3 khoản tiền
này phải nộp lại vì “sử dụng hóa đơn hoàn thuế không đúng quy định”. Trong khi
đó, báo Taipei Times cho rằng quyết định truy thu thuế chỉ là hình thức, còn thực
chất có “những lý do chính trị không tiện nói ra”.
Việc Chính phủ
Việt Nam trì hoãn công bố nguyên nhân cá chết và từ chối đề nghị giúp đỡ của quốc
tế càng làm cho dư luận thêm nghi ngờ và đồn đại khuất tất. Thảm họa môi trường
đã trở thành thảm họa truyền thông và khủng hoảng lòng tin. Người ta nói “mất
lòng tin là mất tất cả”. Trước sức ép của dư luận, ngày 2/6/2016, tại một cuộc
họp báo của chính phủ, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Mai Tiến Dũng và Bộ trưởng
Truyền thông Trương Minh Tuấn cho biết, “đã tìm ra nguyên nhân gây ra cá chết,
nhưng chưa thể công bố…”
Cũng theo Bộ
Truyền thông, ngày 30/6/2016 là hạn cuối cùng để Chính phủ công bố nguyên nhân
cá chết, như là “Ngày Phán quyết”, sau gần ba tháng “hoãn binh”, chắc phải có lý do rất “nhạy cảm”, liên quan
đến lợi ích nhóm, nội bộ lãnh đạo, hay “nước lạ”. Theo kế hoạch, chính phủ và
các bộ/ngành liên quan sẽ phải công bố rõ nguyên nhân gây ra cá chết hàng loạt,
thủ phạm là ai, tại sao lại chậm trễ công bố thông tin, các bước cần thiết để xử
lý và khắc phục hậu quả đối với môi trường biển bị ô nhiễm, và an sinh xã hội
cho người dân vùng bị nạn.
Đã đến lúc Chính
phủ không thể úp mở, phải công bố thủ phạm là Formosa và các giải pháp để khắc
phục. Formosa như quả bom nổ chậm có thể trở thành “một tử huyệt”. Đã đến lúc
phải nói rõ nguyên nhân cá chết hàng loạt do nước biển bị nhiễm độc bởi các hóa
chất cực độc mà Formosa xả thải ra biển. Đối với thủ phạm gây ra thảm họa môi
trường này, Formosa không chỉ cúi đầu xin lỗi là đủ, mà phải nhận một hình phạt
kinh tế đủ nặng (1/2 tỷ USD là quá nhẹ) và cam kết đầu tư để khắc phục hệ thống
xử lý chất thải (nếu không muốn bị đóng cửa). Nếu phán quyết đúng và xử lý được
Formosa, cũng như các dự án lớn khác có nguy cơ làm ô nhiễm môi trường, thì
Chính phủ có thể khôi phục dần lòng tin của nhân dân.
Thay lời kết
Ý nghĩa của việc
kết luận đúng nguyên nhân và thủ phạm gây ra thảm họa môi trường, không chỉ
liên quan đến Formosa (nhà đầu tư) mà còn liên quan đến các cấp (chính quyền)
chịu trách nhiệm về dự án này (ông Võ Kim Cự và những người khác). Cá nhân họ
phải chịu hình phạt thích đáng cho những sai phạm nghiêm trọng về chủ trương đầu
tư và cấp phép sai nguyên tắc vì tham sân si, về giám sát lỏng lẻo quy trình xử
lý chất thải làm hủy hoại môi trường, về bưng bít thông tin, lúng túng và chậm
chễ trong việc làm rõ nguyên nhân, gây khủng hoảng lòng tin.
Nếu câu chuyện
Donald Trump và Brexit có cùng nguyên nhân, thì kết luận về Formosa và phán quyết
của PCA có chung hệ quả. Tuy đó là một biến chuyển tốt, nhưng vẫn chỉ là phần nổi
của tảng băng chìm, vì nguy cơ thảm họa vẫn còn nguyên. Formosa không chỉ liên
quan đến thảm họa môi trường Miền Trung mà còn liên quan đến quốc nạn tham
nhũng do lợi ích nhóm và thể chế. Nó cũng liên quan đến bản chất quan hệ
Viêt-Trung và diễn biến bàn cờ Biển Đông. Nói cách khác, kết luận về Formosa hay
phán quyết của PCA có mối liên hệ nhân quả đối với chủ trương cải cách thể chế
và lập trường của Việt Nam đối với Biển Đông.
NQD. 30/6/2016
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét