Hiểu để bảo vệ chủ quyền biển đảo
Tuần này có người bạn đưa cho cuốn sách và bộ tài liệu khá dày. Nội dung là các vấn đề liên quan đến biển đảo. Đều là những trang viết lý luận và luật pháp rất là khô khan. Nên đọc cũng phải “huy động” công lực. Nhưng nghĩ thấy cần nên cố gắng đọc cho đến những trang cuối cùng.
Được biết giới nghiên cứu, các học giả Việt Nam vừa khai mạc một hội thảo quốc tế về Biển Đông - trong đó Học viện Ngoại giao và Hội Luật gia Việt Nam là hai cơ quan đồng chủ trì hội thảo - nên việc đưa vấn đề biển đảo trong bài viết cho blog tuần này tôi nghĩ là đúng lúc.
Trở lại các tài liệu, thì hầu hết các trang nghiên cứu là những vấn đề khá thiết thực mà nhiều anh em lâu nay hay bàn tới trên không gian mạng (báo chí chính thức, nhất là báo giấy rất ít đề cập).
Và cũng đều là những trăn trở suy nghĩ của nhiều người Việt mình, ở trong nước và trên khắp thế giới, luôn nghĩ về chủ quyền, lãnh thổ, lãnh hải, hải đảo của ta suốt thời gian qua.
Về phần mình, tôi nghiệm ra rằng, cuộc đấu tranh giành-giữ chủ quyền biển đảo trong thời đại hội nhập quốc tế ngày nay, suy cho cùng phải có kiến thức, có lý có lẽ. Phải chuẩn bị thật tốt mọi hiểu biết về vấn đề phức tạp và tế nhị này. Bởi biên giới, biển đảo là những vấn đề sống còn, an nguy quốc gia, cần vận dụng những hiểu biết và chứng cớ đã qua – là lịch sử và các hoàn cảnh lịch sử rất cụ thể, đa phần không lặp lại lần thứ hai.
Về kiến thức này, không những người có trách nhiệm với đất nước phải trang bị, mà cả công dân bình thường cũng cần trìm hiểu, tiếp cận. Có hiểu biết để khi cần sẽ lên tiếng đúng lúc đúng chỗ, sẽ là sự hỗ trợ đắc lực và cần thiết cho chính quyền, cho nhà nước.
Nói về biên giới lãnh thổ, về lãnh hải biển đảo – với chủ quyền của nó - là phải nói đến chứng cớ, đến các thực tế lịch sử. Những chứng cớ như vậy cần phải dựa vào cơ sở pháp lý vững vàng, vào các thông lệ của luật pháp quốc tế quy định.
Dù có người bảo, thì rồi cũng là “mạnh vì gạo bạo vì tiền” cả thôi, chứ lý lẽ ai nghe! Nước to nước mạnh họ anh-pô-zê hết cả thôi (imposer/áp đặt). Chúng tôi cho rằng không thể đến mức đó, một mức quá tồi tệ như thế trong thời đại liên thuộc giữa các quốc gia như lúc này (tức “tính phụ thuộc lẫn nhau” ngày càng chặt chẽ trong thời đại ngày nay).
Thế giới giờ đây “nhỏ bé” lắm, thông tin rất nhanh, không lẽ cứ nhất thiết to xác là lấn át tất thảy. Là sự cá lớn nuốt cá bé như xưa kia hay sao?
Đồng ý là phải có sức mạnh (ở đây hiểu là tiềm lực quân sự), nhưng không thể chỉ dựa vào sức mạnh như thế nào đó là muốn làm gì cũng được trong thế giới hiện đại. Còn phải có chính nghĩa, có lẽ phải, có luận cứ luật pháp hẳn hoi. Tức các yêu sách về lãnh thổ lãnh hải nếu hai nước không thương lượng được với nhau, thì vấn đề có thể đưa ra quốc tế, tức một dạng “quốc tế hóa” vấn đề (bằng nhiều hình thức, trong đó có hình thức khởi kiện trước tòa án quốc tế).
Chả thế mà Liên hợp quốc đã dành nhiều công sức hàng thập niên để soạn thảo ra Công ước về luật biển - mà năm 1982 tổ chức quốc tế này đã quyết định đa số nước thành viên thông qua. Đến nay đã cả trăm nước chuẩn y tham gia Công ước. Và với nước ta, Quốc hội cũng đã phê chuẩn việc tham gia toàn phần Công ước quan trọng này.
*
Nhân nói về chuyện những tranh chấp, bất đồng trong các vấn đề về lãnh hải, về biển đảo, tôi lại nhớ lại câu chuyện cách đây hơn 30 năm.
Là vào năm 1978, ta ký với Liên Xô một loại hiệp ước hữu nghị, được hiểu là tăng cường mối liên minh chặt chẽ hơn về chính trị và an ninh với quốc gia đàn anh cùng phe xã hội chủ nghĩa lớn nhất khi đó.
Kể ra thì điều ấy cũng chỉ là một hoạt động cam kết quốc tế thông thường của một quốc gia có chủ quyền. Thế nhưng Trung Quốc lại không muốn ta làm điều đó. Và họ bật dựng lên như chiếc lò xo nén lâu ngày. Nhà cầm quyền Bắc Kinh chuyển ngay lập tức sang lập trường thù nghịch với nước ta.
Ban đầu là công khai tuyên chiến trên thông tin truyền thông.
Rồi kế đến các hành động chống Việt Nam đã diễn ra. Đầu tiên xúi giục Polpot gây sự với ta trên vùng biên giới phía Tây Nam (đến 1978 là đỉnh điểm các vụ khiêu khích, rồi tập kích vào đất ta, giết hại dã man đồng bào ta). Còn ở phía bắc thì Trung Quốc gây vụ xua đuổi nạn kiều đầy kịch tính, rồi tấn công 6 tỉnh giáp biên giới với họ (2/1979), tàn sát biết bao thường dân vô tội của chúng ta...
Những năm cuối thập kỷ 1970 kéo dài tới cuối thập kỷ 1980, Trung Quốc đã chống đối ta hết sức gay gắt và quyết liệt trong vấn đề Campuchia trên tất cả các diễn đàn quốc tế.
Cơ quan tôi hồi đó là tờ báo ngoại văn làm công tác tuyên truyền đối ngoại nên được Bộ Ngoại giao đặt hàng, xuất bản những tập sách mỏng (gọi là brochure) để phục vụ đấu tranh ngoại giao. Tôi rất nhớ anh Vũ Cận, người đã chủ trì làm nhiều tập sách loại này. Tuổi tác như thế hệ Vũ Cận, chúng tôi phải gọi là chú là bác mới đúng “vai vế tuổi tác”.
Nhà báo Vũ Cận mất đã được hơn chục năm nay. Sinh thời bác Vũ Cận là một nhà báo rất có tài. Ông làm việc nghiêm túc, nhất là ở khâu chuẩn bị tư liệu cho những bài viết. Giỏi ngoại ngữ, ông có thể viết bài trực tiếp bằng tiếng Pháp và tiếng Anh. Ông tâm đắc với vấn đề chủ quyền biển đảo nên viết tập sách về Hoàng Sa và Trường Sa trong một thời gian kỷ lục, tức là rất nhanh, chưa đến ba tháng đã xong bản thảo.
Lúc sưu tầm tài liệu viết tập sách này, bác Vũ Cận không ngần ngại “gặp đi gặp lại” những chuyên gia lão luyện ở Ban Biên giới Chính phủ, như cụ Lưu Văn Lợi, cụ Lê Minh Nghĩa... Rồi ông còn vào thư viện nhiều lần lục tìm sách vở và các tư liệu lịch sử, khảo cổ.
Tôi nhớ bác Vũ Cận còn dành thêm nhiều buổi khác để tìm gặp, chuyện trò với các vị trí thức tên tuổi khác nữa, như các nhà sử học, nhà dân tộc học, cả các nhà quân sự, để hỏi han về những chi tiết mà bác Cận cho là quan trọng và tế nhị, cần phải hiểu thật rõ, thật rành mạch.
Bác Vũ Cận có lần nói với tôi, viết về những điều quan trọng như chủ quyền lãnh thổ, phải hiểu “tối đa” vấn đề. Hiểu cho ra “ngọn ngành”, chứ với tài liệu để viết được cho một vấn đề thiêng liêng như thế này, anh không được qua qua quít quít, cưỡi ngựa xem hoa...
Trong cơ quan tôi thuộc lớp thanh niên trẻ may được bác Cận dành chút cảm tình riêng. Nên rất hay được gọi đi theo nhà báo lớn “học nghề”.
Hồi đó máy ghi âm máy ảnh chưa thông dụng, tôi thấy các cuốn sổ tay ghi chép của bác Vũ Cận luôn đầy ắp chi chít những chữ và hình vẽ, bản đồ... Những nét chữ thì đến lạ, lúc nào cũng đều chằn chặn, đủ hiểu bác Cận rất công phu dành cho việc ghi chép.
Có buổi quan sát ông chăm chú với cuốn sổ tay và cây bút bi, tôi có cảm tưởng như ông muốn ghi hết tất cả các ý nói ra của người đối thoại.
Sách đó viết ra chỉ hơn trăm trang, nhưng nội dung cô đọng nên nêu bật được chủ quyền thực tế, chủ quyền pháp lý của nước ta về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Sách có 2 bản riêng nhau, in ra 2 cuốn, một cuốn tiếng Pháp và một cuốn tiếng Anh (tôi nhớ bìa bản tiếng Pháp là “Les deux Archipels: Paracel et Spratly). Đó là tên quốc tế gọi hai quần đảo trên Biển Đông này: Paracel và Spratly.
Trong sách còn in kèm nhiều tấm bản đồ cổ, những hiện vật và chứng thực “khảo cổ học” đào được ở trên đảo, đều chứng minh nhiều thế hệ ông cha ta đã từng sinh sống, cả đóng quân canh giữ đảo, cả đánh cá trú mưa bão suốt bao thế kỷ lâu dài trên các hòn đảo của hai quần đảo này.
Hồi ấy chưa có Công ước luật biển Liên hợp quốc như bây giờ, nhưng cách thức lập luận của cuốn sách đã rất chặt chẽ về mặt pháp lý. Theo báo cáo của nhiều Sứ quán nước ta gửi về, cuốn sách này có tiếng vang, nhận được sự đồng tình của chính giới và những học giả, những nhà báo nước ngoài thời kỳ ấy. Và người ta đã giới thiệu lại vấn đề này cho độc giả phương Tây.
Đáng tiếc những năm gần đây ta không tái bản cuốn sách này. Cũng không thấy viết mới được những cuốn sách, hoặc những tài liệu có nội dung tương tự để chuyển ra nước ngoài, nhằm vào độc giả nước ngoài, tranh thủ dư luận quốc tế. Có thể có vấn đề gì đó tế nhị và nhạy cảm ở đây chăng? Nhưng dù có vậy, chúng tôi nghĩ cũng phải tìm ra cách để nói, để trình bày các vấn đề này “ra ngoài biên giới”.
Phải nói thêm, trong suốt quá trình lịch sử lâu dài của Việt Nam, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa luôn luôn gắn chặt với chủ quyền pháp lý và thực tế của nước ta. Đáng tiếc là vào năm 1974, trong khi chúng ta tập trung đánh Mỹ, Trung Quốc đã đưa hải quân của họ xâm chiếm đảo Hoàng Sa lúc đó do chính quyền Sài Gòn quản lý (và khi viết cuốn sách nói trên, là chưa diễn ra sự kiện Trung Quốc tấn công chiếm mấy đảo ở quần đảo Trường Sa, sát hại gần sáu chục cán bộ chiến sĩ hải quân Việt Nam vào năm 1988). Đó thật là những mất mát, những khúc quanh không mong muốn của lịch sử.
Nhưng mặt khác, chính những thực tế tàn nhẫn này (chủ quyền của chúng ta bị tước bỏ, bị chà đạp thẳng thừng trước lực lượng quân sự nước ngoài đến như thế), đã làm cả dân tộc chúng ta sực tỉnh, cũng là hiểu thêm cái giá của chủ quyền quốc gia mà đoàn kết lại, giành và giữ lấy chủ quyền toàn vẹn cho non sông. Con đường này có thể quanh co khúc khuỷu, tuy nhiên bất kể thế nào, dân tộc chúng ta vẫn phải đạt được mục tiêu cuối cùng là giành lại chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ (trên đất liền và trên biển cả).
*
Sau khi đọc kỹ cuốn sách và tài liệu liên quan đến vấn đề biển đảo mà ở trên bài tôi nhắc đến, cùng với ký ức một thời được chứng kiến cuốn sách HS-TS của bác nhà báo Vũ Cận viết và xuất bản từ những năm 1980 của thế kỷ trước, tôi tập hợp về đây ít tài liệu liên quan. Như một cách gom góp dần dần những tư liệu quý, những lập luận minh bạch rõ ràng và chính nghĩa của giới nghiên cứu nước nhà cho vấn đề chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải, hải đảo xem ra bao giờ cũng có ích cho nhiều lớp hậu thế chúng ta.
Tôi lại nhớ hồi tháng 5 năm nay, Tiến sĩ Nguyễn Quang A có gửi bức thư ngỏ đề nghị lập một Quỹ nghiên cứu các vấn đề biển đảo ở nước ta, tôi có bài viết sốt sắng ủng hộ sáng kiến này, đều đã công bố trên Website của nhà văn Trần Nhương. Gần đây, tháng 10/2009, nhà báo Đinh Phong ở miền Nam cũng nêu ý kiến lập một Quỹ vận động cho Hoàng Sa và Trường Sa, tức dành cho công việc nghiên cứu biển đảo mà ông cho rằng những công trình rất có giá trị của nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu về Hoàng Sa - Trường Sa rất đáng được ghi công đầu và phát huy nó cho các thế hệ tương lai.
Đúng là “xã hội hóa” các vấn đề nghiên cứu Hoàng Sa và Trường Sa, nghiên cứu về biển đảo ở nước ta là một hướng đi rất đúng. Nó cần được sự ủng hộ rộng rãi của toàn xã hội đương nhiên, nhưng cũng cần sự quan tâm và động viên của nhà nước nữa.
Dưới đây tôi ghi giữ lại một số tài liệu, bài viết có giá trị về chủ đề biển đảo và chủ quyền biển đảo. Coi như một số tài liệu cá nhân, dành cho sự “nhập môn” vào một vấn đề hết sức quan trọng này.
Nguyễn Vĩnh
---------------------
Giới thiệu tóm tắt Công ước luật biển Liên Hợp Quốc
Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển (tiếng Anh: United Nations Convention on Law of the Sea - UNCLOS), cũng gọi là Công ước Luật biển hay cũng được những người chống đối nó gọi là Hiệp ước Luật biển, là một hiệp ước quốc tế được tạo ra trong Hội nghị về luật biển Liên Hiệp Quốc lần thứ 3 diễn ra từ năm 1973 cho đến 1982 với các chỉnh sửa đã được thực hiện trong Hiệp ước Thi hành năm 1994.
Công ước Luật biển là một bộ các quy định về sử dụng các đại dương của thế giới, chiếm 70% diện tích bề mặt Trái Đất. Công ước đã được ký kết năm 1982 để thay thế cho 4 hiệp ước năm 1958 đã hết hạn.
UNCLOS có hiệu lực năm 1994, và đến nay, 154 quốc gia và Cộng đồng châu Âu đã tham gia Công ước này. Hoa Kỳ không tham gia vì nước này tuyên bố rằng hiệp ước này không có lợi cho kinh tế và an ninh của Mỹ.
Công ước quy định quyền và trách nhiệm của các quốc gia trong việc sử dụng biển, thiết lập các hướng dẫn rõ ràng cho các hoạt động kinh doanh, bảo vệ môi trường và cải thiện quản lý các tài nguyên thiên nhiên đại dương. Các sự kiện mà thuật ngữ đề cập trong Công ước là: Công ước về Luật biển Liên Hợp Quốc lần 1, Công ước về Luật biển Liên Hợp Quốc lần 2, Công ước về Luật biển Liên Hợp Quốc lần 3. Công ước này là kết quả của Công ước về Luật biển Liên Hợp Quốc lần 3 và cũng mang tên gọi Công ước về Luật biển Liên Hợp Quốc.
Trong khi Đại hội đồng Liên Hợp Quốc nhận được các công cụ phê chuẩn và gia nhập và Liên Hợp Quốc quy định ủng hộ các cuộc họp của các quốc gia là thành viên của Công ước thì Liên Hợp Quốc không có vai trò hoạt động trong việc thi hành Công ước này. Tuy nhiên các tổ chức liên chính phủ tự trị như: Tổ chức Hàng hải Quốc tế, Ủy ban Cá voi Quốc tế và Cơ quan quản lý Đáy biển…
……………..
Lập trường chính thức của Việt Nam gần 10 năm trước đây:
“Chính phủ Việt Nam ủng hộ mạnh mẽ Công ước năm 1982 của Liên hợp quốc về Luật biển và luôn coi Công ước này là khuôn khổ cho các hoạt động quốc gia, khu vực và toàn cầu trong các vùng biển và thềm lục địa” - Đại sứ Phạm Bình Minh, Phó trưởng phái đoàn đại diện Việt Nam tại Liên hợp quốc đã phát biểu như vậy tại phiên họp toàn thể của Đại hội đồng Liên hợp quốc khóa 55 (năm 2000) về đề mục 34 "các đại dương và Luật về biển", ngày 26/10, tại New York.
Đại sứ đánh giá cao nỗ lực to lớn và đóng góp quý báu của Cơ quan phụ trách các vấn đề đại dương và Luật biển (Cơ quan về các vấn đề luật pháp) và các thể chế quốc tế liên quan đến vấn đề "các đại dương và Luật biển" trong năm nay.
Điều vô cùng quan trọng là Công ước năm 1982 của Liên hợp quốc về Luật biển phải được các nước thành viên thực hiện nghiêm chỉnh.
Theo Công ước này, các nước thành viên phải tôn trọng chủ quyền, các quyền về chủ quyền và quyền hạn của nước khác đối với vùng biển, thềm lục địa và các vùng đặc khu kinh tế của nước đó. Những hoạt động, tuyên bố và thoả thuận đơn phương của các nước phải triệt để tôn trọng các điều khoản của Công ước. Do đó, Việt Nam coi những gì đi ngược lại các điều khoản của Công ước và các phụ trương của nó là không có giá trị.
Là một nước thành viên của Công ước, Việt Nam luôn tôn trọng các điều khoản của Công ước và thực hiện những cam kết quốc tế của mình; vì thế, Việt Nam yêu cầu các thành viên khác cũng làm như vậy.
Dựa vào các điều khoản của Công ước năm 1982 của Liên hợp quốc về Luật biển, Chính phủ chúng tôi tiếp tục thông qua các luật và quy định mới và sửa đổi những luật đã lỗi thời cho phù hợp giữa luật quốc gia và luật quốc tế về biển.
Trong khi thực hiện chương trình quốc gia về các vấn đề biển, Chính phủ chúng tôi dành ưu tiên cao cho việc giáo dục nhân dân về việc làm thế nào khai thác tốt nhất, cũng như quản lý và bảo tồn các nguồn tài nguyên biển và môi trường. Chúng tôi cũng tập trung phát triển hợp tác khu vực và quốc tế trong công cuộc nghiên cứu khoa học biển, chuyển giao kỹ thuật, đánh cá, thăm dò và khai thác dầu. Đại sứ nhấn mạnh rằng với mong muốn tạo ra môi trường thuận lợi dựa vào sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau đối với việc giải quyết những tranh chấp tương lai về các đường ranh giới biển trong khu vực Biển Đông, Việt Nam đang nỗ lực hợp tác với Trung Quốc và các nước thành viên khác trong Hiệp hội các nước Đông Nam á (Asean) để xây dựng luật ứng xử trên Biển Đông và ủng hộ hoàn toàn Tuyên bố Asean 1992 và Tuyên bố Asean-Trung Quốc 1997 về các nguyên tắc giải quyết tranh chấp ở Biển Đông.
Cuối cùng, Đại sứ khẳng định lại sự sẵn sàng hợp tác đầy đủ của Chính phủ Việt Nam trong việc thực hiện có hiệu qủa Công ước năm 1982 của Liên hợp quốc về Luật biển và cam kết sẽ thúc đẩy chế độ trật tự về đại dương trên tinh thần hiểu biết và hợp tác như đã nêu trong Công ước.
----------------------
Bài phỏng vấn ông Lưu Văn Lợi:
Ông Lưu Văn Lợi sinh năm 1913, nguyên chánh văn phòng - trợ lý bộ trưởng ngoại giao, nguyên trưởng Ban biên giới thuộc Hội đồng Bộ trưởng (1978-1989). Ông là tác giả của nhiều cuốn sách, bài viết về chủ đề biên giới, lãnh thổ.
* Thưa ông, về mặt lịch sử VN đã xác lập chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa như thế nào?
- Sau khi vào trấn thủ xứ Thuận Hóa (là địa danh hành chính cũ của vùng đất gồm Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế và bắc Đà Nẵng hiện nay) năm 1558, Chúa Nguyễn đầu tiên là Nguyễn Hoàng đã gây dựng và mở mang xứ Thuận Hóa và gọi là miền Trong.
Ông chỉ thị cho các chúa Nguyễn kế vị phải tiến ra biển tìm đất đai mới. Các chúa kế vị đã lập đội Hoàng Sa với 70 suất đội viên và mang sáu tháng lương thực tiến ra phía Đông. Đội phát hiện vô số đảo không có chủ, họ trụ lại đó và gọi là bãi Cát Vàng. Từ đó hằng năm các chúa Nguyễn đều cử đội Hoàng Sa ra bãi Cát Vàng và đổi tên thành Hoàng Sa để làm hai việc.
Thứ nhất, khai thác tài nguyên của quần đảo, bao gồm hải sản và hóa vật của các tàu bị đắm trôi dạt vào quần đảo. Thứ hai, bảo vệ chủ quyền quần đảo. Sau khi được báo cáo về bãi Cát Vàng, quần đảo được nhập vào huyện Bình Sơn thuộc phủ Quảng Ngãi, sau là tỉnh Quảng Ngãi.
Năm 1816, vua Gia Long cử thủy quân và đội Hoàng Sa ra đảo Hoàng Sa kéo cờ và đo đạc thủy trình. Năm 1833, vua Minh Mạng cử đội Hoàng Sa và thủy quân ra xây một miếu, cắm mốc chủ quyền và trồng cây trên đảo để khi cây lớn, tàu thuyền có thể nhận ra đảo từ xa. Như vậy VN đã tổ chức đội Hoàng Sa để xác lập chủ quyền và khai thác quần đảo Hoàng Sa từ nhiều thế kỷ trước.
* Thưa ông, có phải luật pháp quốc tế và nhiều quốc gia đã thừa nhận chủ quyền quần đảo Hoàng Sa thuộc về nước ta?
- Theo luật pháp quốc tế, một quốc gia muốn có danh nghĩa chủ quyền phải có hai thành tố: một, thật sự chiếm đóng (vì thời các nước đi tìm đất mới, có nước tìm ra rồi bỏ hoặc không thật sự đến đó mà chỉ nghe nói); hai, giữ rồi thì phải thật sự thực hiện quyền làm chủ của mình.
Trước đây, Trung Quốc tuy nghe nói đến quần đảo Hoàng Sa từ lâu nhưng chưa hề đến bao giờ, và càng không bao giờ thực hiện chủ quyền gì trên các đảo đó. Trong khi suốt từ các đời chúa Nguyễn về sau, ta tiếp tục quản lý hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và tư liệu mới nhất của ta cho thấy thời vua Bảo Đại, nhà Nguyễn vẫn tiếp tục quản lý quần đảo Hoàng Sa.
Vua Bảo Đại đã quyết định không để Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Ngãi mà đưa về thuộc tỉnh Thừa Thiên, và năm 1939 quân chủng khố xanh Trung kỳ xây dựng công trình phòng thủ trên đảo Hoàng Sa được vua Bảo Đại tặng thưởng huân chương Long tinh.
Trung Quốc đã xây dựng sân bay (dài 2.700m, rộng 120m) tại đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa - Ảnh tư liệu
* Chúng ta đã quản lý Hoàng Sa suốt thời gian rất dài như vậy nhưng vì sao lại bị chiếm mất? Quá trình ấy đã diễn ra như thế nào, thưa ông?
- Trong suốt nhiều thế kỷ Trung Quốc chấp nhận sự chiếm hữu của VN và không phản đối hoạt động của đội Hoàng Sa. Thậm chí có những trường hợp quan chức Trung Quốc nói đảo Hoàng Sa không thuộc Trung Quốc. Thế nhưng đến năm 1909, Trung Quốc cử đô đốc Lý Chuẩn đưa ba pháo thuyền ra Hoàng Sa và đổ bộ lên một đảo kéo cờ, bắn súng và từ đó họ nói là họ có chủ quyền với quần đảo Hoàng Sa mà họ gọi là Tây Sa.
Năm 1956, khi Pháp rút khỏi Đông Dương, Trung Quốc cho quân ra chiếm nửa phía đông của Hoàng Sa và năm 1959, Trung Quốc dùng quân đội giả làm ngư dân tiến ra các đảo phía tây của quần đảo Hoàng Sa nhưng âm mưu chiếm phần còn lại thất bại vì quân đội Sài Gòn trên đảo đã kịp thời đối phó và bắt làm tù binh mấy chục “ngư dân” cùng năm thuyền vũ trang.
Năm 1974, lợi dụng tình hình chính quyền Sài Gòn ở miền Nam suy yếu nên Trung Quốc đã ném bom bốn hòn đảo phía tây Hoàng Sa, cho quân đổ bộ lên và chiếm hữu hoàn toàn quần đảo Hoàng Sa sau cuộc đụng độ với hải quân Sài Gòn. Ở thời điểm này, họ chưa hề đến Trường Sa.
Như vậy với câu hỏi “Ta mất Hoàng Sa như thế nào?”, câu trả lời là vì Trung Quốc dùng vũ trang tấn công. Việc làm của Trung Quốc vi phạm thô bạo bản Tuyên bố ngày 24-10-1970 của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc về các nguyên tắc của công pháp quốc tế
liên quan đến các quan hệ hữu nghị và sự hợp tác giữa các quốc gia.
"Với biển Đông, VN nên dân tộc hóa và quốc tế hóa vấn đề. Dân tộc hóa nghĩa là tiếp tục làm cho cả dân tộc cùng quan tâm. Quốc tế hóa thì như vừa rồi VN đã gửi công hàm lên Liên Hiệp Quốc bác bỏ bản đồ đường lưỡi bò của Trung Quốc"
* Ông có nhận định gì về “đường lưỡi bò” mà Trung Quốc tuyên bố là biên giới trên biển của họ?
- Từ năm 1948, Trung Quốc chính thức tuyên bố cái gọi là “đường lưỡi bò” gồm chín đoạn cách rời nhau, chạy quanh biển Đông làm biên giới trên biển của họ. Tuyên bố đó không có cơ sở pháp lý gì.
Tháng 6 vừa rồi Trung Quốc gửi bản đồ “đường lưỡi bò” đó lên Ủy ban Ranh giới thềm lục địa của Liên Hiệp Quốc với bản giải thích không thể hiểu nổi. Trong đó nêu “Trung Quốc có chủ quyền không ai có thể tranh cãi” đối với các đảo trong biển Đông và “các vùng biển lân cận và có quyền tài phán với các vùng biển liên quan cũng như đáy biển và lòng đất của những vùng biển này”. Nhưng không nói rõ các vùng biển lân cận, liên quan... cụ thể là vùng biển nào và không nêu cơ sở pháp lý nào.
VN đã gửi công hàm cho Liên Hiệp Quốc bác bỏ cái gọi là đường biên giới biển của Trung Quốc.
Như vậy, cơ sở mạnh nhất của VN là có chủ quyền hoàn toàn đúng pháp luật quốc tế với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa là bộ phận chiến lược của lãnh thổ VN nên chúng ta cần kiên quyết đấu tranh để thu hồi hai quần đảo này và giải quyết vấn đề bằng biện pháp hòa bình.
(Theo Báo Tuổi trẻ)
----------------
Công trình nghiên cứu của ông Nguyễn Nhã
HOÀN CẢNH LỊCH SỬ DẪN ĐẾN
TRANH CHẤP CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM
TẠI QUẦN ĐẢO HOÀNG SA & TRƯỜNG SA
NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP
Đây là Công trình nghiên cứu của Tiến sĩ Sử học Hãn Nguyên Nguyễn Nhã (Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam)
Dưới đây là Bản tóm tắt:
Hoàn cảnh lịch sử bắt đầu từ năm 1909, Chinh quyền tỉnh Quảng Đông, Trung Hoa cho rằng Hoàng Sa của Việt Nam là đất vô chủ, nên đã có hành động khảo sát, chiếm hữu theo cung cách của Phương Tây, đã không gặp bất cứ phản ứng nào của Việt Nam vì Việt Nam bị mất hết chủ quyền ngoại giao vào tay người Pháp, trong khi Pháp vốn biết trước ý đồ của chính quyền Quảng Đông, song vẫn không can thiệp ngay vì sợ chủ nghĩa dân tộc sô-vanh (chauvin) bùng dậy ở Trung Hoa , làm ảnh hưởng đến quyền lợi của Pháp ở Trung Hoa .Tùy theo từng thời kỳ lịch sử, từ giai đoạn 1(1909-1930), giai đọan 2 (1930-1945), giai đoạn 3 (1945-1954), giai đoạn 4 (1954-1975) , giai đoạn hiện nay (1975 đến nay), có những hoàn cảnh lịch sử khác nhau, dẫn đến những nguyên nhân tranh chấp khác nhau, tính chất tranh chấp khác nhau, liên tiếp không ngừng cho đến tận ngày nay.
Khi thực dân Pháp rút quân khỏi Việt Nam vào tháng 4/1956 để lại khoảng trống lực lượng bố phòng trong khi đang diễn ra chiến tranh lạnh, thế giới chia hai phe: phe tư bản chủ nghĩa và phe xã hội chủ nghĩa. Việt Nam lại bị chia cắt có hai chính quyền, theo Hiệp định Genève mà Trung Quốc đã ký, phía nam vĩ tuyến 17 trong đó bao gồm quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa do chính quyền Sài Gòn quản lý, đã không thể bảo vệ hiệu quả chủ quyền vốn có của mình tại Hoàng Sa và Trường Sa, khiến Trung Quốc, Đài Loan, Philippines trong bối cảnh chiến tranh lạnh ấy đã vội vã chiếm cứ một số đảo tại Hoàng Sa & Trường Sa. Khi Mỹ ký Thông cáo chung Thượng Hải với Trung Quốc năm 1972 và ký Hiệp định Paris năm 1973, rút quân ra khỏi Việt Nam, không can thiệp để Trung Quốc chiếm toàn thể Hoàng Sa vào tháng 1 năm 1974. Nguyên nhân tranh chấp trong thời kỳ này đã thay đổi về chất, sự đối đầu trong chiến tranh lạnh, và nhất là trong chiến tranh nóng hai chính quyền Nam và Bắc có những đồng minh, đồng chí anh em ủng hộ lẫn nhau trong tranh chấp mang tính quốc tế này.
Sau năm 1975, Việt Nam đã thống nhất , thế lực chính trị quốc tế có nhiều biến động ảnh hưởng đến Việt Nam trong đó có việc tranh chấp về Hoàng Sa và Trường Sa vẫn tiếp tục, không những vì vị trí chiến lược vốn có tầm quan trọng lớn lao cũng như tài nguyên nhất là trữ lượng dầu khí tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ...
Sự thực lịch sử ra sao và giải pháp?
Các tư liệu chứng minh chủ quyền của Việt Nam đã xuất hiện liên tục qua các đời: từ đầu thời Chúa Nguyễn (tức đầu thế kỷ XVII), sang thời Tây Sơn rồi tới triều Nguyễn (từ vua Gia Long) qua đội dân binh Hoàng Sa và đội Bắc Hải được đội Hoàng Sa kiêm quản, Việt Nam có khoảng gần 30 tư liệu các loại, chủ yếu là tài liệu công trong đó có đặc biệt cả châu bản, hội điển chép những hành động của Nhà nước chiếm hữu, thực thi chủ quyền như vẽ bản đồ, cắm mốc, dựng bia, xây miếu thờ (Hoàng Sa Tự - chùa HS), trồng cây, đào giếng… của thủy quân triều Nguyễn chứ không còn ít ỏi như Thư của Toàn quyền Pasquier gửi cho Bộ trưởng Bộ Thuộc địa ngày 18/10/930, mà người Pháp lúc ấy cũng đã khẳng định chủ quyền của Việt Nam hết sức rõ ràng.
Trong khi ấy Tư liệu Phương Tây như Jean Baptiste Chaigneau, Gutzlaff (năm 1849), nhất là Giám mục Taberd xuất bản năm 1833, cho rằng Hoàng đế Gia Long chính thức khẳng định chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa năm 1816 và trong An Nam Đại Quốc Họa Đồ của giám mục Taberd xuất bản năm 1838, phụ bản của cuốn từ điển La tinh- Annam, có ghi rõ «Paracels seu Cát Vàng » với tọa độ rõ ràng như hiện nay chứ không phải như Trung Quốc cho là ven bờ biển.
Ngay tư liệu của Trung Quốc như Hải Ngoại Kỷ Sự của Thích Đại Sán năm 1696, quyển 3, đã ghi chép Chúa Nguyễn đã sai thuyền ra khai thác các sản vật từ các tàu đắm trên quần đảo Vạn Lý Trường Sa tức Hoàng Sa …
Sự thực chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa đã rõ ràng như trên. Nguyên nhân tranh chấp đã không còn nữa. Việt Nam đã độc lập, thống nhất, làm bạn với tất cả các nước kể cả Trung Quốc, Mỹ, Nga…Vì thế không một chính quyền nào cũng như bất cứ người Việt Nam nào dù khác nhau chính kiến lại không coi trọng việc đòi lại Hoàng Sa về với Việt Nam và bảo toàn toàn vẹn Trường Sa. “Cái gì của César phải trả lại cho César”. Đối với các nước Asean trên cơ sở Công ước 1982 về luật biển sẽ tương nhượng trong tinh thần hợp tác giữa các thành viên trong khối càng ngày càng chặt chẽ , đôi bên đều có lợi. Đối với Trung Quốc, như người ta nói “núi liền núi, sông liền sông”, đã có những bài học lịch sử quí giá. Việt Nam với truyền thống hàng ngàn năm luôn kiên quyết bảo vệ quyền độc lập tự chủ của mình, song luôn luôn tôn trọng nước đàn anh Trung Quốc, luôn theo truyền thống làm “phên dậu của Trung Quốc”, không bao giờ làm hại đến quyền lợi Trung Quốc.
Bất cứ giải pháp nào dựa vào sức mạnh như người Nhật đánh chiếm bằng vũ lực Hoàng Sa, Trường Sa năm 1938, 1939; hoặc thực dân Pháp suốt thập niên 20 đến thập niên 50 thế kỷ XX dựa vào ưu thế quân sự của mình, cũng như Trung Quốc dùng võ lực năm 1974,1988 chỉ mang tính nhất thời... chắc chắn không phù hợp với nguyện vọng của nhân dân các dân tộc của thời đại ngày nay.
Toàn bộ công trình, có toàn văn như sau:
Hoàn cảnh lịch sử dẫn đến tranh chấp chủ quyền
của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa & Trường Sa
Nguyên nhân và giải pháp
A- HOÀN CẢNH LỊCH SỬ DẪN ĐẾN VIỆC CHÍNH QUYỀN TỈNH QUẢNG ĐÔNG (TRUNG HOA) KHẢO SÁT TRÁI PHÉP QUẦN ĐẢO HOÀNG SA VÀO NĂM 1909 VÀ TIẾP TỤC LÚN SÂU VÀO VIỆC XÂM PHẠM CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM Ở HOÀNG SA CHO ĐẾN NĂM 1930 KHI CHÍNH QUYỀN THỰC DÂN PHÁP THAY ĐỔI QUAN ĐIỂM
Việt Nam bị Pháp xâm lược năm 1858, mất hết chủ quyền tự chủ ngoại giao theo Hiệp ước cuối cùng ký với Pháp năm 1884, không bảo vệ được chủ quyền của mình tại Hoàng Sa khi bị các nước khác xâm phạm .
Chính trong thời Pháp thuộc đã xảy ra sự kiện chính quyền Quảng Đông (Trung Hoa) do Tổng Đốc Trương Nhân Tuấn đứng đầu vào tháng 6 năm 1909 như báo chí Quảng Châu hồi bấy giờ đưa tin, lần đầu tiên đã cử một hạm đội nhỏ của Nhà Thanh đã đi khảo sát trái phép quần đảo Paracels, vốn của Việt Nam từ lâu, tên chữ là Hoàng Sa hay tên nôm gọi là Cát Vàng hay Cồn Vàng.
Tên Tây Sa mà chính quyền Quảng Đông mới đặt ra sau sự kiện tháng 10 năm 1907, chính quyền Nhà Thanh đuổi được nhóm thương gia người Nhật Nishizawa Yoshiksugu chiếm giữ đảo Pratas trong 3 tháng (từ 2 tháng 7 năm 1907). Cũng bắt đầu từ khi này, chính quyền Quảng Đông đã đặt tên Pratas là Đông Sa vốn là tên một đảo ở ngoài khơi tỉnh Quảng Đông, đã được ghi rất rõ trên bản đồ “Duyên Hải Toàn Đồ” trong sách Hải Quốc Văn Kiến Lục của Trần Luân Quýnh (1730).
Không phải chính quyền thực dân Pháp không biết sự kiện khảo sát trái phép này. Chính bức thư của lãnh sự Pháp Beauvais ở Quảng Châu gửi Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao Pháp ngày 4 tháng 5 -1909 đã nêu ý đồ của Trung Quốc xâm phạm chủ quyền Hoàng Sa của Việt Nam khi viết: "Như tôi đã trình bày với ông khi kết thúc bản báo cáo gần đây của tôi (số 86 ngày 1 tháng 5 năm 1909) về vấn đề các đảo Đông Sa (Pratas), vấn đề này khiến chính phủ Trung Hoa chú ý đến các nhóm đảo khác nằm dọc bờ biển của Thiên Triều và tới một mức độ nhất định có thể được coi như một bộ phận của Thiên triều, trong đó có quần đảo Paracels".[Monique,Chemillier-Gendreau, La souveraineté sur les archipels Paracels et Spratleys, Paris, L’Harmattan,1996,p.206].
Cũng cần lưu ý bức thư trên đã viết khi chính quyền Quảng Châu c̣òn đang chuẩn bị thực hiện chuyến khảo sát . Cuộc khảo sát diễn ra sau đó, có mặt cả người Đức, đã rời Hồng Kông vào ngày 21-5-1909 và về Quảng Châu vào ngày 9-6-1909.
Cũng trong thư trên đề ngày 4 tháng 5 năm 1909, lãnh sự Pháp ở Quảng Châu gửi cho Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao Pháp có một số nội dung đáng lưu ý sau đây:
Do ảnh hưởng của việc Nhật chiếm Pratas (Đông Sa), Trung Quốc muốn chiếm luôn quần đảo Paracels gần Hải Nam.
Cuộc khảo sát trái phép đầu tiên là của Ngô Kính Vinh đã cho thấy ở mỗi đảo Hoàng Sa đều có một ngôi miếu nhỏ xây kiểu nhà đá (tất cả tường mái là đá san hô và vỏ sò). [Monique,Chemillier-Gendreau, sđd, Paris, L’Harmattan,1996,p.207 ]
Các ngư dân Việt Nam mang cả vợ con đến sống ở Hoàng Sa, bị đối xử tàn tệ, vợ con bị bắt đến Hải Nam.[ Monique,Chemillier-Gendreau, sđd, Paris, L’Harmattan, 1996,p. 210]
Như thế chính phủ Pháp ngay tại chính quốc đã rõ ý đồ của chính quyền Trung Hoa dù chỉ là chính quyền địa phương xâm phạm chủ quyền của Việt Nam tại Paracels hay Hoàng Sa của Việt Nam. Sở dĩ Chính quyền Pháp không ngăn chặn hành động khảo sát trên vì nhiều lý do:
Một là khi ấy, Pháp chưa quan tâm đến vấn đề bảo vệ sở hữu quần đảo của nước “An Nam” mà Pháp bảo hộ theo Hiệp ước Patenôtre 1884. Vấn đề ngăn chặn ý đồ của Trung Hoa ngay từ năm 1909 mà Lănh sự Pháp ở Quảng Châu là Beauvais đã báo cáo, bị chính quyền Pháp ở mẫu quốc bỏ qua.
Điều này cũng dễ hiểu, nếu như các đảo ấy vốn thuộc sở hữu của nước Pháp hoặc thuộc đất Nam Kỳ , nhượng địa hay thuộc địa chứ không phải đất bảo hộ, thì chắc chắn chính phủ Pháp sẽ có hành động ngăn chặn ngay và sẽ không thể xảy ra tranh chấp lâu dài về sau. Nếu không chính phủ Pháp sẽ bị kết tội hay sẽ bị lên án do chính người Pháp hoặc giới chính trị hoặc những công dân yêu nước của Pháp.
Hai là chính quyền thực dân Pháp ngại sự ngăn chặn có thể làm phát sinh trong ḷòng dân chúng Trung Hoa một phong trào “sô vanh’ có hại cho quyền lợi Pháp ở Trung Quốc.
Điều này cũng đã được Ông Beauvais nêu ra trong chính văn thư báo cáo ngày 4-5-1909 gửi Ông Bộ trưởng Ngoại Giao Pháp và đã được chính phủ Pháp cân nhắc làm theo:
“ Như vậy , thưa Ông Bộ Trưởng, nếu ta còn lợi ích trong việc ngăn không cho Chính phủ Trung Hoa nắm lấy nhóm các đá ngầm này, có lẽ chúng ta sẽ dễ dàng nghiên cứu, tìm ra các lập luận chứng minh rõ ràng quyền của chúng ta và những bằng chứng không thể bác bỏ về quyền đó. Nhưng nếu việc đó không đáng làm, sau khi đã suy nghĩ chín chắn, có lẽ nên nhắm mắt làm ngơ. Một cuộc can thiệp của chúng ta sẽ có khả năng làm xuất hiện một phong trào sô vanh mới làm cho chúng ta bị thiệt hại nhiều hơn lợi ích mà việc sở hữu được thừa nhận đối với quần đảo Hoàng Sa đem lại( Cf. Monique Chemillier-Gendreau, La Souveraineté sur les Archipels Paracels et Spratleys”, L’Harmattan, 1996, p.211-212).
Trong văn thư đề ngày 14 Janvier 1921 của Ông Chủ Tịch Hội Đồng Cố Vấn của Bộ Ngoại giao Pháp (Le Président du Conseil , Ministre des Affaires Etrangères) gửi Bộ Trưởng Bộ Hải Quân Pháp cũng đã khẳng định Bộ ngoại Giao Pháp đã nghe theo ý kiến của Beauvais (Cf. Monique Chemillier-Gendreau, sđd, tr. 205).
Ba là các quan chức thực dân Pháp từ Phủ Toàn quyền đến Bộ Thuộc Địa hay Bộ Ngoại giao Pháp không biết rõ hoặc rất mơ hồ về sở hữu từ lâu thuộc về Việt Nam.
Có rất nhiều bằng chứng như chính Ông Beauvais trong bản báo cáo trên cũng không chắc chắn mà chỉ nói: “có lẽ sẽ dễ dàng nghiên cứu…”. …
Cho đến ngày 6 tháng 5 năm 1921, có nghĩa sau hơn 1 tháng ngày 30-3-1921, lệnh mang số 831 của Ban Đốc Chính chính quyền quân sự Miền Nam Trung Hoa sau phiên họp ngày 11-3-1921 đã quyết định sáp nhập về mặt hành chính các đảo Hoàng Sa vào huyện Yai Hien (Châu Nhai, đảo Hải Nam),Vụ Các Vấn đề chính trị và Bản Xứ thuộc Phủ Toàn Quyền Đông Dương đã có văn bản ghi chú( Note) ghi rất nhiều điều liên quan đến quần đảo Hoàng Sa lấy từ Hồ sơ hiện có ở Phủ Toàn Quyền Đông Dương, cho biết đã tìm trong kho tư liệu của hải quân Sàig̣òn, lưu trữ của Thống đốc Nam kỳ , của Phủ Toàn quyền không thấy có tư liệu nào có tính chất làm rõ quốc tịch của các đảo Hoàng Sa. Chính lúc Toàn Quyền Đông Dương ra chỉ thị điều tra về vấn đề quốc tịch của Hoàng Sa cũng là lúc nhận được bức thư của Tổng lănh sự Beauvais ở Quảng Châu báo tin có sự kiện chính quyền quân sự Nam Trung Hoa quyết định sáp nhập Hoàng Sa vào tỉnh Quảng Đông.
Rõ ràng sự kiện Chính quyền quân sự Miền Nam Trung Hoa ra tuyên bố sáp nhập Tây Sa tức Hoàng Sa của Việt Nam vào huyện Châu Nhai, đảo Hải Nam thuộc tỉnh Quảng Đông ngày 30 tháng 1 năm 1921 cũng đã xảy ra vào thời Pháp thuộc, khi Việt Nam đã hoàn toàn mất chủ quyền.
Khi c̣òn mơ hồ về chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Ḥoàng Sa, trong khi ấy thực chất quyền lực nhà nước là do chính quyền thực dân Pháp nắm, nên chính quyền thực dân Pháp không tích cực ngăn chặn sự vi phạm chủ quyền của chính quyền Qủang Đông tại quần đảo Hoàng Sa là chuyện đương nhiên. Chắc chắn khi Việt Nam có c̣òn chủ quyền, được độc lập tự chủ hay Hoàng Sa vốn thuộc chủ quyền của Pháp thì chính quyền nào cũng phải lấy nhiệm vụ tối thượng là bảo vệ sự toàn vẹn lănh thổ của nước mình. Vì thế chung qui không có sự ngăn chặn kịp thời sự xâm phạm chủ quyền của chính quyền quân sự Miền Nam Trung Hoa vào năm 1921 cũng như của chính quyền Quảng Đông năm 1909 chính là do Việt Nam bị Pháp đô hộ, không c̣òn chủ quyền để bảo vệ sự toàn vẹn lănh thổ của mình.
Vậy về phía Việt Nam nguyên nhân sâu xa hay khách quan dẫn đến sự tranh chấp không đáng có chính là Việt Nam bị Pháp đô hộ , mất hết chủ quyền để có thể bảo vệ lănh thổ của mình khi bị xâm phạm.
Về phía Trung Hoa , nguyên nhân khách quan là do ảnh hưởng của việc Nhật chiếm Pratas (Đông Sa), Trung Quốc muốn chiếm luôn quần đảo Paracels gần Hải Nam để tránh xảy ra sự kiện bất cứ nước nào nhất là các cường quốc hồi bấy giờ phỗng tay trên, chiếm cứ những đảo ở Nam Hải mà Trung Hoa coi là vô chủ.
Về phía chính quyền thực dân Pháp, nguyên nhân chủ quan chính là do quyền lợi riêng của Chính quyền thực dân Pháp đã khiến
Pháp không phản ứng kịp thời để Trung Hoa cho là đất vô chủ và đi sấu vào hành động xâm phạm chủ quyền của Việt Nam ở Ḥoàng Sa và sự thiếu hiểu biết do hạn chế của người đi đô hộ, không hiểu quan điểm của Nhà nước và nhân dân Việt Nam.
Song sau đó chính quyền thực dân Pháp lại bắt đầu quan tâm đến hành động trái phép của chính quyền Quảng Đông với quấn đảo Hoàng Sa. Vậy thì nguyên nhân nào khiến chính quyền thực dân Pháp bắt đầu quan tâm đến việc bảo vệ chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa trong thời gian từ năm 1921 đến 1930, Pháp bắt đầu thay đổi quan điểm. Đó chính là tầm quan trọng của vị trí chiến lược của quần đảo Hoàng Sa đối với an toàn quyền lực của Chính quyền thực dân Pháp về sự hiểu biết lập trường của Việt Nam (Theo Thượng thư Bộ binh Thân Trọng Huề giải thích).
Trước hết chính vì vị trí chiến lược quan trọng của quần đảo Hoàng Sa & Trường Sa cũng như Biển Đông đối với lănh thổ Pháp đang cai trị, nên thực dân Pháp ở Đông Dương phải cân nhắc lợi hại, đã quyết định đối mặt với những ý đồ tranh chấp chủ quyền của các nước khác trong đó có Trung Quốc.
Lúc ban đầu, trong bản báo cáo ngày 04 tháng 5 năm 1909, của Tổng lănh sự Pháp Beauvais ở Quảng Châu đã đề cập tới tầm quan trọng vị trí của quần đảo Hoàng Sa, song lại chưa sát sườn với lợi ích của chính quyền thực dân, dù có hệ trong đến hàng hải hay
sự đe dọa đối với ngư dân Việt nam như sau:
“Về vấn đề này, nhân viên của chúng tôi nhận xét rằng các đảo Hoàng Sa đối với chúng ta có một tầm quan trọng nhất định: vì nằm giữa tuyến đường đi từ Sàig̣òn đến Hồng Kông, các đảo đó là một mối nguy hiểm lớn đối với hàng hải và việc chiếu sáng ở đó có thể là cần thiết. Ngoài ra, các đảo đó thường có ngư dân An Nam và Trung Quốc qua lại: họ đến đó trong quá trình đánh cá để sơ chế sản phẩm. Đã xảy ra những cuộc đổ máu giữa ngư dân hai nước trong dịp đó (Cf. Monique Chemillier-Gendreau, La
Souveraineté sur les Archipels Paracels et Spratleys”, L’Harmattan, 1996, p.197).
Trong văn thư của Khâm Sứ Trung Kỳ Le Fol gửi Toàn Quyền Đông Dương vào ngày 22 tháng 1 năm 1929 đã nhấn mạnh về vị trí chiến lược của quần đảo Hoàng Sa:
“Trong tình hình hiện nay, không ai có quyền phủ nhận tầm quan trọng chiến lược rất lớn của các đảo Hoàng Sa. Trong trường hợp có xung đột, việc nước ngoài chiếm đóng chúng sẽ là một trong những mối đe dọa nghiêm trọng nhất có thể có đối với việc phòng thủ và sự toàn vẹn lãnh thổ của Liên bang [Đông Dương].
“Thực vậy, các đảo nói trên là sự kéo dài tự nhiên của Hải Nam. Một đối phương có thể thấy ở đó một căn cứ hải quân hùng mạnh nhờ những vụng và nhiều nơi tầu đậu tuyệt vời, và do tính chất của chúng thực tế là không thể đánh bật. Một đội tầu ngầm dựa vào căn cứ đó sẽ có thể, không những phong tỏa cảng Đà Nẵng là cảng quan trọng nhất của Trung Kỳ, mà còn cô lập Bắc Kỳ bằng cách ngăn cản việc đi đến Bắc Kỳ bằng đường biển. Lúc đó để liên lạc giữa giữa Nam Kỳ với Bắc Kỳ ta phải dùng đường sắt hiện có, một con đường rất dễ bị đánh v́ chạy dọc theo bờ biển, pháo hải quân đặt trên các chiến hạm có thể mặc sức phá hủy.”
“Đồng thời, mọi con đường thông thương giữa Đông Dương- Viễn Đông- Thái Bình Dương sẽ bị cắt đứt: hải lộ Sàig̣òn-Hồng Kông đi gần quần đảo Paracels , do đó nằm dưới sự kiểm soát trực tiếp của căn cứu trên các đảo”.(Cf. Monique Chemillier-Gendreau, La Souveraineté sur les Archipels Paracels et Spratleys”, L’Harmattan, 1996, p.174).
Mặc dù có những báo cáo rất rõ về tầm quan trọng của Hoàng Sa đối với việc bảo vệ lănh thổ thuộc địa Đông Dương của Pháp, song phải có sức ép của dư luận báo của người Pháp ở Đông Dương mới làm cho chính quyền thực dân Pháp có những hành động cụ thể để bảo vệ chủ quyền tại Hoàng Sa của nước được Pháp bảo hộ.
Đầu tiên với loạt bài trong các số 606, 622, 623, 627 (tháng 1, 5, 6 năm 1929), nhà báo Henri Cucherousset đã lược qua về chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa với những dẫn chứng hết sức cụ thể như: 1/Jean Baptiste Chaigneau viết năm 1820 dưới nhan đề : Notice sur la Cochinchine cho biết Năm 1816 vua Gia Long thực sự chiếm đảo Hoàng Sa.2/ Giám mục Jean Louis Taberd viết trong Journal of the Asiatic Society of Bengal, tậpVI, măm 1837, tr.737 và những trang kế tiếp, tập VII, năm 1838, tr.317 và những trang kế tiếp đề cập đến quần đảo Hoàng Sa trong mục Géographie de la Cochinchine. 3/ Dubois de Jaucigny viết trong L’Univers – Histoire et Description de tous les peuples de leurs religions. Moeurs, coutumes;Japon, Indochine,Ceylan xuất bản năm 1850 tại Paris, F. Didot xuất bản, có đoạn viết: “ …từ 34 năm về trước quần đảo Hoàng Sa( mà người Annam gọi là Cát Vàng đã được chiếm cứ bởi các người xứ Nam Kỳ”. Cucherousset còn viết những chi tiết về quần đảo Hoàng Sa trong Nam Việt Địa Dư [ Hoàng Việt Địa Dư?] , Minh Mạng năm thứ 14; Đại Nam Nhất Thống Chí, in thời Duy Tân, tập 6, tờ 18b, 19a cùng việc tàu De Lanessan thám sát Hoàng Sa năm 1925.”
Theo tác giả, quần đảo Hoàng Sa quan trọng do 5 đặc tính sau đây:1/ Trạm cho thủy phi cơ Sàig̣òn - Hồng Kông; Tourane- Philippines. 2/ Điểm tựa chiến lược cho tầu ngầm khi có chiến trảnh.3/ Trạm thông báo khí tượng. 4/ Nơi tranh gió băo cho tàu đánh cá. 5/ Giàu phốt phát. Lý do tác giả viết loạt bài vì nhân một đại úy người Anh muốn nhân danh Anh Hoàng đặt chủ quyền Anh lên đảo Sein đồng thời tác giả cực lực phản đối việc hải quân trung tá Rémy ở Sàig̣òn trả lời cho 1 công ty hàng hải Nhật rằng không biết quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của ai và việc ông Monguillot đã viết cho ông Gravereaud nói rằng quần đảo Hoàng Sa thuộc Trung Hoa.
Theo tác giả, chánh quyền bảo hộ Pháp phải chấp hữu chủ quyền trên quần đảo Ḥoàng Sa bằng các hành động:
a/Vẽ bản đồ tổng quát Hoàng Sa tỉ lệ 1/200.000, vẽ bản đồ chi tiết 1/25.000, vẽ bản đố hải quân và bản đồ địa chất.
b/ Đặt đài hải đăng.
c/ Đạt trạm quan sát và thông báo khí tưỡng.4/ Lập đội trú phòng trú đóng tại Hoàng Sa.
Tác giả còn luôn luôn trách cứ chánh quyền Pháp đã quá lơ là trong việc xác nhận và bảo vệ chủ quyền tại Hoàng Sa.
Sau đó chính bức thư của Toàn quyền Pasquier gửi cho Bộ trưởng Bộ Thuộc Địa ngày 18-10-1930 đã chấm dứt thái độ do dự của chính quyền Pháp đối với hành động xâm phạm trái phép của chính quyền Trung Hoa đối với chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa. vTrong bức thư trên, Toàn quyền Pasquier đã gửi tập tư liệu về quần đảo Hoàng Sa bao gồm : vMột đoạn trích bằng chữ Hán với bản dịch bằng tiếng Pháp của Đại Nam Nhất Thống Chí , quyển 6 hay biên niên sử của chính phủ An Nam.2. Một đoạn trích bằng chữ Hán với bản dịch bằng tiếng Pháp của Nam Việt Địa Dư, tập 2 hay Địa dư thời Minh Mạng [ Chú thêm của tác giả : tức Hoàng Việt Địa Dư Chí ].3. Một đoạn trích bằng chữ Hán với bản dịch bằng tiếng Pháp của Đại Nam Nhất Thống Chí hay địa dư thời Duy Tân.
Cùng kèm theo bốn thư phụ lục và bốn bản đồ, Toàn Quyền Pasquier viết: “ Chắc hẳn Ngài cũng đánh giá như tôi rằng chúng ta đã đủ để xác định không thể tranh cãi rằng An Nam đã thực sự nắm sở hữu quần đảo và làm như vậy trước năm 1909 nhiều.” (Cf. Monique Chemillier-Gendreau, La Souveraineté sur les Archipels Paracels et Spratleys”, L’Harmattan, 1996, p.233).
B- HOÀN CẢNH LỊCH SỬ DẪN ĐẾN VIỆC TRUNG HOA VÀ PHÁP TRANH CHẤP CHỦ QUYỀN CỦA HOÀNG SA & TRƯỜNG SA CỦA VIỆT NAM TỪ NĂM 1930 ĐẾN NĂM 1945 , THỜI GIAN PHÁP CÒN ĐÔ HỘ VIỆT NAM
Từ 1931 đến 1933, Cucherousset lại tiếp tục viết 7 bài viết cũng trên báo L’Éveil Économique de L’Indochine trong các số 685 ( 10-5-1931), 688 (31-5-1931), 743(26-6-1932), 744( 03-7-1932), 746( 17-7-1932), 777( 26-02-1933) 790(28-5-1933). Trong loạt bài báo kể trên, không thấy nhắc đến lịch sử xác lập chủ quyền của Việt Nam nữa mà chỉ tập trung vào thái độ của Toàn quyền Pasquier về việc xử lý việc bảo vệ chủ quyền ấy.Tác gia chỉ trích một lá thư của Toàn quyền Pasquier khi Ông này viết: “Chủ quyền của xứ Annam trên quần đảo Hoàng Sa là điều không thể chối căi được nhưng lúc này chưa phải cơ hội để xác nhận chủ quyền ấy .”Tác giả gay gắt chất vấn Ông Toàn Quyền: “Tại sao nay không phải là cơ hội?Trở lực nào đã ngăn cản xứ “Annam” nhìn nhận chủ quyền trên đảo Hoàng Sa mà họ đã chấp hữu từ trăm năm trước? Có phải chăng đợi đến lúc người Nhật khai thác đến tấn phốt phát cuối cùng?Có phải người Nhật đã trả thù lao một phần cho ai chăng?
Vì những bài báo lập luận vững chắc và chỉ trích nặng lời toàn quyền Pasquier, Ṭòa Soạn báo E.E.I bị ông Dự thẩm Bartet ra lệnh khám xét ban đêm buộc nhà báo phải nộp hồ sơ liên quan đến vụ Hoàng Sa. Trong số báo 743, Cucherousset cực lực phản đối và nhất quyết không giao nộp, nếu muốn nghiên cứu thì chỉ cho đọc tại chỗ.Trong số báo 746, Cucherousset viết nếu không có loạt bài của E.E.I thì có lẽ chính quyền Pháp làm ngơ vụ Trung Hoa chiếm hữu Hoàng Sa.
Trong số báo 777, Cucherousset đã trình bày tại sao ông phản đối Toàn quyền Pasquier nhún nhường trước hành động của Tổng Đốc Quảng Đông:
a/ Chính quyền tỉnh Quảng Đông không hề bao giờ được nước Pháp thừa nhận là một chính quyền tự trị.
b/ Chính phủ Trung Hoa ở Bắc Kinh lúc trước , ở Nam Kinh bây giờ, không hề bao giờ lên tiếng tranh giành quần đảo này và không thừa nhận chủ quyền Quảng Đông.
c/ Ngược lại từ hơn 100 năm nay rồi, nước Nam đã chấp hữu chủ quyền trên Hoàng Sa và sự việc này có ghi rõ trong văn khố của triều đình Huế. Hơn nữa chính quyền Quảng Châu không thể dựa vào lý do ngư phủ Trung Hoa thường xuyên ghé đảo để bắt rùa , phơi lưới để bảo Hoàng Sa thuộc Trung Hoa bởi ngư phủ Pháp cũng thường làm như vậy tại bờ biển Terre Neuve nhưng Terre Neuve vẫn thuộc nước Anh. Trong khi ấy trong 1 phiên họp của Hội Đồng Tư Vấn Đông Dương, để trả lời vị đại diện của xứ Annnam là ông Piguax, Toàn Quyền Pasquier cho biết vụ Hoàng Sa đã có tiếng vang tại Pháp và vị Tổng trưởng Bộ Thuộc Địa đã quyết định đưa nội vụ ra Ṭòa án quốc tế La Haye.
Ngoài tờ báo Eveil Economique, c̣òn nhiều báo của người Pháp ở Đông Dương và cả ở Pháp cũng đăng những bài về chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa như Revue Indochinoise Illustrée, số 38, 1929 ( Sàig̣òn), tr.605-616 , P.A. La Picque đã dẫn nhiều tài liệu về chủ quyền của Viêt Nam; việc chính quyền Quảng Đông trả lời không chịu trách nhiệm về việc dân Hải Nam cướp trên các tầu bị đắm Le Bellona năm 1895 và Imezi Maru 1896 vì Hoàng Sa không thuộc chủ quyền Trung Quốc; dịch lại bài báo đăng trên Quảng Châu Báo ngày 10-7-1909 kể chuyện chuyến đi khảo sát Hoàng Sa của hải quân tỉnh Quảng Đông. Mémoire No 3 du Service Océanographique de L’Indochine( Saigon), 1930, 24 tr. do J. de Lacour & Jabouillé kể chuyến đi khảo sát Hoàng Sa 21-7-1926 theo lời mời của M.A.Krempf . Avenir du Tonkin, số 10495( 17-04-1931),tr2 khẳng định năm 1816, vua Gia Long long trọng cho dựng cờ trên đảo vì thế cho nên dù năm 1909, Trung Hoa có muốn dành chủ quyền, chánh phủ Pháp phải lên tiếng xác nhận quyền bảo vệ các đảo ấy. Trong hoàn cảnh hiện nay, không ai có thể phủ nhận sự quan trọng có tính cách chiến lược của Hoàng Sa.
Nature ( Paris), số 2916,01-11-1933, tr.385-387 do Sauvaire-Jourdan viết trên tờ Công báo ngày 19-7-1933 đăng một thông tư về việc hải quân Pháp chiếm cứ một vài đảo ở Phía nam Biển Đông, điểm qua lịch sử chiếm hữu, vua Gia Long cho hải đội đổ bộ và dựng cờ trên đảo năm 1816 rồi đến sự kiện năm 1909 được bài báo ở Quảng Châu ngày 20-6-1909 mà tác giả cho là khôi hài cùng những đề nghị không nên bỏ rơi quyền sở hữu các đảo ấy. La Géographie, bộ LX ( tháng 11-12-1933), tr.232-243, A. Olivier Saix đưa ra những luận cứ theo đó chánh quyền bảo hộ của Pháp tại Việt Nam phải bảo vệ và duy tŕ chủ quyền cho Việt Nam vì:
a/ Hoàng Sa có vị trí rất cần thiết lập hải đăng.
b/ Là vị trí thiết lập đài quan sát khí tượng và trạm vô tuyến kịp thời bào thời tiết băo cho tàu bè.
c/ Hoàng Sa nhiều nguồn lợi kinh tế:phốt phát, cá , rùa..
d/ lợi ích quân sự từ Hoàng Sa phong tỏa Vịnh Bắc Việt , cảng Đà Nẵng, hải lộ quốc tế
e/ Lịch sử xác lập chủ quyền: Vua Gia Long đã cho hải đội Hoàng Sa đổ bộ lên đảo dựng cờ, lập cứ điểm, Thượng thư Bộ binh Thân Trọng Huề ngày 3-3-1925 nói rằng : “Các đảo đó bao giờ cũng là sở hữu của nước Annam, không có gì tranh cãi trong vấn đề này”.
Rõ ràng với sức ép dư luận trên, chính quyền thực dân Pháp đã phải hành động, trước hết khoảng 1930 đến 1933, Pháp đã thiết lập
chủ quyền tượng trưng tại Trường Sa cũng như Hoàng Sa..
Với Hoàng Sa thuộc về Trung Kỳ , đất bảo hộ của Pháp, nên không cần phải hành động xác lập chủ quyền mà chỉ cần những hành động thực thi chủ quyền, tiếp theo những hành động khảo sát Hoảng Sa đầu tiên năm 1925 của Viện Hải Dương Học Nha Trang là những hoạt động thể theo đề nghị của dư luận báo chí thời ấy . Ngày 1 5 – 6 – 1932 , chính quyền Pháp ra nghị định số 156- SC ấn định việc thiết lập một đơn vị hành chánh gọi là quận Hoàng Sa tại quần đảo Hoàng Sa.
Năm 1937, kỹ sư trưởng công chánh Gauthier nghiên cứu khả năng xây dựng một hải đăng trên đảo Pattle ( Hoàng Sa); năm 1938 Pháp bắt đầu phái các đơn vị bảo an tới các đảo và xây dựng môt hải đăng, môt trạm khí tượng (OMM đăng kư số 48860) đặt ở đảo Pattle ( Hoàng Sa) và số 48859 ở đảo Phú Lâm (Ile Boisée), một trạm vô tuyến TSF trên đảo Pattle. Tháng 3-1938, Hoàng đế Bảo Đại ký Dụ số 10 sáp nhập Hoàng Sa vào tỉnh Thừa Thiên thay vì Nam Ngăi như các triều trước. Tháng 6 năm 1938, một đơn vị bảo an lính Việt Nam tới trấn đóng Hoàng Sa. Một bia chủ quyền được dựng trên đảo Pattle với dòng chữ: “République Francaise- Royaume d’Annam- Archipels des Paracels 1816-Ile de Pattle 1938”.
Còn với quần đảo Trường Sa phía Nam thuộc địa giới Nam Kỳ lại là đất thuộc địa của Pháp, nên Pháp có hành động xác lập chủ quyền cho nước Pháp. Song để ngăn chặn nước thứ ba cũng như đối phó với pháp lý quốc tế, Cố vấn pháp luật Bộ Ngoại Giao Pháp đã viết trong Bản Ghi Chú cho Vụ Châu Á Đại dương ngạy-5-1950 rằng”Việc chiếm hữu quần đảo Spratleys do Pháp tiến hành năm 1931-1932 là nhân danh Hoàng Đế “ Annam”.”Ngày 13 tháng 4 năm 1933 ,một hạm đội nhỏ do trung tá hải quân De Lattre chỉ huy từ Sàigòn đến đảo Trường Sa ( Spratley) gồm thông báo hạm La Malicieuse, pháo thuyền Alerte, các tàu thủy văn Astrobale và De Lanessan. Sư chiếm hữu tiến hành theo nghi thức cổ truyền của Phương Tây. Một văn bản được thảo ra và các thuyền trưởng ký thành 11 bản. Mỗi đảo nhận 1 bản, được đóng kín trong 1 chai rồi được gắn trong 1 trụ xi măng xây trên mỗi đảo tại một địa điểm ấn định và cố định trên mặt đất. Người ta kéo cờ Tam tài và thổi kèn trên từng ḥòn đảo…
Ngày 26 tháng 7 năm 1933, Bộ Ngoại Giao Pháp đã có một thông tin đăng trên Công báo Pháp, ghi rõ 6 nhóm hải đảo và tiểu đảo từ nay đã thuộc chủ quyền Pháp quốc, trong đó gồm nhóm Spratley ( 8o39’ B-111 o 55Đ) và các tiểu đảo nhỏ xung quanh được chiếm hữu sớm nhất từ ngày 13-4-1930 và đảo Thị Tứ được chiếm cuối cùng vào ngày 12-4-1933.. Ngày 21 -12-1933, thống đốc Nam Kỳ M.J. Krautheimer ký nghị định số 4762 sát nhập các nhóm hải đảo thuộc quần đảo Pratleys ( Trường Sa ) vào tỉnh Bà Rịa.
Năm 1938 Pháp cũng thiết lập một bia chủ quyền, một hải đăng, một trạm khí tượng và một trạm vô tuyến tại đảo Itu - Aba ( Ba Bình)..
Tất cả những hành động thực thi chủ quyền của Pháp nhân danh “Annam” trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa diễn ra một cách suông sẻ, dù muộn màn, không gặp bất cứ ngăn cản nào, bởi chỉ duy có chính quyền địa phương tỉnh Quảng Đông có ý đồ, có dự án khai thác Tây Sa tức Hoàng Sa của Việt Nam, và muốn chiếm hữu Hoàng Sa khi cho là đất vô chủ, song các dự án của chính quyền địa phương mới chỉ trên giấy tờ, chính quyền trung ương Trung Quốc chưa mặn mà. Tuy vậy Nhật Bản lại dấu mặt về ý đồ chiếm giữ Hoàng Sa và Trường Sa, đã lên tiếng phản đối sự chiếm giữ của Pháp trong thông báo cho chính phủ Pháp vào ngày 24 -7-1933 . Ngày 31 tháng 3 năm 1939, Bô Ngoại giao Nhật Bản ra tuyên bố gửi tới Đại sứ Pháp ở Nhật Bản khẳng định Nhật Bản là người đầu khám phá Trường Sa vào năm 1917 và tuyên bố Nhật kiểm soát Trường Sa. Nhật đã nhanh chóng chiếm đảo Phú Lâm ( Ile Boisée ) của Hoàng Sa và đảo Itu-Aba ( Ba Bình ) của Trường Sa vào năm 1938 , song măi đến ngày 9-3-1945 , Nhật mới bắt làm tù binh những lính Pháp đóng ở các đảo Hoàng Sa cũng như đất liền của Việt Nam.
Luật pháp quốc tế thời đó sau Định ước Berlin năm 1885 được hiểu là:
- Việc thụ đắc lãnh thổ là hành động của quốc gia, chính quyền địa phương (tỉnh Quảng Đông) không đủ danh nghĩa đại diện cho quốc gia.
- Cũng theo Định ước này, hành động của phía Trung Quốc (năm 1909) không đủ mang lại danh nghĩa chủ quyền cho Trung Quốc vì chưa thỏa mãn các tiêu chí về thụ đắc lãnh thổ thời đó. Do vậy, sự im lặng của chính quyền Phpá ở Đông Dương không có nghĩa là sự thừa nhận chủ quyền của phía Trung Quốc và không tạo ra estopel.
Nhật bản đã bại trận và đã đàu hàng vô điều kiện Đồng Minh 16 tháng 8 năm 1945 và đã rút khỏi Hoàng Sa &Trường Sa .
C - HOÀN CẢNH LỊCH SỬ DẪN ĐẾN VIỆC TRUNG HOA, PHÁP TRANH CHẤP CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TẠI HOÀNG SA & TRƯỜNG SA TỪ THÁNG TÁM NĂM 1945 ĐẾN THÁNG 4 NĂM 1956, KHI PHÁP XÂM CHIẾM TRỞ LẠI
Ngày 19 tháng 8 năm 1945 Cách Mạng Tháng Tám thành công, ngày 2 thang 9 năm 1945 Nước Việt nam Dân Chủ Cộng Ḥoà ra đời, chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập ở Quảng Trường Ba Đình, chấm dứt chế độ đô hộ của Pháp.
Sau khi Nhật bại trận, Pháp trở lại đô hộ Việt Nam, Quân Tưởng Giới Thạch tiếp quản nơi quân đội Nhật chiếm đóng từ phía Bắc vĩ tuyến 16, cả hai nước Pháp và Trung Hoa đều tiếp tục tranh chấp Hoàng Sa & Trường Sa của Viêt Nam., vẫn tiếp tục coi trọng vị trí chiến lược Hoàng Sa & Trường Sa.
Việt Nam bận lo kháng chiến chống Pháp trong khi quân Pháp làm chủ Biển Đông.
Quân Nhật đã rút khỏi quần đảo Hoàng Sa cũng như Trường Sa vào năm 1946, Pháp trở lại Việt Nam làm chủ Biển Đông, lập tức cử một phân đội bộ binh Pháp đổ bộ từ tàu Savorgnan de Brazza đến thay thế quân đội Nhật từ tháng 5 năm 1946, nhưng đơn vị này chỉ ở đó trong vài tháng. Trong thời gian từ 20 đến 27 tháng 5 năm 1946, đô đốc D’Argenlieu, cao ủy Đông Dương cũng đã phái tốc hạm L’Escarmouche ra nắm tình hình đảo Hoàng Sa (Pattle ) thuộc quần đảo Hoàng Sa.
Vào lúc quân đội viễn chinh Pháp và Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo đang bận đối phó với cuộc chiến tranh toàn diện sắp xảy ra, thì ngày 26 tháng 10 năm 1946, lợi dụng thời cơ, hạm đội đặc biệt của Trung Hoa Dân Quốc gồm 4 chiến hạm, mỗi chiếc chở một số đại diện của các cơ quan và 59 binh sĩ thuộc trung đội độc lập về cảnh vệ của hải quân (tiền thân của quân thủy đánh bộ) xuất phát từ cảng Ngô Tùng ngày 9 tháng 10. Ngày 29 tháng 11 năm 1946, các tàu Vĩnh Hưng và Trung Kiên tới đảo Hoàng Sa và đổ bộ lên đây. Tàu Thái Bình và Trung Nghiệp đến Trường Sa (mà lúc này Trung Quốc còn gọi là Đoàn Sa chưa phải mang tên Nam Sa (tác giả nhấn mạnh)
Trong phiên họp ngày 11 tháng 10 năm 1946, Uy Ban Liên Bộ về Đông Dương thuộc Chính phủ lâm thời Pháp quyết định cần khẳng định quyền của Pháp đối với quần đảo Hoàng Sa và thể hiện việc tái chiếm bằng việc xây dựng một đài khí tượng. Theo ý kiến của đại tướng Juin cho rằng “lợi ích cao nhất” của nước Pháp là phòng ngừa mọi ý đồ của một cường quốc nào muốn chiếm lại các đảo đó là những đảo kiểm soát việc ra vào căn cứ tương lai Cam Ranh, con đường hàng hải Cam Ranh - Quảng Châu - Thượng Hải (Thư số 199/DN/S. col ngày 7 tháng 10 năm 1946 của Đại tướng Juin, Tổng Tham Mưu Trưởng quân đội Pháp tại Paris). Mãi đến năm 1935, Trung Quốc mới chú ý đến Trường Sa, gọi là Đoàn Sa sau thời điểm năm 1933.
Chính phủ Pháp chính thức phản đối sự chiếm đóng bất hợp pháp trên của Trung Hoa Dân Quớc và ngày 17 tháng 10 năm 1947 thông báo hạm Tonkinois của Pháp được phái đến Hoàng Sa để yêu cầu quân Tưởng Giới Thạch rút khỏi Phú Lâm nhưng họ không rút. Pháp gửi một phân đội lính trong đó có cả quân lính "Quốc gia Việt Nam" đến đóng một đồn ở đảo Pattle ( Hoàng Sa ). Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc phản kháng và các cuộc thương lượng được tiến hành từ ngày 25 tháng 2 đến ngày 4 tháng 7 năm 1947 tại Paris. Tại đây, chính phủ Trung Hoa Dân Quốc đã từ chối không chấp nhận việc nhờ trọng tài quốc tế giải quyết do Pháp đề xuất. Ngày 1 tháng 12 năm 1947, Bộ Nội Vụ chính quyền Tưởng Giới Thạch công bố tên Trung Hoa cho hai quần đảo và đặt chúng thuộc lãnh thổ Trung Hoa.
Trong hoàn cảnh lịch sử cuối năm 1946 đầu năm 1947, Việt Nam đã giành được độc lập từ năm 1945, không còn ràng buộc vào hiệp định Patenôtre (1884) với Pháp song Pháp vẫn cho rằng theo hiệp định sơ bộ ngày 6 tháng 3 năm 1946, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà còn nằm trong khối Liên Hiệp Pháp, về ngoại giao vẫn thuộc về Pháp, nên Pháp vẫn thực thi quyền đại diện Việt Nam trong vấn đề chống lại xâm phạm chủ quyền Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Chính quyền Pháp bổ sung quân sự bằng cách đóng quân và thực hiện quản lý trên hai quần đảo. Điều này chứng tỏ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo đã được củng cố vững chắc từ thời Pháp thuộc.
Do chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥoà kháng chiến chống Pháp và hải quân Pháp làm chủ Biển Đông , nên với hiệp định ngày 8 tháng 3 năm 1949, Pháp gây dựng được chính quyền thân Pháp còn gọi là quốc gia Việt Nam do cựu hoàng Bảo Đại đứng đầu, đối đầu với Chính quyền Cách Mạng do chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo. Trên thực tế, trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, quân Pháp đang làm chủ Biển Đông trong đó có quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thay mặt nhà nước Việt Nam.
Tháng 4 năm 1949, Đổng lý văn phòng của quốc trưởng Bảo Đại là hoàng thân Bửu Lộc, trong một cuộc họp báo tại Sàigòn đã công khai khẳng định lại chủ quyền của Việt Nam đã từ lâu đời trên quần đảo Hoàng Sa.
Vào ngày 1 tháng 10 năm 1949, Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa được thành lập ở lục địa Trung Quốc, Trung Hoa Dân Quốc do Tưởng Giới Thạch cầm đầu đã rút lui ra Đài Loan. Tháng 4 năm 1950, đồn lính Trung Hoa Dân Quốc chiếm đóng bất hợp pháp ở đảo Phú Lâm (Ile Boisée) thuộc quần đảo Hoàng Sa đã rút lui. Còn đồn lính của Pháp đóng ở đảo Hoàng Sa (Pattle) vẫn còn duy trì. Đến năm 1954, Pháp đã chính thức trao lại quyền quản lý cho Chính phủ Việt Nam.
Ngày 14 tháng 10 năm 1950, chính phủ Pháp chính thức chuyển giao cho chính phủ Bảo Đại quyền quản lý các quần đảo Hoàng Sa. Thủ hiến Trung Phần là Phan Văn Giáo đã chủ tọa việc chuyển giao quyền hành ở quần đảo Hoàng Sa.
Hội nghị San Francisco có 51 quốc gia tham dự từ ngày 5 tháng 9 đến ngày 8 tháng 9 năm 1951, ký kết hoà ước với Nhật. Ngày 5 tháng 9 năm 1951, họp khoáng đại, ngoại trưởng Gromyko đề nghị 13 khoản tu chính. Khoản tu chính liên quan đến việc Nhật nhìn nhận chủ quyền của Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa đối với đảo Hoàng Sa và những đảo xa hơn nữa dưới phía Nam. Khoản tu chính này đã bị Hội nghị bác bỏ với 48 phiếu chống và 3 phiếu thuận. Như vậy, cái gọi là danh nghĩa chủ quyền Trung Quốc đối với các quần đảo ngoài khơi Biển Đông đã bị cộng đồng quốc té bác bỏ rõ ràng trong khuôn khổ một Hội nghị quốc tế.
Ngày 7 tháng 9 năm 1951, Thủ tướng kiêm ngoại trưởng Trần Văn Hữu của chính phủ Bảo Đại long trọng tuyên bố rằng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ của Việt Nam : "Et comme il faut franchement profiter de toutes occasions pour étouffer les germes de discorde, nous affirmons nos droits sur les îles Spratley et Paracels qui de tout temps ont fait partie du Viet Nam »
Không một đại biểu nào trong hội nghị bình luận gì về lời tuyên bố này.
Kết thúc hội nghị là ký kết hoà ước với Nhật ngày 8 tháng 9 năm 1951. Trong hoà ước này có điều 2, đoạn 7 ghi rõ:
Nguyên văn là "Nhật Bản từ bỏ mọi quyền, danh nghĩa và tham vọng đối với các quần đảo Paracels và Spratly". Song đến đây, tình hình chính trị thế giới đã bắt đầu biến chuyển, chiến tranh lạnh giữa hai khối Tư bản chủ nghĩa do Mỹ cầm đầu và khối Xă hội Chủ nghĩa do Liên Sô đứng đầu đã bắt đầu tác động đến Việt Nam trong đó có chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa lại tăng lên sự tranh chấp, càng ngày càng phức tạp khiến sự bảo vệ chủ quyền trở nên hết sức khó khăn với nhiều danh nghĩa khác nhau với nhiều thế lực quốc tế can thiệp.
Ngày 24 tháng 8 năm 1951, lần đầu tiên Tân Hoa Xã lên tiếng tranh cãi về quyền của Pháp và những tham vọng của Philippines , thân Mỹ và kiên quyết khẳng định quyền của Trung Quốc.
Khi ra thông báo về bản dự thảo Hiệp Ước với Nhật ở San Francisco, ngày 15 tháng 8 năm 1951, Bộ Trưởng Ngoại Giao nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa Chu An Lai ra bản tuyên bố công khai khẳng định cái gọi là « tính lâu đời » của các quyền của Trung Quốc đối với quần đảo, trong khi Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa và Trung Hoa Dân Quốc không tham dự hội nghị này.
Cũng lợi dụng cục diện chiến tranh lạnh đang xảy ra, sự giành giật thế lực ở một nơi trong đó có Biển Đông, phái đoàn Liên Sô đề xuất giao cho Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa quản lý hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đã không được Hội Nghị chuẩn nhận, song cũng là cái cớ để Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa lên tiếng. Dù sao, sau năm 1950, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa không còn quân nước ngoài chiếm đóng ngoài lực lượng trú phòng Việt Nam của Chính quyền Bảo Đại.
Hiệp định Genève ký kết ngày 20 tháng 7 năm 1954 chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương, công nhận độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và thống nhất của nước Việt Nam. Điều 1 qui định đường ranh tạm thời về quân sự được ấn định bởi sông Bến Hải (ở vĩ tuyến 17). Đường ranh tạm thời này cũng được kéo dài ra trong hai phần bằng một đường thẳng từ bờ biển ra ngoài khơi theo điều 4 của Hiệp định. Cũng theo điều 14 của bản Hiệp định, trong khi chờ đợi cuộc tổng tuyển cử đưa lại sự thống nhất cho Việt Nam, bên đương sự và quân đội do thoả hiệp tập kết ở khu nào sẽ đảm nhiệm việc hành chánh trong khu tập kết đó. Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở Biển Đông ở dưới vĩ tuyến 17 sẽ đặt dưới sự quản lý hành chánh của phía chính quyền quản lý miền Nam vĩ tuyến 17.
Như thế, quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được đặt dưới sự quản lý hành chánh của chính quyền Việt Nam Cộng Hoà, lúc ấy hai quần đảo này chưa có sự chiếm đóng của bất cứ quân đội nước nào ngoài quân đội Pháp. Chính quyền ở Phía Nam vĩ tuyến 17 phải chịu trách nhiệm quản lý hai quần đảo trên ở ngoài khơi bờ biển Việt Nam dưới vĩ tuyến 17.
Tháng 4 năm 1956, khi quân viễn chinh Pháp rút khỏi Miền Nam Việt Nam, Philippines nêu vấn đề chủ quyền.
D - HOÀN CẢNH LỊCH SỬ DẪN ĐẾN VIỆC TRUNG QUỐC , PHÁP, VIỆT NAM CỘNG HÒA VÀ CÁC NƯỚC KHÁC TRONG KHU VỰC TRANH CHẤP CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TẠI HOÀNG SA & TRƯỜNG SA TỪ NĂM 1956 ĐẾN 1975.
Việc Pháp thua trận ở Điện Biên Phủ và ký hiệp định Genève 20 tháng 7 năm 1954, khiến tháng 4- 1956 quân Pháp phải rút lui khỏi Việt Nam và để khoảng trống bố phòng ở Biển Đông khiến các nước trong khu vực trong đó có Cộng Ḥòa Nhân Dân Trung Hoa , Trung Hoa Dân Quốc ( Đài Loan ) và Philippines cho là cơ hội tốt chiếm đóng trái phép Hoàng Sa cũng như Trường Sa của Việt Nam.
Khi ấy, quân đội Quốc Gia Việt Nam sau gọi là Việt Nam Cộng Hoà đã chiếm đóng các đảo phía Tây của quần đảo Hoàng Sa bao gồm đảo Hoàng Sa (Pattle). Ngày 1 tháng 6 năm 1956, Ngoại Trưởng Chính Quyền Việt Nam Cộng Hoà Vũ Văn Mẫu ra tuyên bố tái khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Vài ngày hôm sau, Pháp cũng nhắc lại cho Philippines biết những quyền hạn mà Pháp đã có đối với hai quần đảo trên từ năm 1933.
Ngày 22 tháng 8 năm 1956, lục hải quân Việt Nam Cộng Hoà đổ bộ lên các đảo chính của quần đảo Trường Sa và dựng bia, kéo cờ. Sau khi trấn giữ ở các đảo phía Tây quần đảo Hoàng Sa, ngày 22 tháng 8 năm 1956, lực lượng hải quân của chính phủ Việt Nam Cộng Hoà đã đổ bộ lên các hòn đảo chính của nhóm Trường Sa, dựng một cột đá và trương quốc kỳ.
Tháng 10 năm 1956, hải quân Đài Loan đến chiếm đảo Ba Bình (Itu Aba). Ngày 22 tháng 10 năm 1956, sắc lệnh số 143 – Ncủa Tổng Thống Việt Nam Cộng Hoà thay đổi địa giới các tỉnh và tỉnh lỵ tại « Nam Việt » (Nam Bộ). Trong danh sách các đơn vị hành chánh « Nam Việt » (Nam Bộ) đính kèm theo sắc lệnh có những thay đổi tên mới, trong đó có tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu nay được gọi là tỉnh Phước Tuy và đảo Spratly thuộc tỉnh Phước Tuy được gọi là Hoàng Sa cùng tên với quần đảo phía Bắc là Paracels.
Trong khi ấy, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa cũng đã nhanh chóng chiếm giữ đảo Phú Lâm( Ile Boisée) , đảo lớn nhất của quần đảo Hoàng Sa , song hành với việc Đài Loan chiếm giữ đảo lớn nhất của quần đảo Trường Sa. Một tình hình hết sức phức tạp, đen tối cho chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa & Trường Sa. Song từ sau Hiệp định Genève mà Trung Quốc đã ký, chính quyền phía Nam mới có trách nhiệm quản lý chủ quyền Ḥoàng Sa & Trường Sa vì hai quần đảo này nằm phía dưới vĩ tuyến 17. Vụ việc công hàm của Thủ tướng Phạm văn Đồng năm 1958 chỉ ủng hộ Tuyên bố 12 hải lý về lănh hải của Trung Quốc cũng như những biểu hiện khác thuộc chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥoà vào thời gian này cũng không có giá trị pháp lý quốc tế về sự từ bỏ chủ quyền mà Chính quyền Trung Quốc tố cáo là lật lọc là không đúng sự thực và thực chất về chủ quyền ở Hoàng Sa. Trong bối cảnh chiến tranh lạnh, đối đầu của hai khối chính trị mà Cộng Ḥoà Nhân Dân Trun g Hoa đang là đồng minh chí cốt của Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥoà và cùng thù địch với Mỹ lại là đồng minh của Đài Loan và Việt Nam Cộng Hòa, nên tất cả những hành động đối đầu cũng chỉ là đối sách chính trị thù địch nhất thời.
Ngày 13 tháng 7 năm 1961, sắc lệnh số 174 – N của Tổng thống Việt Nam Cộng Hoà đặt quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam và thành lập tại quần đảo này một xã lấy tên là xã Định Hải trực thuộc quận Hoà Vang.
Trong sắc lệnh trên, ghi rằng: "Quần đảo Hoàng Sa trước kia thuộc tỉnh Thừa Thiên, nay đặt thuộc tỉnh Quảng Nam (điều 1). Đặt đơn vị hành chính xã bao gồm trọn quần đảo này được thành lập và lấy danh hiệu là xã Định Hải, trực thuộc quận Hoà Vang. Xã Định Hải dưới quyền một phái viên hành chính ( điều 2). Tháng 2 năm 1959, nhiều dân chài Trung Quốc định đến đóng trên phần phía Tây quần đảo Hoàng Sa , nhưng không thành công, bị hải quân Việt Nam Cộng Hoà bắt và hoàn trả lại Trung Quốc.
Ngày 13 tháng 7 năm 1971, Bộ Trưởng Ngoại Giao Việt Nam Cộng Hoà, ông Trần Văn Lắm có mặt ở Manila đã lên tiếng nhắc lời yêu sách của Việt Nam và các danh nghĩa làm cơ sở cho những yêu sách đó trên quần đảo Trường Sa.
Ngày 6 tháng 9 năm 1973, Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ của chính quyền Việt Nam Cộng Hoà đã sửa đổi việc quản lý hành chính của Trường Sa vào xã Phước Hải, quận Đất Đỏ, tỉnh Phước Tuy mà trước đây vào năm 1956 , thời chính quyền Ngô Đình Diệm đã có sắc lệnh gọi quần đảo Spratly là quần đảo Hoàng Sa
Trong bối cảnh sau Thông Cáo Chung Thượng Hải năm 1972 giữa Mỹ và Trung Quốc, tạo sự nứt rạn không thể hàn gắn giữa Liên Sô và Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, trong khi Chiến tranh Việt Nam đang ở giai đoạn gần kết thúc, cuộc diện chính trị thế giới biến đổi đã ảnh hưởng đến Việt Nam kể cả về sự bảo vệ chú quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa & Trường Sa. Ngày 11 tháng 1 năm 1974, Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa tuyên bố việc sáp nhập các đảo của quần đảo Trường Sa vào tỉnh Phước Tuy của Việt Nam Cộng Hoà là sự lấn chiếm lãnh thổ Trung Quốc và khẳng định lại các yêu sách của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Ngày 12 tháng 1 năm 1974, chính phủ Việt Nam Cộng Hoà tuyên bố bác bỏ yêu sách của Trung Quốc. Ngày 15 tháng 1 năm 1974, Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa bắt đầu triển khai một lực lượng hải quân mạnh mẽ trong đó có nhiều tàu được ngụy trang thành tàu đánh cá và có phi cơ yểm trợ. Mặt khác, Bộ Tư Lệnh hải quân Việt Nam Cộng Hoà đã điều động tuần dương hạm Lý Thường Kiệt đến Hoàng Sa để tuần phòng và canh chừng.
Sau khi phát hiện sự có mặt của quân đội Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa tại vùng Hoàng Sa với cờ dựng trên các đảo Quang Anh (Money), Hữu Nhật (Robert), lực lượng quân đội Việt Nam Cộng Hoà được tăng cường với khu trục hạm Trần Khánh Dư, tuần dương hạm Trần Bình Trọng, hộ tống hạm Nhật Tảo. Lực lượng tăng cường của Việt Nam Cộng Hoà có các toán biệt hải được lệnh đổ bộ đến các đảo hạ cờ của quân đội Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa. Vài vụ xô xát đã xảy ra, súng đã nổ trên đảo Quang Hoà (Duncan) và một đảo khác.
Tiếp ngày 16 tháng 1 năm 1974, chính phủ Việt Nam Cộng Hoà đã ra tuyên cáo bác bỏ luận cứ của Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa và đưa ra những bằng chứng rõ ràng về pháp lý, địa lý, lịch sử để xác nhận chủ quyền của Việt Nam Cộng Hoà trên hai quần đảo này. Hai bên bắt đầu phối trí toàn bộ lực lượng, các chiến hạm hai bên cách nhau chừng 200m. Sau đó hai bên bỗng tách rời nhau để chuẩn bị, cuộc hải chiến bắt đầu diễn ra vào lúc 10 giờ 25 phút ngày 19 tháng 1 năm 1974. Một chiến hạm Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa bị bốc cháy.. Các chiến hạm Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa mang số 281, 182 dồn sức đánh trả khiến chiến hạm Nhật Tảo bị trúng đạn trên đài chỉ huy và hầm máy chính, hạm trưởng Ngụy Văn Thà hy sinh . Sau hơn 1 giờ giao tranh, 2 chiến hạm Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa chìm, 2 chiếc khác bị bắn cháy. Bên lực lượng Việt Nam Cộng Hoà ngoài hộ tống hạm Nhật Tảo bị chìm, còn có một số chiến hạm bị thương tổn, trong đó có một số binh sĩ bị bắt và mất tích. Một người Mỹ tên Gerald Kosh, một nhân viên dân sự thuộc văn phòng tùy viên quốc phòng toà đại sứ Mỹ ở Sàigòn, được biệt phái làm liên lạc viên cạnh bộ chỉ huy hải quân Quân Khu I Việt Nam Cộng Hoà cũng bị bắt (theo Nhật báo Chính Luận, số 2982, ngày 31 tháng 1 năm 1974). Kosh được trao trả lúc 12 giờ trưa ngày 31 tháng 1 năm 1974. Ngày 17 tháng 2 năm 1974, chính quyền Bắc Kinh trả tự do cho 43 quân nhân và nhân viên của Việt Nam Cộng Hoà tại Tân Giới ( Hồng Kông).
Lầu Năm Góc được chính quyền Sài Gòn yêu cầu can thiệp, quyết định đứng ngoài cuộc xung đột. Trợ lý Bộ Trưởng Ngoại giao Mỹ, Arthur Hummel cho chính quyền Sài Gòn biết Mỹ không quan tâm đến vấn đề Hoàng Sa.
Qua thông điệp ngoại giao được gởi đến tất cả các nước ký Hiệp Định Paris (1973), chính quyền Việt Nam Cộng Hoà nhắc lại sự đảm bảo toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, yêu cầu Hội Đồng Bảo An họp một phiên họp đặc biệt.
Ngày 1 tháng 2 năm 1974, chính quyền Sàigòn quyết định tăng cường phòng thủ các đảo ở quần đảo Trường Sa, đưa lực lượng ra đóng ở 5 đảo thuộc Trường Sa. Qua đại sứ ở Manila, chính quyền Sàigòn khẳng định chủ quyền Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.
Ngày 1 tháng 2 năm 1974, đoàn đại biểu của Việt Nam Cộng Hoà ra tuyên bố tại hội nghị của Liên Hợp Quốc về luật Biển Caracas khẳng định lại chủ quyền của Việt Nam trên các quần đảo, tố cáo Bắc Kinh đánh chiếm Hoàng Sa . Ngày 30 tháng 3 năm1974, đại biểu chính quyền VNCH khẳng định chủ quyền Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa tại Hội Đồng Kinh Tài Viễn Đông họp tại Colombia. Ngày 14 tháng 2 năm 1975, Bộ Ngoại giao chính quyền VNCH công bố Sách Trắng về Hoàng Sa và Trường Sa.
Tóm lại, Pháp xâm chiếm trở lại Việt Nam, dẫn đến cuộc kháng chiến chống Pháp ( 1945-1954), Pháp vẫn làm chủ Biển Đông và thực thi chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa. Hiệp định Genève năm 1954 qui định từ vĩ tuyến 17 trở xuống thuộc chính quyền phía Nam quản lý. Khi Pháp rút quân tháng 4/1956, xảy ra chiến tranh lạnh giữa Liên Xô đứng đấu phe Xă Hội Chủ Nghĩa và Mỹ đứng đầu phe Tư bản Chủ Nghĩa, Việt Nam bị chia cắt khiến hai chính quyền bị cuốn hút vào sự đối đầu, không có điều kiện bảo vệ toàn vẹn được chủ quyền để cho Trung Quốc chiếm từng phần rồi toàn thể Hoàng Sa và Việt Nam Cộng Ḥoà chỉ trấn giữ quần đảo Trường Sa song lại để cho Đài Loan chiêm đảo Ba Bình, lớn nhất của quần đảo Trường Sa cùng Philippines chiếm một số đảo, đá trong đó có Song Tử Đông ở Trường Sa.
Chính vì vậy, chúng ta có thể nói rằng nguyên nhân chủ yếu dẫn đến các nước trong khu vực tranh chấp chủ quyền của Việt Nam cũng như Trung Quốc chiếm giữ trái phép hoàn toàn Hoàng Sa và Trường Sa trong thời kỳ này chính là những biến động chính trị ở Việt Nam cũng như trên thế giới, Mỹ rút quân khỏi Việt Nam , không còn bảo vệ đồng minh Việt Nam Cộng Ḥoà, để cho Trung Quốc chiếm Hoàng Sa bằng vũ lực.
E - HOÀN CẢNH LỊCH SỬ DẪN ĐẾN VIỆC TRUNG QUỐC, VIỆT NAM THỐNG NHẤT CÙNG CÁC NƯỚC TRONG KHU VỰC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TẠI TRƯỜNG SA TỪ NĂM 1975 ĐẾN NAY
- Từ 1975 đến 1990, Việt Nam hợp tác toàn diện với Liên Xô, Trung Quốc đã ký với Mỹ Thông cáo chung ở Thượng Hải năm 1972, mâu thuẫn giữa Trung Quốc và Liên Xô không giảm; Việt Nam và Trung Quốc xảy ra chiến tranh năm 1979 khiến tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc tại Hoàng Sa và Trường Sa trở nên gay gắt.
Chính Quyền Việt Nam thống nhất tiếp tục khẳng định chủ quyền Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, vẫn chịu
những dư âm tác động đối đầu của các thế lực quốc tế trước đây chưa chấm dứt được sự tranh chấp chủ quyền tại Hoàng Sa và Trường Sa .
Sau chiến thắng Buôn Mê Thuột, thời cơ chiến lược giải phóng Miền Nam đã đến. Bộ chính trị quyết định giải phóng hoàn toàn miền Nam ngay trong mùa khô 1975 bao gồm các đảo và các quần đảo Trường Sa, Côn Lôn, Phú Quốc…
Ngày 5 tháng 4 năm 1975, Bộ Tư Lệnh Hải Quân chủ trương chuẩn bị chiến đấu giải phóng quần đảo Trường Sa. Lực lượng tham gia giải phóng gồm có các tàu của đoàn vận tải quân sự 125, đoàn 126 đặc công, tiểu đoàn 471, đặc công quân khu 5 và tiểu đoàn 407 cùng lực lượng đặc công tỉnh Khánh Hoà. Bộ Tư Lệnh Hải Quân chủ trương nhanh chóng đánh đảo Song Tử Tây trước để làm bàn đạp và rút kinh nghiệm đánh tiếp các đảo Nam Yết, Sơn Ca, Sinh Tồn, An Bang, Trường Sa và các đảo còn lại của quần đảo.
Ngày 9 tháng 9 năm 1975, đại biểu chính phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam Việt Nam tại hội nghị khí tượng thế giới tiếp tục đăng ký đài khí tượng Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa.
Ngày 10 tháng 9 năm 1975, Bắc Kinh gửi công hàm cho Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà khẳng định chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (mà Trung Quốc gọi là Tây Sa và Nam Sa).
Ngày 24 tháng 9 năm 1975, trong cuộc gặp đoàn đại biểu Đảng và chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà do Tổng Bí Thư Lê Duẩn dẫn đầu, nhà lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình tuyên bố sau này hai bên sẽ bàn bạc về vấn đề Tây Sa và Nam Sa.
Ngày 12 tháng 5 năm 1977, chính phủ Việt Nam tuyên bố về các vùng biển và thềm lục địa Việt Nam.
Tháng 9 năm 1977, khi thăm Philippines và tháng 10 năm 1977 khi đi thăm Malaysia, thủ tướng Phạm Văn Đồng đồng ý với tổng
thống Ferdinand Marcos và thủ tướng Hussein On rằng hai bên sẽ giải quyết mọi tranh chấp và bất đồng bằng thương lượng hoà bình.
Tháng 3 năm1978, Hội nghị hành chính thế giới về thông tin vô tuyến điện thông qua một nghị quyết cho phép Trung Quốc sử dụng một số tần số trên vùng trời Hoàng Sa.
Ngày 30 tháng 12 năm 1978, người phát ngôn Bộ ngoại giao nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam ra tuyên bố bác bỏ luận điệu nêu trong tuyên bố ngày 29 tháng 2 năm 1978 của người phát ngôn Bộ ngoại giao Trung Quốc về vấn đề quần đảo Trường Sa, khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nhắc lại lập trường của Việt Nam chủ trương giải quyết mọi tranh chấp hoặc bất bình bằng thương lượng hoà bình.
Ngày 30 tháng 7 năm 1979, Trung Quốc đã công bố tại Bắc Kinh tài liệu để chứng minh rằng Việt Nam đã “thừa nhận” chủ quyền Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Ngày 7 tháng 8 năm 1979, Bộ ngoại giao nước Cộng Hoà Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam ra tuyên bố về quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, bác bỏ sự xuyên tạc của Trung Quốc trong việc công bố một số tài liệu củaViệt Nam liên quan đến các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, khẳng định lại chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo này, nhắc lại lập trường của Việt Nam về việc giải quyết sự tranh chấp về 2 quần đảo giữa hai nước bằng thương lượng hoà bình.
Ngày 28 tháng 9 năm 1979, Bộ ngoại giao Việt Nam công bố một số tài liệu về chủ quyền Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa.
Ngày 28 tháng 9 năm 1979, Bộ ngoại giao Việt Nam bác bỏ việc Philippines tuyên bố sát nhập hầu hết lãnh thổ Trường Sa vào lãnh thổ Philippines.
Ngày 30 tháng 1 năm 1980, Bộ ngoại giao Trung Quốc công bố văn kiện về Tây Sa và Nam Sa. Ngày 5 tháng 2 năm 1980, Bộ ngoại giao Việt Nam ra tuyên bố vạch trần thủ đoạn xuyên tạc của Trung Quốc trong văn kiện ngày 30 tháng 1 năm 1980.
Ngày 29 tháng 4 năm 1980, Bộ ngoại giao Việt Nam gửi công hàm cho Malaysia phản đối việc Malaysia công bố bản đồ Malaysia lấn vào vùng biển và thềm lục địa Việt Nam tại vùng Trường Sa.
Ngày 8 tháng 5 năm 1980, nhân chuyến viếng thăm và hội đàm với Malaysia, Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch đã khẳng định đảo An Bang là của Việt Nam.
Tháng 6 năm 1980, tại Hội nghị Khí Tượng Khu Vực Châu Á II họp tại Genève, đại biểu Việt Nam tuyên bố trạm khí tượng của Trung Quốc tại Sanhudao (đảo Hoàng Sa của Việt Nam) là bất hợp pháp. Kết quả là trạm Hoàng Sa của Việt Nam được giữ nguyên trạng trong danh sách các trạm như cũ.
Ngày 13 tháng 6 năm 1980, Việt Nam yêu cầu OMM đăng ký trạm khí tượng Trường Sa vào mạng lưới OMM.
Tháng 12 năm 1981, Tổng cục Bưu Điện Việt Nam điện cho Chủ Tịch Ủy Ban đăng ký tần số tại Genève phản đối việc Trung Quốc được phát một số tần số trên vùng trời Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
Tháng 12 năm 1981, Bộ Ngoại Giao Việt Nam công bố sách trắng: “Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa , lãnh thổ Việt Nam”.
Tháng 6 năm 1982, Tân Hoa Xã loan tin là một hải cảng lớn được xây dựng tại Hoàng Sa.
Tháng 10, tại Hội Nghị Toàn Quyền của UIT, đại biểu Việt Nam tuyên bố không chấp nhận việc thay đổi phát sóng đã được phân chia năm 1978 tại Genève.
Ngày 12 tháng 11 năm 1982, chính phủ Việt Nam công bố đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải .
Ngày 4 tháng 2 năm 1982, chính phủ Việt Nam thành lập huyện Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng.
Ngày 9 tháng 12 năm 1982, chính phủ Việt Nam lập huyện Trường Sa. Đến ngày 28 tháng 12 năm 1982, chính phủ Việt Nam quyết định huyện Trường Sa được nhập vào tỉnh Phú Khánh.
Tháng 1 năm 1983, Hội Nghị Hành Chính Thế Giới về thông tin vô tuyến đồng ý sẽ xem xét đề nghị của Việt Nam về việc phát sóng trên vùng trời Hoàng Sa và Trường Sa tại hội nghị sắp tới.
Cũng tháng 01 năm 1983, Hội Nghị Hàng Không Khu Vực Châu Á Thái Bình Dương họp ở Singapore. Trung Quốc muốn mở rộng FIR Quảng Châu lấn vào FIR Hà Nộivà FIR TP Hồ Chí Minh, nhưng Hội Nghị quyết định duy trì nguyên trạng.
Từ ngày 4 đến 16 tháng 4 năm 1984, đoàn đại biểu Quốc Hội Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam và đoàn đại biểu tỉnh Phú Khánh thăm huyện Trường Sa. Thứ trưởng Bộ Thủy Sản Việt Nam Vũ Văn Trác đi khảo sát nghề cá tại huyện Trường Sa.
Ngày 25 tháng 4 năm 1984, Uy Ban Địa Danh Trung Quốc công bố tên mới cho các đảo, bãi, đá trong Biển Đông trong đó có đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
Ngày 6 tháng 5 năm 1984, người phát ngôn Bộ Ngoại Giao Việt Nam phản đối việc đặt tên của Trung Quốc.
Tại Hội Nghị Tổ Chức Thông Tin Vũ Trụ Quốc Tế (INTU SAT) lần thứ 13 họp tại Bangkok, đại biểu Việt Nam đã phản đối việc Trung Quốc sử dụng những bản đồ ghi Hoàng Sa, Trường Sa (mà Trung Quốc gọi là Tây Sa, Nam Sa) là của Trung Quốc.
Bộ Ngoại Giao Việt Nam phản đối Malaysia chiếm đóng đảo Hoa Lau trong quần đảo Trường Sa. Việt Nam phản đối việc ngày 1 tháng 6 năm 1984 Quốc hội Trung Quốc tuyên bố việc thiết lập khu hành chính Hải Nam bao gồm cả hai quần đảo Tây Sa, Nam Sa.
Vào đầu năm 1985, Đại Tướng Văn Tiến Dũng, Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng Việt Nam ra thăm quần đảo Trường Sa.
Sang năm 1986, ông Hồ Diệu Bang, Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Trung Quốc cùng Lưu Hoa Thanh, Trương Trọng Tiến đi thị sát Hoàng Sa.
Tháng 5 năm 1987, đô đốc Giáp Văn Cường, Tư lệnh hải quân Việt Nam ra thăm quần đảo Trường Sa.
Từ 16 tháng 5 đến 6 tháng 6 năm 1987, hải quân Trung Quốc tập trận tại vùng biển Trường Sa.
Tháng 10 năm 1987, hải quân Trung Quốc diễn tập quân sự tại Tây Thái Bình Dương và Nam Biển Đông.
Ngày 10 tháng 11 năm 1987, hải quân Trung Quốc đổ bộ lên đá Louisa (Nandong Jiao) (113° – 6° 8).
Tháng 1 năm 1988, một lực lượng lớn tàu chiến, có nhiều tàu khu trục và tàu tên lửa, đi từ đảo Hải Nam xuống phía Nam, trong đó có bốn chiếc được phái đến khu vực quần đảo Trường Sa, khiêu khích và cản trở hoạt động của hai tàu vận tải Việt Nam trong khu vực bãi đá Chữ Thập và bãi đá Châu Viên là hai bãi san hô còn đang lập lờ mặt nước. Quân lính Trung Quốc cắm cờ trên hai bãi đá trên, đồng thời cho tàu chiến thường xuyên ngăn cản, khiêu khích các tàu vận tải của Việt Nam đang tiến hành những hoạt động tiếp tế bình thường giữa các đảo do quân đội Việt Nam bảo vệ. Trong đợt hoạt động trên, Trung Quốc đã thành lập một bộ tư lệnh đặc biệt, sử dụng lực lượng của hạm đội Nam Hải, được tăng cường một bộ phận của hạm đội Đông Hải và họ thường xuyên dùng trên 20 tàu các loại ở khu vực quần đảo Trường Sa.
Về sự kiện xảy ra ngày 14 tháng 3 năm 1988, Trung Quốc nói rằng: “Trung Quốc buộc phải phản kích để tự vệ”. Theo cách nói đó, có nghĩa là hải quân Việt Nam là kẻ tấn công (bằng hai tàu vận tải!), còn hải quân Trung Quốc là kẻ phòng thủ tự vệ. Trung Quốc sử dụng một biên đội tàu chiến đấu gồm sáu chiếc, trong đó có ba tàu hộ vệ số 502, 509 và 531 trang bị tên lửa và pháo cỡ 100mm, vô cớ tiến công bắn chìm ba tàu vận tải Việt Nam đang làm nhiệm vụ tiếp tế ở các bãi đá Lan Đao, Cô Lin, Gac Ma thuộc cụm đảo Sinh Tồn của Việt Nam.
Ngày 14 tháng 3 năm 1988, giữa Trung Quốc và Việt Nam đã nổ ra cuộc chiến đấu trên biển Nam Trung Quốc. Cuộc chiến đấu này mặc dù chỉ diễn ra trong thời gian 28 phút nhưng nó đã làm cả thế giới quan tâm theo dõi. Tàu vận tải số 64 của hải quân Việt Nam chở đầy binh lính bị bắn chìm tại chỗ, tàu đổ bộ số 505 và một tàu vận tải khác số 605 bị bắn trọng thương, kéo theo đám cháy và cột khói đen ngòm. Tàu đổ bộ số 505 bị chìm trên đường về, còn tàu đổ bộ số 605 thì bị mắc cạn. Cuộc chiến đấu không cân sức trên giữa các tầu vận tải của Việt Nam vời các tầu chiến của Trung Quốc, vẻn vẹn chỉ diễn ra có 28 phút đã kết thúc với kết quả phía Việt Nam có một tàu bị chìm tại chỗ, hai tàu bị thương, chết và bị thương 20 người, mất tích 74 người. Còn phía Trung Quốc chỉ có một số nhân viên khảo sát và nhân viên khác trên đảo bị thương , ngoài ra không bị tổn thất gì, đây là một trận chiến đấu trên biển mà phía Trung Quốc cho là « đánh gọn và đẹp mắt» (sic!). Sau các va chạm trên, hải quân Trung Quốc tiếp tục ngăn cản các hoạt động tiếp tế do tàu Việt Nam thực hiện.
Tính đến ngày 6 tháng 4 năm 1988, Trung Quốc đã chiếm đóng: Đá Chữ Thập, Đá Châu Viên, Đá Ga Ven, Đá Tư Nghĩa, Đá Gạc Ma, Đá Subi.
Ngày 3 tháng 1 năm 1989, Trung Quốc đặt bia chủ quyền trên các bãi họ chiếm được trong năm 1988 : Đá Chữ Thập, Đá Châu Viên, Đá Ga Ven, Đá Tư Nghĩa,Đá Gạc Ma, Đá Subi.
Năm 1988, Chính phủ Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đã thông báo cho Liên Hợp Quốc, gửi nhiều công hàm phản đối đến Bắc Kinh và đặc biệt là các công hàm ngày 16,17, 23 tháng 3 năm 1988 đề nghị hai bên thương lượng giải quyết vấn đề tranh chấp. Trung Quốc tiếp tục chiếm giữ các bãi đá đã chiếm được và khước từ thương lượng. Ngày 14 tháng 4 năm 1988, Bộ ngoại giao Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam phản đối việc Quốc hội Trung Quốc sáp nhập hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vào tỉnh Hải Nam (nghị quyết ngày 13 tháng 4 năm 1988 thành lập tỉnh Hải Nam).
Tháng 4 năm 1988, Bộ Ngoại Giao Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam công bố Sách Trắng "Các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và luật pháp quốc tế".
Ngày 14 tháng 8 năm 1989, chính phủ Việt Nam quyết định thành lập Cụm Kinh Tế Khoa Học Dịch Vụ trên vùng bãi ngầm Tứ Chính, Huyền Trân, Quế Đường, Phúc Tần, Phúc Nguyên thuộc thềm lục địa Việt Nam có toạ độ 7 - 803B , 109 - 112 020 Đ .
Ngày 2 tháng 10 năm1989, người phát ngôn Ngoại giao Việt Nam tuyên bố bác bỏ luận điệu trong bản tuyên bố của Trung Quốc
ngày 28 tháng 4 năm 1989. Người phát ngôn bộ ngoại giao Trung Quốc đã lên án Việt Nam xâm phạm trái phép một số đảo và cù lao tại bãi Vạn An và Bãi Vạn Nhã thuộc “quần đảo Nam Sa” .
Ngày 9 tháng 3 năm 1990, Trung Quốc kết thúc đợt khảo sát khoa học ở quần đảo Trường Sa bắt đầu từ ba năm trước.
Ngày 18 tháng 3 năm 1990, nhiều tàu đánh cá từ Quảng Châu đến đánh cá ở Trường Sa. Ngày 16 tháng 4 năm 1990, Bộ Ngoại Giao Việt Nam gửi bản ghi nhớ cho đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội, phản đối việc Trung Quốc cho nhiều tàu quân sự , tàu khảo sát, tàu đánh cá đến hoạt động trong vùng biển Việt Nam tại quần đảo Trường Sa.
Ngày 28 tháng 4 năm 1990, Bộ Ngoại Giao Việt Nam gửi công hàm cho đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội, phản đối việc Trung Quốc đã cho quân lính xâm chiếm bãi Én Đất trên quần đảo Trường Sa.
- Từ năm 1990 đến nay, khối Liên Sô và Đông Âu sụp đổ, Việt Nam đổi mới, làm bạn với tất cả các nước kể cả Trung Quốc và Mỹ, sự tranh chấp Hoàng Sa và Trường Sa giữa Trung Quốc và Việt Nam không còn gay gắt như trước, song số dự trữ dầu lửa lớn ở Biển Đông khiến Trung Quốc vẫn chưa chịu trả Hoàng Sa cho Việt Nam và các nước khu vực và Trung Quốc vẫn tiếp tục tranh chấp với Việt Nam ở Trường Sa.
Tháng 8 năm 1990, Thủ tướng Trung Quốc Lý Bằng đề nghị tiến hành khai thác chung khu vực quần đảo Trường Sa.
Ngày 1 tháng 12 năm 1990 trong cuộc đi thăm Philippines, Thủ tướng Lý Bằng nói : “Chúng ta có thể tìm ra một giải pháp thích hợp đối với vấn đề Trường Sa với các bên hữu quan vào lúc thích hợp, nếu không phải là vào lúc này, tôi nghĩ chúng ta có thể gác lại vấn đề này và không để nó gây trở ngại trong quan hệ giữa Trung Quốc với các nước láng giềng hữu quan”.
Ngày 1 tháng 2 năm 1991, Trung Quốc xây dựng nhiều hải đăng trên các bãi đá ngầm mới chiếm được trong quần đảo Trường Sa.
Ngày 25 tháng 5 năm 1991, Trung Quốc công bố kết quả 8 năm khảo sát khoa học ở Trường Sa kể từ năm 1984.
Ngày 4 tháng 7 năm 1991 tại KuaLa Lumpur tổ chức một hội thảo không chính thức về giải quyết các tranh chấp trên vùng Biển Đông, Trung Quốc có cử đoàn cán bộ tham gia, người phát ngôn Bắc Kinh tuyên bố việc tham gia như thế không phải là Trung Quốc đã thay đổi lập trường và nói: “Trung Quốc chủ trương giải quyết tranh chấp bằng phương pháp hoà bình, Trung Quốc sẵn sàng cùng các nước liên quan thảo luận con đường và phương pháp cùng khai thác” .
Từ ngày 15 đến 18 tháng 7 năm 1991, do sáng kiến của Indonésia, một hội nghị quốc tế đã được tổ chức giữa các quốc gia trong khu vực về vấn đề quần đảo Trường Sa. Bản thông cáo cuối cùng khuyến khích đối thoại và đàm phán.
Ngày 10 tháng 11 năm 1991, các nhà lãnh đạo Việt Nam và Trung Quốc ký tại Bắc Kinh thông báo chung về bình thường hoá quan hệ giữa hai nước.
Ngày 25 tháng 2 năm 1992, quốc hội Trung Quốc công bố luật lãnh hải và vùng tiếp giáp Trung Quốc, quy định lãnh hải rộng 12 hải lý và lãnh thổ Trung Quốc giữa bốn quần đảo Đông, Tây, Nam, Trung Sa và đảo Điếu Ngư. Việt Nam đã lên tiếng công khai phản đối sự kiện này. Năm 1994, Việt Nam phản đối Trung Quốc đã xâm phạm thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam khi Trung Quốc ký với công ty Crestones ( Mỹ) cho phép thăm dò khai thác dầu mà Trung Quốc gọi là hợp đồng Vạn An Bắc 21. Ngày 18 tháng 4 năm 1994, ông R.C. Thompson, chủ tịch công ty Năng Lượng Crestones (Mỹ) ra thông báo với báo chí, nói rằng họ đang tiến hành khảo sát địa chấn và chuẩn bị thăm đảo để đánh giá tiềm năng dầu khí của khu vực, gọi là hợp đồng "Vạn An Bắc 21". Thông báo nói rằng: "Việc nghiên cứu khoa học và kế hoạch khai thác thương mại trong tương lai là những bước phát triển mới nhất của lịch sử nghiên cứu khoa học và thăm dò ở Biển Nam Trung Hoa và Khu vực vạn An Bắc của Trung Quốc, bắt đầu từ những báo cáo năm 200 trươc Công Nguyên vào thời Hán Vũ Đế!
Trước năm 1957, đã có nhiều công ty nước ngoài khảo sát địa vật lý và khoan thăm dò ở thềm lục địa Nam Việt Nam, trong đó có hai giếng đã phát hiện dầu thương mại. Vào cuối những năm 1970, có nhiều công ty như AGIP (Ý), DIMINEX (CHLB Đức), BOW VALLEY (Canada) đã thăm dò 5 lô dầu ở thềm lục địa miền Nam Việt Nam. Sau đó đến 1979, các công ty trên chấm dứt hoạt động. Tháng 9/1975, Tổng Cục Dầu Khí Việt Nam được thành lập nhằm thúc đẩy hoạt động tìm kiếm thăm dò dầu khí. Thềm lục địa Việt Nam rộng chừng 1,3 triệu km2, được chia thành 171 lô với diện tích trung bình mỗi lô khoảng 8000 km2. Trong đó có 31 lô có độ sâu mực nước biển dưới 50m, 35 lô từ 50 -100m, 10 lô từ 100 - 250m, 38 lô từ 200-2000m và 57 lô là có mực nước sâu trên 2000m.Trong phạm vi thềm lục địa Việt Nam có nhiều bồn trầm tích đệ tam có triền vọng chứa dầu khí.Cho đến cuối những năm 80, trên toàn thềm lục địa Việt Nam, chủ yếu ở phía Nam, đã khảo sát trên 100.000 km tuyến địa vật lý, khoan hàng chục giếng tìm kiếm thăm dò và đã phát hiện được ba mỏ dầu khí (Bach Hổ, Rồng và Đại Hùng). Từ năm 1986, mỏ Bạch Hổ bắt đầu được khai thác. Sản lượng năm 1986: 0,04 triệu tấn, 1988: 0,68 triệu tấn, 1989: 1,5 triệu tấn, 1990: 2,7 triệu tấn, 1991: 3,96 triệu tấn… (PTS Nguyễn Hiệp, Phó Tổng Giám Đốc Công Ty Dầu Khí Việt Nam, " Thăm dò và khai thác dầu khí ở Việt Nam", Khoa học và Tổ Quốc, (số 93), 1992, tr5).
Việc thăm dò và khai thác dầu khí ở thềm lục địa Việt Nam trên khiến người ta thấy tiềm năng vùng Biển Đông có nhiều triển vọng về dầu khí. Các tài liệu của Cộng Ḥoà Nhân Dân Trung Hoa cho con số trữ lượng từ 23 đến 30 tỷ tấn dầu tại vùng Nam Biển Đông.Chính số lượng dự trữ dầu lớn như vậy đã khiến cho sự tranh chấp chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa chưa dễ gì chấm dứt.
F - SỰ THỰC VỀ CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TẠI HOÀNG SA , TRƯỜNG SA & GIẢI PHÁP BỀN VỮNG CHO HOÀNG SA, TRƯỜNG SA & BIỂN ĐÔNG.
Như trên đã trình bày, Trung Hoa khi bắt đầu khảo sát Tây Sa vào năm 1909 cho rằng Tây Sa là vô chủ . Hồi năm 1898 , Chính quyền Quảng Châu, Trung Hoa đã trả lời các khiếu nại của công sứ Anh ở Bắc Kinh về công ty Bảo hiểm người Anh bảo hiểm các tàu Bellona của Đức ( bị đắm năm 1895) và tàu Humeji- Maru của Nhật (bị đắm năm 1896) đã bị những người Trung Hoa ở Hải Nam cướp phá rằng: “quần đảo Tây Sa là những ḥòn đảo bị bỏ rơi, chúng không phải sở hữu của cả Trung Hoa lẫn An Nam, cũng không sáp nhập về hành chánh vào bất kỳ quận nào của Hải Nam và không có nhà chức trách nào chịu trách nhiệm về cảnh sát của chúng”( Monique Chemillier- Gendreau, sđd,p.158).
Đến khi Pháp bắt đầu đưa ra những bằng chứng lịch sử sự chiếm hữu của Việt Nam, Trung Hoa hồi đó và Trung Quốc bây giờ lại luôn luôn nói rằng Tây Sa ( tức Hoàng Sa ) và Nam Sa ( tức Trường Sa) đã thuộc về Trung Quốc từ lâu, bất khả tranh nghị, khi thì nói từ đời Minh, khi thì nói từ đời Tống. Sự thực thế nào?
Sự thực là quần đảo Hoàng Sa không hề là vô chủ như luận điểm của chính quyền Trung Hoa hồi năm 1909: Các tư liệu chứng minh chủ quyền của Việt Nam đã xuất hiện liên tục qua các đời: từ đầu thời Chúa Nguyễn (tức đầu thế kỷ XVII), sang thời Tây Sơn rồi tới triều Nguyễn (từ vua Gia Long), Việt Nam có khoảng gần 30 tư liệu các loại, không ít ỏi như thư của Toàn Quyền Pasquier gửi cho Bộ Trưởng Bộ Thuộc Địa ngày 18-10-1930, mà đã khẳng định chủ quyền của Việt Nam hết sức rõ ràng.
Thời kỳ Đại Việt, từ thời kỳ Nam Bắc phân tranh và thời Tây Sơn, nguồn tư liệu về Hoàng Sa hầu như chỉ còn lại tư liệu của chính quyền họ Trịnh ở Bắc Hà, chủ yếu là Thiên Nam Tứ Chí Lộ Đồ Thư, Toản Tập An Nam Lộ trong sách Thiên Hạ bản đồ, trong Hồng Đức Bản Đồ năm 1686 và Phủ Biên Tạp Lục năm 1776 của Lê Quý Đôn.
Trong Thiên Nam Tứ Chí Lộ Đồ Thư hay Toản Tập An Nam Lộ, năm 1686 có bản đồ là tài liệu xưa nhất, ghi rõ hàng năm họ Nguyễn đưa 18 chiến thuyền đến khai thác ở Bãi Cát Vàng. Còn tư liệu trong Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quý Đôn, năm 1776 là tài liệu cổ, mô tả kỹ càng nhất về Hoàng Sa, quyển 2 có hai đoạn văn đề cập đến việc Chúa Nguyễn xác lập chủ quyền của Đại Việt tại Hoàng Sa bằng hoạt động của đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải.
Sang thời kỳ triều Nguyễn từ năm 1802 đến năm 1909, có rất nhiều tài liệu chính sử minh chứng chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa:
- Dư Địa Chí trong bộ Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí của Phan Huy Chú (1821) và sách Hoàng Việt Địa Dư Chí (1833). Nội dung về Hoàng Sa của hai cuốn sách trên có nhiều điểm tương tự như trong Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quý Đôn cuối thế kỷ XVIII.
- Đại Nam Thực Lục phần tiền biên, quyển 10 (soạn năm 1821, khắc in năm 1844) tiếp tục khẳng định việc xác lập chủ quyền của Đại Việt cũng bằng hoạt động của đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải.
- Đại Nam Thực Lục Chính biên đệ nhất kỷ (khắc in năm 1848); đệ nhị kỷ (khắc in xong năm 1864); đệ tam kỷ (khắc in xong năm 1879) có cả thảy 11 đoạn viết về quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa với nhiều nội dung mới, phong phú, rất cụ thể về sự tiếp tục xác lập chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
- Tài liệu rất quí gía, châu bản triều Nguyễn (thế kỷ XIX), hiện đang được lưu trữ tại kho lưu trữ trung ương 1 ở Hà Nội. Ở đó người ta tìm thấy những bản tấu, phúc tấu của các đình thần các bộ như Bộ Công, và các cơ quan khác hay những dụ của các nhà vua về việc xác lập chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa dưới triều Nguyễn như việc vãng thám, đo đạc, vẽ họa đồ Hoàng Sa, cắm cột mốc... Năm Thiệu Trị thứ 5 (1845) có chỉ đình hõan kỳ vãng thám, sau đó lại tiếp tục.
- Trong bộ sách Đại Nam Nhất Thống Chí (1882 soạn xong, 1910 soạn lại lần hai và khắc in) xác định Hoàng Sa thuộc về tỉnh Quảng Ngãi và tiếp tục khẳng định hoạt động đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải do đội Hoàng Sa kiêm quản...
Ngoài ra các bản đồ cổ của Việt Nam từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX đều vẽ Bãi Cát Vàng hay Hòang Sa và Vạn Lý Trường Sa trong cương vực của Việt Nam.
Đặc biệt nhất sự kiện năm 1836 Vua Minh Mạng sai suất đội thủy binh Phạm Hữu Nhật , người gốc đảo Lý Sơn chỉ huy thủy quân đi cắm cột mốc, dựng bia chủ quyền tại Hoàng Sa và Trường Sa, sau đó thành lệ hàng năm. Đại Nam Thực Lục Chính Biên đệ nhị kỷ, quyển 165 cũng đã chép rất rõ từ năm Minh Mạng thứ 17 (1836), Bộ Công tâu vua hàng năm cử người ra Hòang Sa ngòai việc đo đạc thủy trình, vẽ bản đồ và còn cắm cột mốc, dựng bia. .Châu ban Tập tấu của Bộ Công ngày 12 tháng 2 năm Minh Mạng 17 (1836) với lời châu phê của vua Minh Mạng cũng đã nêu rất rõ: “Mỗi thuyền vãng thám Hòang Sa phải đem theo 10 tấm bài gỗ (cột mốc) dài 4, 5 thước, rộng 5 tấc". Đại Nam Thực Lục Chinh Biên, đệ nhị kỷ, quyển 6 còn ghi rõ : “Vua Minh Mạng đã y theo lời tâu của Bộ Công sai suất đội thủy quân Phạm Hữu Nhật đưa binh thuyền đi, đem theo 10 cái bài gỗ dựng làm dấu mốc. Mỗi bài gỗ dài 5 thước rộng 6 tấc và dày 1 tấc, mỗt bài khắc những chữ:
“ Minh Mạng Thập Thất Niên Bính Thân thủy quân chánh đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật phụng mệnh vãng Hòang Sa tương đồ chí thử hữu chí đẳngû tư, (tô 25b)”.
( Năm Minh Mạng thứ 17, năm Bính Thân, thủy quân chánh đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật, vâng mệnh ra Hòang Sa xem xét đo đạc, đến đây lưu dấu để ghi nhớ).
Vi sự kiện trên đã thành lệ hàng năm, nên Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ( 1851), quyển 207 , tờ 25b-26a và quyển 221 đã chép lại việc dựng miếu, dựng bia đá , cắm cột mốc năm 1836 và lệ hàng năm phái biền binh thủy quân đi vãng thám, vẽ bản đồ…
Về những tư liệu của Trung Quốc minh chứng chủ quyền Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, người ta thấy:
- Hải Ngoại Ký Sự của Thích Đại Sán (người Trung Quốc) năm 1696. Trong quyển 3 của Hải Ngoại Kỷ Sự đã nói đến Vạn Lý Trường Sa khẳng định Chúa Nguyễn đã sai thuyền ra khai thác các sản vật từ các tàu đắm trên quần đảo Vạn Lý Trường Sa.
- Các bản đồ cổ Trung Quốc do chính người Trung Quốc vẽ từ năm 1909 trở về trước đều minh chứng Tây Sa và Nam Sa không thuộc về Trung Quốc.
Khảo sát tất cả bản đồ cổ của Trung Quốc từ năm 1909 trở về trước, người ta thấy tất cả bản đồ cổ nước Trung Quốc do người Trung Quốc vẽ không có bản đồ nào có ghi các quần đảo Tây Sa, Nam Sa. Tất cả bản đồ cổ ấy đều xác định đảo Hải Nam là cực nam của biên giới phía nam của Trung Quốc.
Sau khi Trung Quốc dùng vũ lực chiếm đóng Hoàng Sa tháng 1-1974, nhiều đoàn khảo cổ Trung Quốc đến các đảo thuộc quần đảo này và gọi là “phát hiện” nhiều cổ vật như tiền cổ, đồ sứ, đồ đá chạm trổ trên các hòn đảo này, song đều không có giá trị gì để minh xác chủ quyền Trung Quốc, trái lại họ lại phát hiện ở mặt bắc ngôi miếu “Hoàng Sa Tự” ở đảo Vĩnh Hưng, tức đảo Phú Lâm (Ile Boisée), lại là bằng chứng hiển nhiên vết tích của việc xác lập chủ quyền của Việt Nam.
Về những tư liệu Phương Tây cũng xác nhận chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa:
* Nhật Ký trên tàu Amphitrite (năm 1701) xác nhận Paracels là một quần đảo thuộc về nước An Nam.* “Le Mémoire sur la Cochinchine” của Jean Baptiste Chaigneau (1769 - 1825) viết vào những năm cuối đời Gia Long (hoàn tất năm 1820) đã khẳng định năm 1816 vua Gia Long đã xác lập chủ quyền Việt Nam trên quần đảo Paracels. * “Univers, histoire et description de tous les peuples, de leurs religions, moeurs et coutumes” của giám mục Taberd xuất bản năm 1833 cho rằng hoàng đế Gia Long chính thức khẳng định chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa năm 1816. * An Nam Đại Quốc Họa Đồ của giám mục Taberd xuất bản năm 1838, phụ bản của cuốn từ điển La tinh- Annam, ghi rõ « Paracels seu Cát Vàng » với tọa độ rõ ràng như hiện nay chứ không phải như Trung Quốc cho là ven bờ biển.( « Seu » tiếng la tinh có nghĩa « hay là », Cát Vàng :chữ nôm, Hoàng Sa : chữ Hán ).. * The Journal of the Asiatic Society of Bengal, Vol VI đã đăng bài của giám mục Taberd xác nhận vua Gia Long chính thức giữ chủ quyền quần đảo Paracels) .* “The Journal of the Geographycal Society of London” (năm 1849) GutzLaff ghi nhận chính quyền An Nam lập ra những trưng thuyền và một trại quân nhỏ để thu thuế ở Paracels...
Về sau Trung Hoa đưa ra những bằng chứng ngụy tạo nói ngược lại luận điệu ban đầu, từng cho là đất vô chủ hồi 1909, cho rằng Tây Sa đã thuộc Trung Quốc từ lâu. Ngay tên Tây Sa và Nam Sa cũng mới đặt từ sau năm 1907 và Nam Sa lại bất nhất khi chỉ Trung Sa , khi chỉ Nam Sa ở vị trí hiện nay ( Spratleys). Có chăng thời Minh hay thời Hán thì cả nước Nam đã bị Trung Hoa đô hộ, Thời Tống Đại Việt cũng bị xâm lược, song đã giành được độc lập rồi!
Sự thực chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa đã rõ ràng như trên. Khi bị Trung Hoa xâm phạm, vào thời điểm ban đầu, với tư cách là người đến xâm chiếm thuộc địa, người Pháp chưa hiểu hết lịch sử chủ quyền lãnh thổ Việt Nam nên có lúc đã không lên tiếng bảo vệ kịp thời. Tuy nhiên, không lâu sau đó, Chính quyền thực dân Pháp đã có đủ thông tin và thay đổi quan điểm, bảo vệ chủ quyền cho Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa.
Sự thực là bất cứ chính quyền nào kể cả chính quyền thuộc địa chịu trách nhiệm về quản lý Hoàng Sa và Trường Sa, chưa bao giờ từ bỏ chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa.
Và nguyên nhân chủ yếu khiến cho Trung Quốc tranh chấp chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa chính là Việt Nam đã bị Pháp đô hộ và chịu ảnh hưởng những biến động chính trị quốc tế cũng như quốc nội, nhất là từ thời chiến tranh lạnh và sau này và tham vọng bành trướng mở rộng yêu sách lãnh thổ bằng vũ lực.
Sự thực lịch sử về chủ quyền và những hoàn cảnh lịch sử dẫn đến sự tranh chấp cùng nguyên nhân xâm phạm chủ quyền của Việt Nam đã quá rõ ràng như thế thì khi Việt Nam không còn bị Pháp đô hộ và tình hình thế giới và Việt Nam đã biến chuyển, khác trước thì giải pháp phải là “cái gì của césar phải trả lại cho césar”.
Bất kỳ chính quyền nào cũng như bất cứ người Việt Nam nào dù khác chính kiến đều coi trọng việc lấy lại Hoàng Sa về với Việt Nam và bảo toàn toàn vẹn Trường Sa. Lịch sử cho biết dù có hàng ngàn năm bị lệ thuộc rồi cũng có ngày với sự kiên cường , bất khuất, khi có thời cơ, sẽ đấu tranh thành công. Đối với các nước Asean trên cơ sở Công ước quốc tế về Luật biển năm 1982, sẽ tương nhượng trong tinh thần hợp tác giữa các thành viên trong khối càng ngày càng chặt chẽ , đôi bên đều có lợi.
Việt Nam và Trung Quốc núi liền núi , sông liền sông, đã có những bài học lịch sử quí giá. Việt Nam với truyền thống hàng ngàn năm luôn kiên quyết bảo vệ quyền độc lập tự chủ của mình, song luôn luôn tôn trọng nước đàn anh Trung Quốc, luôn theo truyền thống làm “phên dậu của Trung Quốc”, không bao giờ làm hại đến quyền lợi Trung Quốc.
Bất cứ giải pháp nào dựa vào sức mạnh như người Nhật đánh chiếm bằng vũ lực Hoàng Sa, Trường Sa năm 1938, 1939 cũng như Trung Quốc dùng võ lực năm 1974 chỉ mang tính nhất thời, không có giá trị pháp lý. Có đế quốc nào mạnh như đế quốc La Mă thời Cổ đại hay đế quốc Mông Cổ thời Trung đại hay đế quốc Anh, Pháp thời cận đại, rồi có ngày cũng suy yếu, phải bỏ những lănh thổ chiếm giữ bằng võ lực.
Bất cứ giải pháp nào muốn vững bền phải dựa trên sự thực lịch sử nhà nước Việt Nam đã chiếm hữu thật sự trước tiên tại Hòang Sa và Trường Sa, chưa có ai tranh chấp và phải dựa vào trật tự thế giới hiện hành khi có Hiến chương Liên Hiệp Quốc năm 1945 và những Nghị quyết của Liên Hiệp Quốc sau đó và Công ước quốc tế về luật biển năm 1982.
Mọi người kể cả người Trung Quốc phải thấy rõ sự thật lịch sử trên!
Việt Nam phải luôn luôn nhắc đi nhắc lại cho cả thế giới được biết rằng vụ Trung Quốc dùng võ lực chiếm đóng Hoàng Sa năm 1974, Trường Sa năm 1988 là trái phép hoàn toàn, trái với Hiến Chương và các nghị quyết của Liên Hiệp Quốc. Không thể để cho Trung Quốc coi vụ chiếm đóng Hoàng Sa như đã xong. Khi nội lực Việt Nam chưa đủ mạnh thì dứt khoát không ký kết bất cứ một hiệp định nào gây sự thiệt hại cho Việt Nam.
Việc cần làm ngay là làm rõ, quảng bá lịch sử nhà nước Việt Nam đã từ lâu chiếm hữu thật sự Hoàng Sa & Trường Sa và xây dựng nội lực Việt Nam vững mạnh, đoàn kết hùng cường.
Sự đấu tranh đòi lại Hoàng Sa cho Việt Nam cũng như sự bảo toàn quần đảo Trường Sa là cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ, nhứt định sẽ thành công cũng như Việt Nam đã từng bị Phong kiến Phương Bắc đô hộ hơn một ngàn năm, khi có thời cơ, sẽ giành được độc lập tự chủ./.
---------------
Ts Nguyễn Quang A đề xuất sáng kiến:
http://trannhuong.com/news_detail/1616/LỜI-NGỎ-NÊU-Ý-KIẾN-THÀNH-LẬP-QUỸ-NGHIÊN-CỨU-HOÀNG-SA-TRƯỜNG-SA
Hưởng ứng sáng kiến trên (bài của Nguyễn Vĩnh):
HÃY CHUNG VAI VỚI MỘT SÁNG KIẾN HAY
Nguyễn Vĩnh
Sáng kiến xây dựng Quỹ nghiên cứu Hoàng Sa, Trường Sa và Biển mà Tiến sĩ Nguyễn Quang A đề xướng (mới đăng trên trannhuong.com) là một sáng kiến rất hay, cần được dư luận xã hội biết đến, càng nhanh càng rộng rãi thì càng tốt. Bản thân tôi hoàn toàn ủng hộ sáng kiến này, nếu làm được gì cho việc nghiên cứu, đóng góp cho các văn bản, tài liệu về HS, TS, nghề nghiệp của tôi làm được, tôi xin góp sức.
Nhà văn Trần Nhương, người chủ Website này có nói tôi viết mấy dòng về một sáng kiến, mà tôi tin chắc rằng nếu thực thi, sẽ nhận được mối quan tâm lớn của xã hội chúng ta.
Là một nhà báo, trải qua nhiều năm công tác trong lĩnh vực thông tin tuyên truyền đối ngoại, tôi thấy chủ trương - về cả nghiên cứu và công bố các công trình, tài liệu về vấn đề này, cũng như cách thức thông tin tuyên truyền về biển đảo, lãnh hải của chúng ta - có sự bất cập, thậm chí có lúc định hướng và chỉ đạo mắc phải sai lầm. Tôi mạnh dạn nói là sai lầm, vì các cơ quan chức năng liên quan đã không có sự nhất quán, không bền bỉ theo đuổi, không đầu tư tiền của con người một cách thích đáng vào một công việc rất hệ trọng như vấn đề biển đảo và lãnh hải. Bên cạnh đó hình như có sự e nể, ngần ngại với đối tượng tranh chấp, rõ nhất là các khía cạnh đối ngoại đã quá đề cao, cân nhắc suy tính quá nhiều. Về điểm này tôi hy vọng còn được đề cập và chứng minh.
Nhìn chung, sau cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, sách báo của chúng ta đã nói rất mạnh, rất thuyết phục về chủ quyền hai quần đảo HS, TS. Đã có những cuốn sách, những công trình nghiên cứu và nhiều bài báo có giá trị hồi thập niên 1980 đề cập đến đề tài này rồi sau không thấy được nhắc lại nữa. Thật là tiếc và tủi phận những tác giả đã bỏ rất nhiều công sức vào các công trình, tác phẩm này.
Gần đây, theo quan sát của tôi, thấy vấn đề nghiên cứu về biển đảo và lãnh hải đã được đề cập chính thức trở lại. Đó là mặt thuận về phương diện quốc gia. Rõ nhất là cuộc hội thảo do Học viện Quan hệ quốc tế của Bộ Ngoại giao tổ chức. Tại đây có nhiều ý kiến hay, có giá trị cả lý luận và thực tiễn. Nhưng một ý mà tôi thấy khá mới mẻ - ít nhất là chính thức nêu công khai ra dư luận - là Việt Nam chúng ta cần có nhiều kênh phát biểu lập trường quan điểm về chủ quyền biển đảo, lãnh hải, không những Nhà nước tuyên bố mà các giới, các tổ chức xã hội cũng bằng nhiều cách khác nhau phát biểu chủ kiến của mình. Và nên chăng vấn đề tranh chấp biển đảo, lãnh hải này cần được quốc tế hóa? Chính vì thế mà tháng 5 vừa qua chúng ta đã cùng Malaysia đăng ký thềm lục địa của chúng ta ra Liên hợp quốc.
Quốc tế hóa, thậm chí đề xuất với tòa án quốc tế thụ lý hồ sơ để phán xét... Tại sao không? Bởi chúng ta có lẽ phải và chính nghĩa kia mà. Tuy nhiên ở thời nay, phải thấy trong các quan hệ quốc tế, lý lẽ tiếc thay lại nằm trong tay kẻ mạnh. Chứng cớ là ngoài biển khơi, càng ngày đối tượng tranh chấp lớn nhất của chúng ta đang cố ý biểu dương sức mạnh. Họ làm thế để làm gì, khỏi phải cần tìm câu trả lời.
Cho nên việc lập một quỹ dân gian tài trợ các công trình nghiên cứu khoa học hữu ích về HS, TS và Biển là một việc làm cần thiết, đúng đắn. Ta xuất phát vậy là chậm, nhưng thà chậm còn hơn không nghĩ gì làm gì phục vụ cho sự nghiệp chung bảo vệ chủ quyền quốc gia thiêng liêng.
NV
--------------
Bài phỏng vấn nhà báo Đinh Phong:
Nhà báo Đinh Phong:"Không nên cấm thông tin nhạy cảm"
Từ những ý tưởng mới vì chủ quyền biển đảo Việt Nam đến những vấn đề thời sự nóng bỏng, nhà báo Đinh Phong (nguyên Phó Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam, Ủy viên Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TP Hồ Chí Minh) đề cập đến chuyện ứng xử với thông tin "nhạy cảm".
QUỸ BẢO VỆ HS - TS
Thưa nhà báo Đinh Phong, xuất phát từ đâu ông có ý tưởng về việc Việt Nam cần có quỹ vận động vì Trường Sa - Hoàng Sa?
- Tôi có quen nhà nghiên cứu lịch sử Nguyễn Đình Đầu. Trong nhiều lần, bác có cho tôi xem những tấm bản đồ rất quý giá mà bác sưu tập được về đất liền, biển đảo, trong đó có những bản đồ rất cổ, khẳng định Hoàng Sa - Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam.
Bác Đầu cũng giữ trong tay rất nhiều tài liệu chứng minh được chủ quyền của nước ta về biển đảo là có thực, từng tồn tại trong nhiều năm. Thế nhưng, bác Đầu nay đã ở tuổi cổ lai hy rồi.
Tôi đề nghị nên có một cái quỹ, để chúng ta có chi phí nhất định để cử những người trẻ hơn học hỏi, tiếp thu từ bác Đầu, tiếp tục làm công việc mà bác đang làm.
Thứ hai nữa là chúng ta sẽ in ấn rộng rãi những tư liệu của bác Đầu để nhân dân và lớp trẻ có bằng chứng xác thực khi nói về tổ quốc, biển đảo của đất nước mình.
Thứ ba nữa là từ quỹ ấy, chúng ta cử thêm người đi ra những nước mà trước kia đã từng xâm lược, truyền đạo, buôn bán ở ta, chắc chắn họ có nhiều tư liệu, bản đồ về biển đảo. Chúng ta thu thập, làm kho tư liệu được tổ chức, sắp xếp tốt hơn, để thêm một lần nữa chứng minh rằng Hoàng Sa - Trường Sa là của tổ quốc chúng ta đã được loài người công nhận, có từ 4,5 thế kỷ trước đây chứ không phải từ bây giờ.
Ông có thông tin cụ thể nào về việc có nhiều tư liệu khác về biển đảo Việt Nam nói chung và biển Đông nói chung có thể nằm ở những nơi lưu trữ ở những nước từng có quan hệ với Việt Nam từ xa xưa đến nay?
- Như người Pháp vào xâm lược nước ta, ngoài việc chiếm Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng hay Sài Gòn thì đều là phục vụ cho việc xâm chiếm của họ thôi, nhưng chắc chắn họ có các công trình nghiên cứu về biển đảo, từ đo độ sâu, độ xa, quy mô, biên giới thế nào.
Đến nước ta không chỉ có Pháp mà còn Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha... Họ đến để truyền giáo, thông thương, làm ăn buôn bán, mà để thuận lợi thì họ cần những công trình nghiên cứu về nước đó. Chẳng hạn người Pháp, họ có công trình rất kỹ về biển đảo mà đến nay, chúng ta đã có được; thì những nước khác, chắc chắn họ cũng có. Chỉ có điều chúng ta dự đoán là có, nhưng không có ai đi, không có kinh phí để có thể lục tìm lại những tư liệu, sách vở đó.
Đây là việc làm mà loài người tiến bộ chắc chắn sẽ đứng về phía Việt Nam, vì tính chất bảo vệ chủ quyền cho mỗi dân tộc, là trách nhiệm của cả loài người. Chỉ trừ những kẻ đi xâm lược, còn những người có thiện chí với chúng ta, mong muốn bảo vệ quyền lợi của chúng ta mà bây giờ lại có tổ chức của Liên hợp quốc thì chắc chắn họ sẽ ủng hộ việc này.
Ông có nghĩ đến việc đặt một cái tên cụ thể nào cho quỹ này?
- Đây không phải cuộc bảo vệ mà là một quỹ sưu tầm. Tôi cho rằng có thể gọi là Quỹ bảo tồn tư liệu về biển đảo Việt Nam. Như vậy là đúng tính chất. Đây là chúng ta phát hiện và bảo tồn tư liệu về biển đảo VN, còn cuộc đấu tranh để giành chủ quyền thì phải trên nhiều lĩnh vực.
Có ý kiến cho rằng việc lập quỹ này không chỉ có phần nhân dân đóng góp mà nguồn chính yếu là từ sự đóng góp của nhà nước, là trách nhiệm của nhà nước. Ông nghĩ sao?
- Đây là vấn đề bảo tồn chủ quyền quốc gia thì sẽ do nhà nước hỗ trợ là chính, nhà nước phải đứng ra chủ trì quỹ này; còn nhân dân, với lòng yêu nước của mình chắc chắn người ta sẽ đóng góp.
Đã lập quỹ thì nguyên tắc là phải có ban quản trị và ban này sẽ quyết định dùng quỹ vào những công việc gì.
PHẢI BIẾT LÊN TIẾNG
Ngoài ý tưởng về thành lập quỹ, ông còn đưa ra một đề xuất: Khi báo chí địa phương hay trung ương của Trung Quốc có những thông tin sai lệch về chủ quyền của Việt Nam hay các vấn đề khác về Việt Nam nói chung thì các cơ quan báo chí địa phương, báo chí thuộc các ban, ngành cần lên tiếng tương ứng để phản bác lại các luận điệu sai trái. Theo ông, thời gian qua các cơ quan báo chí - truyền thông Việt Nam có lơ là với việc này?
Những ý kiến của chúng ta nói ra mà họ chưa nghe thì chúng ta kiên trì tiếp tục nói. Đây không phải chúng ta sợ họ, né họ mà việc nói đến đâu, nói thế nào, đó là một nghệ thuật.
Ví dụ có một vấn đề vừa qua có nhiều kiến cho rằng khi ngư dân của chúng ta ra khơi bị bắt giữ, bị đối xử tàn bạo thì chúng ta đã có phản ứng nhưng hơi chậm. Đây là vấn đề về phía đối ngoại cũng như về phía báo chí. Nhìn nhận của ông ra sao?
- Tôi cho rằng phải kịp thời hơn. Đây là chúng ta thông tin cho nhau và kiến nghị chứ không phải là phản đối hay là chủ trương. Có thể thông tin của chúng ta từ các địa phương về là rất chậm, còn tại sao chậm thì phải tìm hiểu.
Đã là sự thật thì việc gì cũng sẽ đưa...
Có nhiều thông tin hiện nay liên quan đến vấn đề chủ quyền biển đảo được cho là chưa vội đưa ra hoặc không nên đưa ra. Ở một số lĩnh vực khác cũng có những thông tin được cho là "nhạy cảm", chưa thể hoặc không được công bố. Ông quan niệm thế nào về thông tin "nhạy cảm" - từ mà chúng ta gần đây hay nhắc đến trước nhiều vấn đề hiện nay?
- Có những cuộc tọa đàm, hội thảo chỉ là thông tin nội bộ thôi, không nên đưa ra ngoài. Chữ mà ta dùng "nhạy cảm" mà ta dùng là thế này: Có những thông tin làm cho quan hệ hữu nghị, đoàn kết được tăng cường thì đó là những thông tin thuận. Có những thông tin chưa có đủ dữ liệu mà mình nói lên, ảnh hưởng đến quan hệ hai nước thì đó là nhạy cảm, cần cẩn trọng. Nhạy cảm tức là anh phải tôn trọng vấn đề đó và xem nó có ảnh hưởng đến sự đoàn kết, tình hữu nghị giữa hai bên không thì hãy nêu lên. Nêu lên mà chưa thẩm định, kiểm tra thì có thể thông tin ấy làm xúc phạm, ảnh hưởng đến hai dân tộc.
Nhưng người ta sẽ băn khoăn thông tin đến mức nào thì thuộc về thông tin "nhạy cảm", nhất là trong chuyện thông tin về tham nhũng, xét xử vụ này vụ kia, nhất là khi có liên quan đến những người có chức quyền hay thông tin về đường lối chính sách, quan hệ bang giao, về các vấn đề lịch sử v.v... Và vì sợ đụng vào từ "nhạy cảm" nên với người làm báo rất dễ dẫn đến việc "tự kiểm duyệt". Theo ông chúng ta có lạm dụng từ "nhạy cảm" và người làm báo trong giai đoạn hiện nay có nên thường xuyên chú ý đến việc "tự kiểm duyệt" mình?
- Chữ nhạy cảm đưa ra ở đây là không đúng. Nhạy cảm không phải hễ không muốn đưa tin, không muốn công bố thì cho đó là thông tin nhạy cảm - hiểu như thế là sai. Ở đây thông tin đưa ra phải đảm bảo: Thứ nhất, thông tin ấy có chính xác không. Thứ hai là có phù hợp với điều kiện, thời điểm, phục vụ cho lợi ích chung hay không.
Chúng ta tuyên truyền thì phải chú ý đến hai yếu tố là thông tin phải chính xác và thông tin đó đưa lúc nào thì phù hợp, có ảnh hưởng đến an toàn, an ninh xã hội, có làm cho xã hội phát triển hay không. Phải cân nhắc đến cái đó chứ không phải cân nhắc có "nhạy cảm" hay không.
Đã là sự thật thì việc gì cũng sẽ đưa, nhưng đưa vào lúc nào thì lại là chuyện khác. Người lãnh đạo thì cần cẩn trọng trong việc vấn đề này đưa ngay, vấn đề kia chưa đưa hay cần bổ sung thêm thông tin thì đưa.
Đó là sự chỉ đạo tuyên truyền mà chúng ta phải biết rằng chúng ta là cơ quan báo chí cách mạng, thông tin mà chúng ta đưa ra phải có lợi cho cách mạng, cho dân tộc.
Cũng như đời tư của chúng ta thôi. Chúng ta cũng có nhiều chuyện lắm, nhưng không phải chuyện gì cũng đưa ra ngoài được cả đâu. Rất đông anh em phóng viên chúng ta cũng như mọi người thường có những chuyện riêng tư, nhảm nhí; nhưng điều đó không có quan hệ với việc chúng ta đang làm này thì không nên đưa thôi. Không phải cứ phải moi tất cả những chuyện xấu của mọi người đưa ra ngoài!
Ông cho rằng người viết báo, làm báo ở Việt Nam nên đem cụm từ "tự kiểm duyệt" ra sử
dụng trong trường hợp nào?
- Chúng ta không có phóng viên tư nhân, không có phóng viên nước ngoài. Chúng ta đều là phóng viên báo chí cách mạng cả. Bất cứ một phóng viên nào trước một thông tin cũng cần hiểu rõ là việc này nên thông tin chưa và thông tin vào lúc nào. Yếu tố quan trọng hàng đầu là phải chính xác. Phóng viên phải cân nhắc có nên viết hay không nên viết và việc đó có lợi cho ai. Cuối cùng ông tổng biên tập cho đưa thông tin ấy nên, quyết định nên đưa hay không thì đó là trách nhiệm của ông ấy. Từ phóng viên đến người tổng biên tập có tiếng nói quyết định trên cơ sở xem xét thông tin đó có chính xác và có đúng thì điểm để công bố hay không.
Đã trải qua hàng chục năm làm báo, nhiều năm là Chủ tịch Hội Nhà báo TPHCM, đã bao giờ ông phải "tự kiểm duyệt" cho những bài viết của mình? Nếu trước một thông tin được cho là "nhạy cảm" nhưng ông cho rằng thông tin đó cần phải chuyển đến bạn đọc ngay lập tức thì khi ấy không sẽ xử sự ra sao?
- Có nhiều kỷ luật về thông tin lắm. Ngày xưa tôi là phóng viên chiến trường thì tôi biết có nhiều trận mình thua chứ không phải trận nào mình cũng thắng. Có lúc cần phải cổ động nhân dân mà mình đem trận thua ra để thông tin thì sẽ làm ảnh hưởng đến chiến trận. Cho nên trận thua đó mình có thể kể, rút kinh nghiệm vào lúc khác. Còn bây giờ, khí thế của nhân dân đang đánh địch như thế, mình không cần thông tin những trận thua hay thiệt hại nặng của mình. Ví dụ tôi không đưa số liệu anh em mình hy sinh. Tôi không đưa cái đó chứ không phải tôi đưa tin cả trung đoàn anh em đều sống sót. Đó không phải giấu sự thật. Cái đó vẫn chính xác, mình cần điều tiết.
Cụ thể, trận Mậu Thân anh em hy sinh rất lớn. Tôi viết, chúng ta đánh thắng ở đâu, nhưng việc hy sinh cũng là rất lớn. Sau này viết hồi ký tôi nó rằng: Không rõ Phadeev viết thế nào về sự hy sinh của quân đội Xô Viết, nhưng tôi biết, khi đứng trước cửa Mậu Thân, đứng trước cửa Sài Gòn tôi thấy anh em hy sinh rất lớn. Đó là những gì được viết vào lúc chiến trận đã kết thúc và đó là sự đau đau xót mà không ai viết ra được ngay lúc đó.
Nhưng trong thời đại ngày hôm nay, thời đại của thông tin và truyền thông với biên độ truyền tin mở rộng, tốc độ truyền tin cũng rất nhanh, bên cạnh tính chính xác thì sự nhanh nhạy luôn được tính đến. Có những khi thông tin chưa kịp truyền đi trên báo chí trong nước thì báo chí nước ngoài đã đưa tin hoặc thông tin đã kịp thời lan truyền trên các trang mạng, bằng rất nhiều phương tiện khác nhau. Liệu điều này có tác động gì đến công tác quản lý báo chí và trong cách làm việc, ứng xử của phóng viên, người truyền tin? Và xét ở một góc độ khác nữa là chúng ta cần phải ứng xử thế nào để dư luận không phải băn khoăn, hoang mang rằng tại sao tôi chưa thấy thông tin đó ở báo chí trong nước, thông tin đó thực hư thế nào, cần đối chiếu, kiểm định tính chính xác ở đâu - khi tôi chỉ là một độc giả - công dân bình thường?
- Từ lâu tôi vẫn cho rằng thế này: Không nên cấm thông tin mà nên làm rõ, nên nói thế nào. Bất cứ điều gì, khi có sự kiện xảy ra đều có thể thông tin được. Vấn đề còn lại là cách thông tin thế nào để anh có thể hướng dẫn dư luận đi vào con đường đúng. Bởi vì anh không đưa thông tin ấy ra thì người khác vẫn nghe được, kênh khác vẫn đưa và có thể sai lệch đi. Bây giờ anh đưa thông tin ấy ra theo cách hướng dẫn dư luận rằng việc ấy xảy ra đúng như thế và cần phải hiểu thế này; như thế mới giỏi, chứ không phải ngăn hay cấm thông tin đó.
Thời đại bây giờ anh không nói thì báo khác nói, các kênh thông tin rất nhiều, Internet rất phổ biến. Chính vì vậy mà các luông thông tin đan xen dễ gây hoang mang. Anh đưa thông tin chính thức thì sẽ định hướng được mọi người hiểu nó là thế này chứ không phải thế kia.
Quan điểm của tôi là chẳng có thông tin nào thuộc diện cấm đưa cả, chỉ là cách đưa thế nào để hướng dẫn dư luận cho đúng và đưa vào thời điểm nào là phù hợp.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)
Việt Nam trước các nguy cơ tiềm ẩn khó lường Nguyễn Quang Dy Trong bối cảnh thế giới đang biến động khó lường, các nước đang chuyển đổi nh...
-
Kể chuyện Myanmar 10 Bài 10. Văn học nghệ thuật Myanmar Tác giả CHU CÔNG PHÙNG BÀI 1 - http://vinhnv43.blogspot.com/201...
-
Ông Trần Đình Bá và Đề án MỞ RỘNG & HIỆN ĐẠI ĐƯỜNG SẮT QUỐC GIA Trong nhiều năm nay ông Trần Đình Bá là một người có nhiều ý ...
-
Kể chuyện Myanmar - bài 12 Xin giới thiệu bài cuối trong chùm bài (12 bài) của tác giả Chu Công Phùng hiện đang làm việc tại Myanmar gửi ...