Hiển thị các bài đăng có nhãn Lịch sử cần sự thật. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Lịch sử cần sự thật. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 21 tháng 2, 2011

Một nhà ngoại giao bàn về lịch sử

Một nhà ngoại giao bàn về lịch sử

Về hưu Bạn tôi - anh Trần Kinh Nghị - là một nhà ngoại giao, cũng từng nhiều năm làm giáo viên tiếng Anh tại trường ngoại giao. Anh Nghị có dịp đi nhiều nước trên thế giới với sứ mạng một cán bộ, một công chức ngoại giao, đương nhiên anh tiếp xúc với nhiều người nước ngoài. Anh Nghị cũng chăm đọc và đọc được nhiều cuốn sách và các tài liệu nước ngoài liên quan đến lịch sử Việt Nam cũng như lịch sử Trung Quốc.




Về hưu mấy năm nay anh Nghị vẫn tiếp tục nghiên cứu quan hệ quốc tế, trao đổi với bạn bè cùng lứa, lại thỉnh thoảng đặt bút viết những bài báo khá là công phu. Bài được đăng rải rác từ báo, tạp chí của ngành ngoại giao hoặc in ấn, post lên các tờ báo viết, báo mạng khác nhau.


Gần đây nhất anh Trần Kinh Nghị có bài viết liên quan đến cách đặt vấn đề lịch sử nước Việt, dân tộc Việt mình mà thời gian mới đây rộ lên mấy đợt tranh luận. Nội dung các tranh biện có thể hiểu nôm na là "sử ta có gì lẫn lộn với sử 'tầu' (TQ) không", "xứ mình xuất phát từ 'tầu' chứ có gì mà tự ái" v.v... và v.v... Quái gở đến như thế nhưng cũng khối kẻ vọng ngoại, cơ hội - thậm chí cả những người được ăn học tử tế ở trong nước, rồi ra nước ngoài "nâng đời", nâng "đẳng cấp khoa học" như người ta khoe, cũng đã liều lĩnh lập ngôn, trả lời phỏng vấn loạn xị, thậm chí lập luận suy đoán vô lối đến mức bậy bạ hoặc lếu láo về các trang sử nước nhà... Thật là đáng xấu hổ.

Tại sao như vậy? Ai chịu trách nhiệm về những sai sót và cũng là "vong bản" ấy. Nguyên nhân từ đâu thì rất nhiều cách giải thích. Và cũng vì kiến văn của bản thân mình còn những điều tôi thấy còn phải học hỏi thêm, với tính cách một người thực sự cầu thị, nên tôi cũng chưa dám bàn kỹ ở đây.

Trở lại bài viết của anh bạn tôi mà phần trên nói tới. Tôi luôn nghĩ "lịch sử bao giờ cũng là lịch sử". Không một sức mạnh hoặc bạo quyền dù khùng điên cỡ nào phá đổ hoặc xuyên tạc được lịch sử chân chính và đích thực của một dân tộc. Không gì có thể nói xấu hoặc bôi nhọ được nước Việt chúng ta. Dù rằng xa xưa, dân tộc Việt Nam chúng ta ngày nay cũng từng có xuất phát điểm từ một tộc Việt trong "Bách Việt", người nói phát tích thừ phía Nam Hồ Động Đình, kẻ bảo ở một khu vực nào đó phía Nam sông Dương Tử... Nói tóm lại là tại một vùng phía nam nào đó của TQ ngày nay, người Lạc Việt ta sinh sống và phát triển, cô kết vun đắp và di dần về phía đồng bằng Bắc Bộ bây giờ dần dần dựng nên xây nên các dạng nhà nước sơ khai riêng biệt và độc lập. Sau đó là hình thành nhà nước phong kiến Việt Nam, dù có thời kỳ dài bị nước ngoài từ phương Bắc xâm lược và đô hộ. Song Việt Nam ta vẫn luôn là của Lạc Việt mình, vẫn là dân Việt với nền văn hiến riêng của mình.

Càng nghĩ ngợi, xưa đã vậy - và nay cũng như từ nay về sau vẫn là như vậy - nước Việt và dân Việt đều là con cháu dòng Lạc Hồng, như truyền thuyết con Rồng cháu Lạc và Việt Nam vẫn mãi mãi là Việt Nam thân yêu của chúng ta, không gì có thể xóa nhòa hoặc trộn lẫn.

Dân tộc Việt Nam, cương thổ Việt Nam muôn đời trước đến nay và mãi về sau bao giờ vẫn một cõi riêng thiêng liêng bất khả xâm phạm.

Công lao ông cha ta đã bao đời giữ yên bờ cõi và bảo tồn văn hóa Việt, thì nay lớp lớp con cháu chúng ta không những có trách nhiệm và lòng quả cảm giữ lấy nguyên vẹn giang sơn gấm vóc của đất nước mà còn phải bảo tồn phát huy hơn nữa mặt tích cực tốt đẹp của văn hóa, của những tinh hoa dân tộc Việt chúng ta.

Bất chấp mọi hiểm nguy và nhiều thách thức ghê gớm. Bất chấp các kế sách độc địa và bạo tàn đến thế nào và từ đâu tới nếu chúng cả gan tấn công lấn át lịch sử và nền văn hóa dân tộc của chúng ta, mọi người Việt Nam đều sẽ đứng lên bằng mọi giá để bảo vệ non sông.

Công việc này suy cho cùng trong thời bình (luôn mong có yên bình cho đất nước) phải là trách nhiệm của những nhà làm sử và viết sử. Cũng phải có đóng góp thật sự năng động và tích cực của ngành giáo dục đào tạo con người. "Người Việt ta phải thuộc sử ta, người Việt ta phải hiểu sử ta", không thể khác.

Vì vậy tôi rất hoan nghênh bài viết (đây là bài thứ 2 của anh Trần Kinh Nghị về đề tài này). Cũng do được anh Nghị tin cậy gửi để công bố trên blog cá nhân của mình, tôi mạo muội có ít dòng trên và post lên nguyên văn bài viết công phu của anh Trần Kinh Nghị để bạn bè tham khảo.

Nguyễn Vĩnh

------------------


Nguyên văn bài viết của anh Trần Kinh Nghị:


Thử tìm bài học từ lịch sử


Trần Kinh Nghị


“Kiến thức về lịch sử và cội nguồn dân tộc không chỉ đơn thuần là sự hiểu biết về quá khứ; nó là tài sản vô giá là mà từ đó mỗi dân tộc cần tự rút ra những bài học thiết thực cho mình để tiếp tục hành trình vào tương lai”.


Có lẽ chính vì lẽ đó mà bài báo ngắn ngũi với tiêu đề “Lịch sử cần Sự thật” đăng trên TuầnVietnam cuối năm 2010 http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2010-12-27-lich-su-can-su-that đã thu hút sự quan tâm sâu rộng từ cộng đồng với nhiều ý kiến đóng góp rất đáng lưu tâm. Qua thảo luận cho thấy đúng là có một tình trạng hiểu biết sơ sài và không đồng nhất về lịch sử và cội nguồn dân tộc đồng thời với thái tự ti dân tộc hoặc hoài nghi về sự thật lịch sử cũng như các giá trị nhân văn của dân tộc mình ; và điều này diễn ra trong mọi tầng lớp, kể cá trí thức và người trẻ tuổi ở Việt Nam ngày nay. Cảm nhận này thôi thúc người viết muốn nói thêm đôi điều sau đây.

Lịch sử cần lắm vai trò của Cơ quan chức năng

Trước hết, có lẽ nên bắt đầu bằng việc trích dẫn ra đây những ý kiến phản hồi trái ngược từ phía bạn đọc xung quanh một số vấn đề đặt ra trong bài viết “Lịch sử cần sự thật”; chúng tuy không nhiều nhưng rất “ấn tượng”.


Một số bloggger không đồng tình với cách đặt vấn đề dân tộc Việt Nam có cội ngưồn lâu đời và có mối liên quan mật thiết với cộng đồng Bách Việt,. Lý do có thể: một phần vì họ chưa được biết nhiều về khái niệm Bách Việt (mặc dù trên thế giới đã có hẵn môn “Bách Việt học” với nhiều công trình nghiên cứu đã được xuất bản ), một phần vì trong thâm tâm họ luôn mặc cảm rằng dân tộc Việt Nam chỉ là một dân tộc nhỏ và lạc hậu so với dân tộc Hán ở bất cứ thời kỳ nào. Một số người thậm chí còn tỏ thái độ mĩa mai thiếu nghiêm túc khi nói về các truyền thuyết như Lac Long Quân - Âu cơ và các vua Hùng…, thậm chí nghi ngờ hoặc bác bỏ cả luận điểm “hơn 4.000 năm lịch sử” của dân tộc. Đồng thời ngược lại cũng có những ý kiến khác lại quá đề cao dân tộc mình một cách mù quáng bất chấp sự thật lịch sử hoặc sẵn sàng bác bỏ những gì đã được xác lập trong sử sách cũ.

Vâng, quả đã có những quan điểm ngược chiều “thái quá” như thế trong quá trình tranh luận xung quanh chủ đề lịch sử và cội nguồn dân tộc. Chúng tuy không nhiều nhưng có lẽ cũng đủ để khiến ta giật mình. Riêng người viết bài này thực sự không cảm thấy ngạc nhiên hoặc khó chịu, trái lại còn cảm ơn họ đã nói lên thực trạng tình hình. Dù sao họ cũng còn ý thức quan tâm đến lịch sử và qua đó góp phần vào những cuộc thảo luận sôi nổi và thực chất hơn.

Tìm hiểu kỹ thêm, ta sẽ nhận ra rằng những bình luận như trên thường phát ra từ những người thiếu hiểu biết cơ bản về lịch sử và cội nguồn dân tộc. Những ý kiến như vậy thường lập tức bị các blogger khác phê phán, bác bỏ, đôi khi trong những cuộc thảo luận dằng co kéo dài. Nhưng nhiều trường hợp cả người bác bỏ cũng không thể đưa ra đủ lý lẽ thuyết phục vì bản thân họ cũng thiếu những kiến thức cần thiết.

Điều đáng chú ý là, những ý kiến trái ngược như trên nêu trên tuy không xuất hiện nhiều trên mạng, nhưng đã phản ánh tình hình tương tự trong xã hội ta ngày nay, nhất là trong một bộ phận thanh thiếu niên ngại học lịch sử nhưng thích xem phim ảnh và sách chuyện giả sử (chắc tác giả muốn nói "dã sử" - Chú thích của blog này) của Trung Quốc đang rất sẵn trên thị trường. Biểu hiện ở chỗ các em thường chỉ bàn luận về hình thức như trang phục, tướng mạo của các nhân vật tron phim ảnh để kết luận rằng người Hán “hơn” người Việt!. Đến nỗi có em nhầm lẫn cả tên tướng giặc với tướng ta, hoặc chỉ quen nói, viết bằng những ngôn từ ngô nghê của phim ảnh. Ngay cả những người có học cũng không hoàn toàn hiểu và thấm nhuần những điều nêu lển trong sách giáo khoa hiện hành.

Bên cạnh loại ý kiến ngược như nói trên, đại đa số bạn đọc đã rất hoanh nghênh và tán thành với cách đặt vấn đề của bài báo như bản thân tiêu đề đã nói lên “lịch sử cần sự thật”. Được biết, đến nay có khoảng trên dưới 100 trang web của các trường, viện, nhà xuất bản, các cơ quan, các nhóm và cá nhân đã trích đăng lại bài viết để làm tài liệu tham khảo. Cũng đã hình thành một số diễn đàn tranh luận rất sôi nổi xung quanh chủ đề lịch sử và cội nguồn dân tộc. Qua qúa trình thảo luận đã xuất hiện thêm nhiều cách lập luận khác nhau với những thông tin và sử liệu có giá trị thực tiễn do các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước cung cấp. Xin đơn cử ra đây vài trường hợp.

Đó là ý kiến của ông Giám đốc TT NC Lý học Đông Phương khẳng định quan niệm Việt sử 5.000 năm văn hiến bắt đầu từ quốc hiệu Văn Lang của các Vua Hùng tức năm 2879 trước CN với địa giới phía Bắc bao gồm cả Hồ Động Đình. Ông đồng thời cũng bác bỏ quan điểm hoài nghị cho rằng thời Hùng Vương chỉ có thể bắt đầu vào thế kỷ thứ VII trước CN như "một liên minh gồm 15 bộ lạc, cùng lắm là một nhà nước sơ khai" với địa bàn cư trú vỏn vẹn ở đồng bằng sông Hồng (!).

Đó là thông tin của một bác sĩ Việt kiều cho hay ông đã đích thân đến tận các địa danh trong truyền thuyết như Hồ Động Đình, Núi Thái Sơn (Ngũ Lĩnh), Sông Tương, cánh đồng Tương, Đền thờ Vua Bà (tức là Bà Trưng), v.v…thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc để tìm hiểu cho rõ ngọn ngành. Sau đó ông kết hợp với những kiến thức y học và khảo cổ vốn là nghề nghiệp của bản thân để đi đến kết luận: Những gì nói trong truyền thuyết là có thực; biên giới nước Việt Nam cổ bao gồm cả vùng Hồ Động Đình là sự thật.

Qua thảo luận nhiều bạn đọc cũng có dịp đọc lại các công trình nghiên cứu với những luận cứ táo bạo của Thiền sư Nguyễn Mạnh Thát cùng ý kiến phản hồi của Nhà nghiên cứu Lịch sử kỳ cựu Phan Huy Lê, cũng như nhiều công trình nghiên cứu của các nhà nghiên cứu khác, từ đó khuyến khích ý thức tìm tòi nghiên cứu nhằm làm rõ những “góc khuất” trong lịch sử và cội nguồn dân tộc . Một lần nữa hàng loat sách sử đã được các bạn đọc tìm tòi tra cứu. Đó là một dấu hiệu đáng mừng.

Nhân đây người viết xin một lần nữa nhắn nhủ các bạn đọc, đặc biệt các bạn trẻ, hãy bớt chút thời gian tìm đọc mọi thông tin liên quan đến lịch sử Việt Nam mà ngày nay rất sẵn có trên hệ thống internet, kể cả những thông tin mới khám phá của các nhà chuyên môn Việt Nam và nước ngoài. Hãy tự mình đọc hiểu và trao đổi cùng mọi người. Đó là cách tốt nhất để tự học tập và trau dồi kiến thức nhằm hiểu đúng hơn về lịch sử nước nhà. Đó cũng là một cách thiết thực để thể hiện lòng yêu nước của mỗi người dân Việt Nam ngày nay.

Cũng xin thưa, bản thân người viết cũng chỉ là một một “người đọc sử”, và qua đọc mà nhận rằng vẫn còn rất nhiều “điểm khuất” chưa được giải mã trong toàn bộ biên niên sử của dân tộc. Chỉ tiếc rằng vẫn đang có một xu hướng tự hài lòng với những gì đã có trong sử sách cũ; thậm chí có những người làm công tác truyên truyền du lịch và cả một số nhà sử học chuyên nghiệp chỉ thích “tô son trát phấn” cho những huyền thoại mà không mấy quan tâm đến sự thật. Hậu quả là sự mai một của những sử liệu thật và thay vào đó bằng những “sử liệu ảo”. Xin đơn cử một ví dụ: Nhiều người Việt Nam ngày nay dần tin rằng Vua Hùng xuất phát từ Phú Thọ (vì ở đó có Đền Hùng) và quên mất gốc tích Hồ Động Đình bên Trung Quốc. Điều tương tự cũng đang diễn ra với câu chuyện Thánh Gióng, An Dương Vương, Hai Bà Trưng, Triệu Đà*, v v… Cứ đà này thì không thể nào tránh được sự nhầm lẫn chết người rằng nước Việt cỗ chỉ gồm châu thổ Sông Hồng và cùng lắm là từ thế kỷ thứ 7 TCN!

Tóm lại, dù là ý kiến ngược hay xuôi, tất cả cho thấy tình trạng “dân ta không biết sử ta” là có thật. Có một số nguyên nhân, cả từ hai phía người dân và nhà chức trách, nhưng nguyên nhân chính có lẽ là do sách giáo khoa và tài liệu lịch sử của ta chứa đựng quá nhiều khái niệm mơ hồ nhưng thiếu sử liệu và bằng chứng thuyết phục, do đó đã trở nên nhàm chán đối với đại đa số người học và người đọc của ngày hôm nay. Nói cách khác là có sự bất cập trong công tác nghiên cứu, giáo dục và truyền thông liên quan đến môn lịch sử và cội nguồn dân tộc.

Thực ra đã có nhiều ý kiến bày tỏ mối lo lắng trước thực trạng bất cập của nền sử học nước nhà; và đang có nhiều nhà nghiên cứu tư nhân hoặc các tổ chức phi chính phủ đã và thầm lặng tiến hành các công trình nghiên cứu nhằm góp phần bổ sung, bổ khuyết cho kho tàng sử liệu dân tộc mà họ quý trọng. gìn giữ. Nhưng đáng tiếc là những kết quả nghiên cứu của họ chưa thể phát huy hết tác dụng do thiếu vai trò chủ đạo và sự ủng hộ thực chất của các cơ quan nhà nước chuyên trách. Thiết nghĩ, để giải quyết rốt ráo vấn đề này, không ai khác mà chính là các cơ quan chức năng các cấp phải tích cực chủ động “vào cuộc”.


Liên quan đến công tác này, được biết Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết tại buổi gặp mặt đầu năm Tân Mão với Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam đã có ý kiến chỉ đạo rất kịp thời: “Tiếp tục những nỗ lực tìm tòi, nghiên cứu những di sản, lịch sử còn ẩn chứa trong tâm hồn, nguồn cội của dân tộc Việt Nam để quảng bá, giới thiệu cho các thế hệ tiếp theo, nếu việc này bị xem nhẹ là sẽ tạo ra nguy cơ đối với sự tồn vong của dân tộc”. Chủ tịch nước cũng nhấn mạnh: “Đã là lịch sử thì phải đúng sự thật, trung thực và chính xác. Đối với những vấn đề trước đây công bố chưa chính xác thì khi đã có đủ tư liệu, cần có bước đi thích hợp để đính chính lại lịch sử” **

Qua quá trình trao đổi thấy toát lên một quan niệm chung là: Đối với những người làm công tác nghiên cứu lịch sử, mọi sử liệu, kể cả truyền thuyết, ca giao tục ngữ, cho đến di tích khảo cổ, khoa học sinh học và gien di truyền, v.v… đều có giá trị nghiên cứu như nhau, và không thể bị coi thường, coi nhẹ. Vấn đề là cách thức kết hợp chúng với nhau như thế nào và vận dụng phương pháp luận nào để đi tới những kết quả khách quan và chính xác nhất. Thật là sai lầm nếu ai đó chỉ vì một vài phát minh mới mà đã vội từ bỏ những sử liệu hoặc luận điểm đã có từ trước. Ngược lại cũng không ổn nếu chỉ mãi hài lòng với truyền thuyết và những gì đã được ghi chép lại trong sử sách cũ (bới chúng dù sao cũng là do con người sao chép lại nên không thể không có sai sót do vô tình hay cố ý trong quá trình biến thiên hàng ngàn năm của lịch sử). Kiến thức về lịch sử và cội nguồn dân tộc không chỉ đơn thuần là sự hiểu biết về quá khứ; nó là tài sản vô giá mà từ đó mỗi dân tộc cần tự rút ra những bài học thiết thực cho mình tiếp tục hành trình vào tương lai.

Bài học nào từ lịch sử dựng nước và giữ nước của Việt Nam?

Nếu mỗi quốc gia dân tộc cũng có “số mệnh”, thì phải chăng số mệnh của dân tộc Việt Nam là phải chiến đấu chống ngoại xâm? Cái mệnh này gắn chặt đến nỗi mỗi con người Việt Nam sinh ra đều biết mình “có hơn 4.000 năm lịch sử đấu tranh dựng nước, giữ nước” và thuộc lòng các niên đại bị ngoại xâm ở các thời Tần, Hán, Đường, Nguyên-Mông, Pháp, Nhật, Tàu Tưởng, Mỹ và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.

Trong số các kẻ thù xâm lược, có một kẻ mà dù muốn hay không, người Việt Nam vẫn phải chấp nhận chung sống cận kề đời đời kiếp kiếp, đó là nước Trung Quốc vĩ đại với dân số đông nhất thế giới vẫn tự phong là “vương triều” giữa thiên hạ. Lịch sử cho thấy, trong quá trình mở mang bờ cõi, nước láng giềng Phương Bắc này đã rất thành công về hướng Nam nơi vốn đã là thánh địa của hàng trăm tộc người Bách Việt, trong đó có nước Văn Lang xưa và trở thành Việt Nam ngày nay. Nhân loại chứng kiến rất nhiều trường hợp xâm lược và thôn tính lẫn nhau, nhưng trường hợp Hán tộc thôn tính các Việt tộc có lẽ là một trường hợp độc đáo cả về quy mô, cung cách và tính triệt để của nó. Trong quá trình kéo dài hàng ngàn năm từ trước đến sau CN, các bộ tộc hoặc vương quốc Bách Việt đã lần lượt bị Hán tộc thôn tính và đồng hóa, chỉ còn lại Việt Nam . Tuy không bị đồng hóa nhưng Việt Nam đã bị dồn đẩy về phía Nam và bị các triều đại phong kiến Phương Bắc thay nhau đô hộ trong thời gian rất dài (được sử sách ghi là “hơn 1.000 năm”). Đó chính là nguyên nhân sâu xa dẫn đến tình trạng hận thù sâu sắc giữa hai quốc gia dân tộc mà trong đó người Trung Quốc thường nhìn người Việt Nam bằng con mắt miệt thị trong khi người Việt Nam luôn cảm thấy lo lắng, bất an trước sự khôn ngoan, lắm mưu sâu, kế hiểm của đối phương. Quá trình đó cho ta ít nhất là 3 kinh nghiệm dưới đây:

Một là, mỗi khi Vương triều Phương Bắc thống nhất và mạnh lên thì họ đem quân sang chinh phạt Việt Nam. Cuộc xâm lược quy mô lớn đầu tiên diễn ra năm 218-208 TCN giữa thời kỳ hoàng kim của Nhà Tần. Hầu hết các cuộc xâm lược sau này cũng đều diễn ra vào những thời cực thịnh của các vương triều Phương Bắc. Đôi khi trong những cơn giận dữ, họ cũng mang quân “đánh hàng xóm”, như trường hợp chiến tranh biên giới năm 1979 mà nhà Lãnh đạo Đặng Tiểu Bình tuyên bố “để dạy cho Việt Nam một bài học”. Trong mấy chục năm gần đây, hễ có cơ hội là họ “đánh lớn, đánh nhỏ” nhằm lấn chiếm biên giới và biển đảo của Việt Nam .

Lịch sử cho thấy dẫu thắng thua thì bờ cõi nước Việt Nam cũng bị dồn đẩy về phía Nam . Và cho đến ngày hôm nay chưa có cơ sở gì để khẳng định rằng điều này sẽ không lặp lại.

Hai là, kẻ thù thường triệt để “khai thác”những thời điểm có bất hòa, bất ổn trong nội bộ Việt Nam để khởi binh xâm lược. Nhưng hễ khi nào bị xâm lược, người Việt Nam đều gác lại những bất hòa bất ổn trong nội bộ để tập trung chống kẻ thù chung.

Thiết nghĩ, là dân nước Việt không ai có quyền phủ nhận truyền thống anh hùng chống ngoại xâm. Nhưng cũng nên nhận ra rằng phải kháng chiến là một sự lựa chọn bất đắc dĩ không nên có, bởi lẽ các chu kỳ chiến tranh lặp đi lặp lại quá nhiều ắt để lại những thiệt thòi truyền kiếp đối với cả dân tộc.

Vậy nên có một lựa chọn tốt hơn là phải chủ động thực hiện “phòng ngừa từ xa” bằng cách không tạo ra cơ hội hấp dẫn đối với giặc ngoại xâm. Đó là tập trung xây dựng hệ thống chính quyền trong sạch vững mạnh, bài trừ tệ nạn quan liêu, tham nhũng, bè phái, tranh chức, tranh quyền và mọi thói hư tật xấu trong hệ thống công quyền, trên cơ sở đó sẽ luôn giữ vững khối đoàn kết toàn dân và phát triển đất nước giàu mạnh. Đó là phương sách thích hợp và cần thiết đối với một nước ở vị thế như nước ta

Ba là, dù thắng, bại các nhà nước Việt Nam chưa bao giờ thực sự tách khỏi “vòng cương tỏa” của cường quốc láng giềng Phương Bắc.

Lịch sử cho thấy không chỉ lúc thua mà cả lúc thắng các triều đại Việt Nam vẫn thực hiện nghĩa vụ triều cống đối với nước láng giềng Phương Bắc, coi đó như một cử chỉ cầu hòa và chấp nhận chung sống lâu dài với họ. Có thể nói điều này đã trở thành một “quốc sách” của dân tộc Việt Nam . Tuy nhiên có điều trớ trêu là, phía đối phương chưa hề tỏ ra biết trân trọng quốc sách hòa hảo, phục thiện đó của dân tộc ta, trái lại còn coi đó là cử chỉ yếu hèn, nhu nhược***.


Thiết nghĩ, trong hoàn cảnh khu vực và quốc tế ngày nay, người Việt Nam cần suy ngẫm lại về cái triết lý bạn/ thù và đồng minh, để từ đó có sự điều chỉnh hợp lý nhằm thay đổi cục diện bất lợi cho mình, trong đó cũng nên tính đến cả câu ngụ ngôn xuất xứ từ Trung Quốc: “Người không thay đổi thì ta phải thay đổi”.

Đồng thời hãy suy ngẫm về ba điều thực tiễn: a) Dân tộc Việt Nam được và mất gì nếu cứ quẩn quanh trong vòng ảnh hưởng của Trung Quốc?; b) Tại sao người Việt học tập và làm việc trong môi trường Âu - Mỹ thì năng lực bao giờ cũng được phát huy tốt hơn ? c) Vẫn biết mọi sự so sánh đều khập khiễng, nhưng Hồng Kông, Ma Cao, Đài Loan, Hàn Quốc và Nhật Bản đều có thể tồn tại độc lập và phát triển vượt bậc; tại sao Việt Nam chưa làm được điều đó?

Đây cũng chính là vấn đề mà các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh và các thế hệ đi trước đã đặt ra nhưng chưa giả quyết rốt ráo được. Phải chăng là do não trạng người Việt lúc nào cũng ám ảnh nỗi mặc cảm của ngàn năm Bắc thuộc, cho "mình từ họ mà ra" và lúc nào cũng chờ đời xem họ làm gì mà không dám chủ động vượt lên trước họ?

Dù sao giờ đây người Việt lại một lần nữa có quyền hy vọng dân tộc sẽ bứt phá để làm được điều mà bao thế hệ chưa làm được. /.

T.K.N.

---------------

Tài liệu tham khảo:

- Bách khoa toàn thư mở-Wikipedia với nhiều kiên kết dẫn đến các nguồn khác nhau

- Đại Việt Sử Ký Toàn Thư

- Việt Nam Sử Lược, Trần Trọng Kim

- Bộ sách giáo khoa môn sử học phổ thông của Nhà XB Giáo Dục Việt Nam.

- Các website và blog có đăng bài viết “Lịch sử cần sự thật”trên Google

Ghi chú:

*(Trích đoạn trả lời của Hưng Đạo Vương : "Ngày xưa Triệu Vũ Đế (tức Triệu Đà) dựng nước, vua nhà Hán cho quân đánh, nhân dân làm kế thanh dã, đại quân ra Khâm Châu, Liêm Châu đánh vào Trường Sa, Hồ Nam (thuộc lãnh thổ Trung Quốc ngày nay), còn đoản binh thì đánh úp phía sau. Đó là một thời.”…. (Xem thêm tại Wikipedia phần nói về Trần Hưng Đạo)

**Xem thêm tại Website Dòng họ Đỗ Viêt Nam, bản tin ngày 9/2/2011

*** tham khảo các bài viết của nhà nghiên cứu Dương Danh Dy, của cựu đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc Nguyễn Trọng Vĩnh, phát biểu của cựu lãnh tụ Đặng Tiểu Bình, phát biểu của Giáo sư Vương Hành Lĩnh. Tham khảo Chuyện cổ Việt Nam ; một số bài viết của các tác giả nước ngoài;câu chuyện sử liệu nói Tôn Trung Sơn là người Bách Việt.





Thứ Năm, 6 tháng 1, 2011

Viết nhân ngày blog lại post được bài lên mạng

Viết nhân ngày blog lại post được bài lên mạng


Bài dưới đây post lên hôm 31/12 năm cũ. Hôm đó bài không hiển thị. Vài hôm sau tại blog tôi vẫn không làm thế nào đưa được bài được ảnh lên mạng.


Như vậy là Yahoo360Plus nhà ta là có vấn đề, phải gọi "cấp cứu 005" chứ biết xoay xở sao!... Sang năm mới 2011, khoảng trưa mồng 2/1 vào mạng chợt thấy bài post vài hôm trước hiện lên. Nhưng thử post bài mới lên thì vẫn tình trạng tương tự (tôi đã có mấy dòng Thông báo trên blog). Nghĩa là tiếp diễn các trục trặc kỹ thuật, nó cứ lặp đi lặp lại một kiểu: Khi ta post bài lên là liền hiện dòng chữ, đại ý các dữ liệu của bạn “đang được xử lý”... Chờ, chờ mãi chỉ thấy thế, xử lý mãi... mãi mà không có được. Chờ lâu cũng thấy nản, đành bỏ đấy để lướt sang các địa chỉ khác, các tin tức khác trên mạng.

Hỏi bạn bè cùng chơi blog, tình hình cũng đại thể là thế. Biết vậy.

Nhưng rồi có bạn thân tình nhắc, là “có chuyện” đấy, theo nghĩa anh nói là an ninh mạng đang có vấn đề... Tôi nghĩ trang blog mình cũng như rất nhiều các trang blog bạn bè khác đều là những ghi chép nói thật lòng mình, rất có ý thức trách nhiệm với đời sống xung quanh. Là nhà báo trước tình thế xã hội có những điều cần đóng góp ý kiến chả lẽ ngoảnh mặt làm ngơ, mũ ni che tai, sống an phận nghỉ ngơi… Nên cùng bè bạn, tôi cũng có ý muốn viết ra, trong đó là những góp ý xây dựng. Góp để cùng tìm đường giải quyết các vấn đề, vượt qua các sai sót bất cập cho xã hội nhân quần tốt đẹp lên mà thôi. Không có mục ích gì khác. Vậy chẳng gì mà ngại. Và như thế làm sao có chuyện an ninh an toàn mạng gì ở đây được nhỉ? Mong chỉ là các sự cố kỹ thuật mà thời @ thường va gặp luôn... Thôi chuyện này hãy để sang bên, khi khác nói đến tiện hơn.

Bữa nay mở blog, thấy cả loạt những trang bài “trắng” (vì tôi chỉ ghi một chữ “v” để có 1 con chữ cho đủ điều kiện post bài). Thử bấm “xóa” các bài, thấy con blog của mình hoạt động trở lại bình thường, nên tôi đưa lại bài hôm trước lên thử một lần nữa Hầu chuyện bạn bè.

NV - Hầu chuyện Blog

-----------------------------

Tất niên ở Quán Tre


Hôm nay sát ngày tất niên, mấy anh em chúng tôi hẹn nhau ra ngoại thành đổi gió. Gọi đây là ngoại thành không chính xác nữa vì vùng này cũng được ông Hà Nội sáp vô nội đô rồi. Nơi đến là Phú Thượng, nơi có ông bạn nhà văn mới dọn nhà tới. Hà Nội giờ mình đã kéo lên tận Ba Vì Xuân Mai thì cái anh Phú Thượng Chèm Vẽ xa gần cái gì nữa mà chẳng gọi tuốt là nội đô. Chứ nhà cửa phố xá vẫn nhang nhác các làng quê
 Bắc Bộ lúc này...

.
Từ trái: NKPhục, NQDy, TrNhương, TKNghị, NCThắng, NQDiệm, PGMinh (Ảnh: NV) 

Nhưng thôi, dù sao nó cũng mãi sát ven con đê lớn nhất đất nước, bên kia mở ra là sông Hồng mênh mang trời nước, mấy bước chân là đến cây cầu hai tầng Thăng Long, nên bọn tôi cứ gọi đại là ra chơi ngoại ô để chuyến đi nó có khí thế.

Trước khi anh em cùng ngồi với nhau đón một cái tất niên “tây”, cả bọn ghé vào nhà Nguyễn Khắc Phục mới thuê ở để xem những bức tranh mới vẽ của ông. NKPhục cứ phân trần đời mình “là những chuyến chuyển nhà dọn nhà”. Thì khổ thế, bao nhiêu năm định cư ở thủ đô, viết và làm bao điều cả văn chương và nghệ thuật cho Thăng Long-Hà Nội, vậy mà ông Phục vẫn chưa có một tấc đất cắm dùi tại đây, gần như suốt đời ông phải thuê mướn nhà để ở và làm việc…

NKPhục thích quán Tre ( Tre Place ), bạn bè ai đến ông cũng kéo ra đấy. Lần trước mình tôi lên chơi ông cũng dẫn ra đấy. Cái quán trải dài một dải ven đê san sát những tre, nằm bên con sông Hồng lộng gió, quả là nơi quá thích với con người sống ở thị thành chật chội, ra đường là khói xe bủa vây như bây giờ...

Bữa nay khá đông đủ, có Nguyễn Chiến Thắng, Vũ Quang Diệm, Trần Kinh Nghị, Nguyễn Quang Dy - những nhà ngoại giao suốt đời một nghề, nay đã được nghỉ ngơi; có Trần Nhương, Nguyễn Khắc Phục, Nguyễn Vĩnh cũng sống gần như cả đời nghề văn nghề báo; riêng Phạm Gia Minh ít tuổi nhất nhóm (cũng đã 56 tuổi) thì làm khoa học nhưng cũng là cây bút cừ khôi.

Khi tất cả yên vị, mọi người hướng nhìn ra sông Hồng trước mặt, NKPhục bảo “bữa nay đúng là bát tiên quá hải”. Bát tiên đâu không biết, chứ 8 chư vị đây đại đa phần vượt trên lục tuần (chỉ có PGMinh là 56 tuổi), già lão vậy rồi thì quá giang quá hải xem chừng khó khăn đấy, đừng có nói trạng nghe bác Phục. Cả bọn cười ran.

Từ phải: TrNhương, NQDy, NKPhục, NV ĩnh, VQDiệm, NCThắng.

Cuộc tụ tập thật vui. Trần Nhương nói các ông tươi lên để thảo dân này bấm vài “pô”, quay vài đoạn làm cái video clip đưa lên con web cho nó “hoành tráng”. Người vừa vào ngưỡng thất thập cổ lai hi rồi mà được như ông Nhương, cứ tươi rói và phăm phăm mỗi khi hoạt động “nghiệp vụ”, thật là của hiếm trên đời đấy.

Chuyện trò qua lại mới biết Trần Kinh Nghị vừa có bài viết rất khá trên VietnamNet. Phạm Gia Minh thông tin thêm để bọn tôi biết là bài của anh Nghị


vài hôm nay dẫn đầu Top 10, bạn đọc khắp nơi hưởng ứng ý kiến của anh… Chiều về nhà, lên mạng đọc kỹ bài, thấy bài ông bạn mình có những ý kiến đáng phải suy nghĩ trong tình thế đất nước hiện nay, xin phép “cóp” về đây để bạn bè cùng xem.

Nguyễn Vĩnh


-----------------

Lịch sử cần sự thật

Tác giả: TRầN KINH NGHị*

• Bài đã được xuất bản.: 28/12/2010 04:00 GMT+7





Trần Kinh Nghị bên bạn bè ở Tất niên Quán Tre - Ảnh NV 

Kẻ mạnh thường thắng kẻ yếu, và sự thôn tính lẫn nhau giữa các dân tộc, quốc gia vốn là một thực tế hiển nhiên trong lịch sử nhân loại, nhưng điều quan trọng có tính nguyên tắc là, mọi sự thật lịch sử cần phải được tôn trọng và giữ gìn một cách trung thực.

Tuần Việt Nam giới thiệu góc nhìn riêng của tác giả Trần Kinh Nghị, nguyên là một nhà ngoại giao lâu năm, nguyên Tham tán Công sứ Đại sứ Việt Nam tại Đan Mạch.

Hồi đầu năm nay đã rộ lên sự kiện một nữ nghiên cứu sinh người Việt tại Mỹ tên là Đào Ngọc Bích viết bài cho BBC nói rằng Việt Nam là từ Trung          Quốc mà ra(!) để rồi ngay sau đó bị đông đảo dư luận trong và ngoài nước "đánh" cho tả tơi, rơi rụng. Không chỉ vậy, chính cô cựu sinh viên Đại học Ngoại ngữ Hà Nội này, trong nỗ tự lực bào chữa cho mình, đã "đổ tại" quá trình đào tạo môn lịch sử khi cô còn ở Việt Nam.

Mới đây dư luận lại được một phen bức xúc nữa khi một vị giáo sư người Trung Quốc tên là Vương Hàn Lĩnh cho rằng "kể từ năm 1885 về trước Việt Nam là thuộc quốc của Trung Quốc".

Thực ra không phải chỉ một mình cô Bích hay ông Lĩnh mà còn khá đông đảo người Việt Nam và Trung Quốc đều chưa hiểu đúng về lịch sử của đất nước mình, đặc biệt là lịch sử liên quan đến mối quan hệ lâu đời của hai quốc gia dân tộc "núi liền núi, sông liền sông" này. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng hiểu biết lịch sử "lệch lạc" như vậy nhưng có một nguyên nhân sâu xa nằm ở những "góc khuất" trong sử sách khi nói về nguồn cội dân tộc của mỗi nước.

Vẫn biết, kẻ mạnh thường thắng kẻ yếu, và sự thôn tính lẫn nhau giữa các dân tộc, quốc gia vốn là một thực tế hiển nhiên trong lịch sử nhân loại, nhưng điều quan trọng có tính nguyên tắc là, mọi sự thật lịch sử cần phải được tôn trọng và giữ gìn một cách trung thực.

Với tinh thần đó, người viết bài này xin được nêu lên một vài điều suy nghĩ lâu nay để mọi người cùng suy ngẫm nhằm tìm ra một lời giải.

Một là, về cội nguồn dân tộc, có thể nói không chỉ truyền thuyết mà cả sử sách (của cả Trung Quốc và Việt Nam) dù có nhiều điều chưa được làm sáng tỏ hoặc chưa thỏa đáng, cũng cho thấy rằng nước Việt Nam ngày nay là một thực thể thống nhất duy nhất còn lại của Bách Việt - một tên gọi chung cho nhiều tộc người Việt đã từng định cư hàng ngàn năm trước Công nguyên trên vùng lãnh thổ rộng lớn từ bờ Nam Sông Dương Tử xuống miền Bắc Việt Nam ngày nay, phía Tây giáp Tân Cương, phía Đông giáp biển Thái Bình Dương.

Sử sách cũng cho thấy Người Hán "nam tiến" với thế mạnh của kỵ binh nhưng đã phải mất hàng ngàn năm (quãng giữa thiên niên kỷ thứ 2 trước CN đến đầu thiên niên kỷ thứ nhất sau CN) để xâm chiếm, chinh phục và đồng hóa hầu hết các bộ tộc hoặc vương quốc có tên tuổi của người Bách Việt (xem bản đồ minh họa*). Đó là một quá trình kéo dài với biết bao biến cố lịch sử phức tạp mà trong đó có nhiều sự kiện đã bị lãng quên hoặc bị xuyên tạc, thậm chí bị "tráo đổi" tùy theo mục đích của các triều đại phong kiến thống trị trong các thời kỳ khác nhau, đặc biệt là thời nhà Hán và nhà Đường.

Tuy nhiên có một thực tại không thể bác bỏ là, riêng Lạc Việt mặc dù bị các triều đại phong kiến Hán Hoa thay nhau thống trị từ năm 179 TCN đến 905 nhưng vẫn tồn tại và phát triển với tư cách một quốc gia dân tộc độc lập như ngày nay. Sử sách thường gọi đó là "thời kỳ 1.000 năm Bắc thuộc" mặc dù đã có rất nhiều cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ của người Việt liên tục nỗ ra trong suốt quá trình đó.

Có thể nói, đó là quá trình lịch sử tang thương của Bách Việt nói chung, nhưng cũng là trang sử hào hùng đối với dân tộc Việt Nam nói riêng. Sự tồn tại và phát triển của Việt Nam không phải là trường hợp ngẫu nhiên mà là kết cục của cả quá trình đấu tranh sinh tồn của người Bách Việt nói chung mà các thế hệ người Việt Nam nói riêng và cội nguồn Bách Việt nói chung không bao giờ được phép lãng quên.

Theo truyền thuyết thì nguồn gốc tổ tiên của Việt Nam bắt nguồn từ Hồ Động Đình (tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc ngày nay) bắt đầu bằng Thời đại Hồng Bàng của Kinh Dương Vương (có sách ghi cụ thể năm 2789 TCN). Thuyết này trùng khớp với các câu chuyện cổ tích về Âu Cơ-Lạc Long Quân, các Vua Hùng, mối tình Mỵ Châu-Trọng Thủy và chiếc nỏ thần v.v...

Câu dân ca Việt cổ "Công cha như núi Thái Sơn (gần Hồ Động Đình), nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra..." cũng là một sự trùng hợp. Truyền thuyết này cũng được kiểm chứng bằng một số kết quả nghiên cứu quả khảo cổ, nhân chủng và ngôn ngữ, qua các di chỉ đồ đá, trống đồng, nghề trồng lúa nước và những khác biệt gen di tuyền v.v...

Kết hợp cả truyền thuyết và cổ sử ta có thể nhận thấy trong suốt quá trình "Nam tiến" và "Đông tiến" của Hán tộc, các tộc người Bách Việt như Ngô Việt, Âu Việt, Dương Việt, Đông Việt, Nam Việt, Man Việt, Di Việt v.v.... đều không thoát khỏi bị thôn tính và đồng hóa...., để cuối cùng đều biến thành "người Hoa" hiện đại. Nhưng riêng Lạc Việt vẫn tồn tại, có thời kỳ bao gồm cả vùng đất Quảng Tây, Quảng Đông và Bắc Bộ ngày nay.

Theo dòng lịch sử, ta còn thấy một thực tế là đã từng có rất nhiều người gốc Bách Việt tham gia vào bộ máy đô hộ của phong kiến Trung Hoa trong các thời kỳ khác nhau nhưng đã chọn Lạc Việt (sau là Chân Lạp, Giao Chỉ...) làm "hậu cứ" để chống lại Vương triều trung ương (như Hồ Quý Ly, Lý Bôn, Lý Bí chẳng hạn); rất nhiều người trong số họ thực sự đã tái hòa nhập vào cộng đồng Việt Nam.Cũng đã từng diễn ra những đợt rời bỏ quê hương của người Hoa gốc Bách Việt thuộc nhiều thế hệ trước đến định cư tại Việt Nam và các nước Đông Nam Á.

Sử cận đại Trung Quốc cũng cho thấy, cho mãi đến những năm 1940 danh từ "dân tộc Việt" mới bị Tôn Trung Sơn chủ trương xóa bỏ trong bản đồ dân số Trung Quốc. Cho đến này nay để ý thấy ít nhiều vẫn còn những tình cảm kỳ thị giữa các cộng đồng gốc gác Bách Việt tại Trung Quốc với người "từ phương Bắc".

Bản thân người viết bài này hồi nhỏ đã có dịp học tập tại Quảng Tây nới có gần 20 triệu người dân tộc Choang (còn gọi là Tráng) vốn là họ hàng của tộc Việt, mới đây trong chuyến du lịch mấy tĩnh phía Nam Trung Quốc đã được dịp "kiểm nghiệm"điều này qua chuyện trò với một số người bản địa. Tin tức cũng cho thấy người Đài Loan gần đây đã viện dẫn đến yếu tố "người bản địa" Man Việt trong cuộc đấu tranh bảo vệ sự tồn tại độc lập với Đại lục. Nhiều thông tin, dữ liệu của các nhà nghiên cứu Bách Việt học quốc tế cũng đáng được xem xét để góp phần làm sáng tỏ hơn về nguồn gốc dân tộc và nhân văn của của Việt Nam và khu vực Đông Á và Đông Nam Á nói chung.

Thiết nghĩ, những sử liệu và sự kiện trên đây ít nhiều tự chúng đã nói lên những sự thật khách quan xung quanh những "góc khuất" trong cổ sử và chính sử liên quan đến cội nguồn dân tộc và quan hệ giữa hai nước Việt-Trung. Khách quan mà nói đó là hướng đi tích cực cho mục đích xây dựng mối quan hệ hữu nghị bình đẳng lâu dài giữa hai nước và trong khu vực nói chung.

Hai là, về nhân văn, tuy chỉ dựa vào các nguồn sử sách cổ để lại từ thời "1.000 năm Bắc thuộc", ta cũng có thể thấy Việt Nam là kết tinh, là đại diện của Bách Việt. Về góc độ văn hoá, kể cả phong tục tập quán, ngôn ngữ, Việt Nam và Trung Quốc ngày nay có rất nhiều điểm tương đồng, đồng thời cũng có rất nhiều điểm khác biệt. Đặc điểm này nếu được hiểu và vận dụng một cách đúng đắn sẽ có tác dụng tích cực cho việc phát triển quan hệ hợp tác hữu nghị và bình đẳng giữa hai nước, chứ không có gì là không tốt như một số người có thể nghĩ.

Tuy nhiên trên thực tế không được như vậy vì có quá nhiều sự thật đã bị xuyên tạc, có những giá trị đã bị "tráo đổi" trong suốt quá trình lịch sử hàng ngàn năm qua mà trong đó phần lợi bao giờ cũng nghiêng về phía kẻ mạnh.

Xin đơn cử vài ví dụ: Thế giới lâu nay vẫn tin rằng Kinh Dịch là của người Trung Quốc. Nhưng thực ra gần đây các chứng cứ khảo cổ quốc tế đã cho thấy trống đồng không phải của người Hán mà là của các dân tộc phương Nam . Kết luận này cho phép các nhà nghiên cứu suy ra rằng những hình khắc biểu tượng Kinh Dịch trên trống cũng không phải của người Hán; và do đó chủ nhân của Kinh Dịch chính là người Bách Việt, cụ thể hơn là của người Âu Việt và Lạc Việt.

Về ngôn ngữ, đã từ lâu người Việt Nam an phận đón nhận chũ Nho (tốt đẹp) của người Hán (còn gọi là Hán Nôm). Nhưng có một số luận điểm khác cho rằng người Hán trong quá trình xâm lược đã sử dụng ngôn ngữ của người Bách Việt, cụ thể là của Ngô Việt (tại vùng Việt Châu, tỉnh Chiết Giang và Phúc Kiến ngày nay) để cải tiến thành chữ Hán, rồi thành tiếng Trung hiện đại. Lập luận này dựa trên cơ sở nghiên cứu về ngữ nghĩa, âm thanh, ngữ pháp v.v... cho thấy một tỷ lệ rất cao các nhân tố ngôn ngữ Bách Việt trong tiếng Hán cỗ và tiếng Trung ngày nay. Đó là hiện tượng các danh từ nhưng có tính từ được xếp sau danh từ được thấy phổ biến trong Kinh Thi và ngay ở tên gọi các vị Thần Nông, Đế Nghiêu, Đế Thuấn vốn được coi là truyền thuyết Trung Quốc ; từ "Việt" hiển thị với tầng số rất cao trong các tên địa danh ở miền Nam Trung Quốc; từ "giang" (sông) của tiếng Việt cổ được sử dụng cho hầu hết các con sông miền Nam Trung Quốc (trong khi ở miền Bắc gọi là "hà"); tuồng Kinh kịch ở phía Nam Trung Quốc ngày nay vẫn còn gọi là "Việt kich", v.v...

Thuyết này đồng thời cũng đặt ra mối nghi vấn rằng di chỉ thẻ tre có khắc chữ Hán cổ là "giả mạo" vì vào thời đó người Hán chưa có mặt ở miền đất phía Nam nơi có cây tre đủ to để làm thẻ viết. Tương tự cũng có sự "nhập nhằng" về chủ thể của "con đường tơ lụa" vì đúng ra người Bách Việt mới có thể là chủ thể của sản vật tơ lụa làm từ cây dâu tằm chỉ có ở vùng đất phương Nam. Rất nhiều luận điểm và luận cứ tượng tự cũng đã được nhiều học giả Việt Nam và quốc tế nêu ra.

Tóm lại, dù bị người Hán cố tình đồng hóa bằng rất nhiểu thủ đoạn tinh vi và cường bạo như đốt sách, bắt từ bỏ, xóa bỏ hoặc tráo đổi v.v..., nhưng các dấu tích Bách Việt vẫn còn đó cho đến ngày nay. Trong suốt quá trình đấu tranh sinh tồn khốc liệt bên thua trận ắt chịu nhiều mất mát, nhưng những gì là bản sắc riêng vẫn còn đó; và điều này có thể nhận thấy qua nhiều nét tương đồng giữa Việt Nam với các tỉnh phía Nam và Đông Nam Trung Quốc ngày nay cũng như với các nước Đông Nam Á.

Ba là, công tác nghiên cứu và giáo dục về lịch sử cần đi sâu hơn nữa về nguồn gốc dân tộc cùng các giá trị nhân văn trên tinh thần khách quan, dựa trên chứng cứ khoa học biện chứng lịch sử, khảo cổ, nhân chủng... (chứ không chỉ dựa vào sử sách củ để lại từ thời Bắc thuộc). Thiết nghĩ, trong việc này những kiến thức xác thực về Bách Việt sẽ giúp giải mã rất nhiều điều mà lâu nay chưa cảm thấy thỏa đáng hoặc chỉ là "ngộ nhận".

Công tác sử học cũng cần tập trung nghiên cứu và bổ cứu lại toàn diện, đặc biệt về lĩnh vực nguồn gốc dân tộc và nhân văn của người Việt nhằm làm sáng tỏ những kiến thức mang tính truyền thuyết kết hợp với những chứng cứ lịch sử dựa trên cơ sở các kết quả nghiên cứu khảo cổ và gen di truyền v.v... Khi có đủ dữ liệu thì công khai chỉnh sửa những mọi sự sai lệnh hoặc bị xuyên tạc hoặc bị giả mạo trong sách sử cũ dưới bất cứ hinh thức nào, của bất cứ thời đại nào.

Lý do là vì toàn bộ sách sử cổ của Việt Nam đều đã bị đốt và thủ tiêu trong các thời kỳ "1000 năm Bắc thuộc"; các sách sử hiện có, kể cả Đại Việt sử ký, đều là sử "chép lại" dựa chủ yếu vào các nguồn sử của các thời Hán, Đường và "hậu Hán Đường" nên không thể đảm bảo tính chính xác, trung thực và đầy đủ được; thật nguy hại nếu đã có những sự thật đã bị xuyên tạc, thậm chí đã bị tráo đổi trong đó.

Mặc khác, cũng cần thừa nhận những khiếm khuyết trong khâu giáo dục công dân về lịch sử trong thời gian qua ở nước ta với những hậu quả "nhãn tiền" như đã được nhiều lần cảnh báo trước công luận. Thật nguy hại nếu mọi công dân đều hiểu biết sơ sài, thậm chí hiểu sai lệch về lịch sử của đất nước mình. Ví dụ khi nói mình "con rồng cháu tiên" nhưng trong lòng phân vân không biết có đúng thật không vì thấy ở Trung Quốc người ta cũng nói như vậy; không biết tại sao người Việt có các họ giống như người Trung Quốc, không biết chắc nên thiếu tự tin rằng trống đồng là bảo bối của dân tộc Việt Nam; không dám đòi quyền chủ thể của Kinh Dịch, v.v...

Tương tự, trong lĩnh vực ngôn ngữ, sao ta không đặt mạnh vấn đề nghiên cứu xem tiếng Việt có chữ viết cổ? Lẽ nào ta dân tộc ta chỉ có chữ Hán Nôm? Có lẽ vì không biết mình là ai, nên đến ngày nay vẫn lúng túng không biết nên bảo tồn cái gì, thay thế, xoá bỏ cái gì để thực hiện "trong sáng tiếng Việt"?.Thậm chí có người cứ "vô tư" nhận mình là "con cháu" của người Trung Quốc (trong khi phía bên kia không nghĩ như vậy).

Cũng cần xem xét lại một số khái niệm và quan niệm như cho rằng văn hóa Việt "bị ảnh hưởng" của văn hóa Trung Quốc là không hoàn toàn chính xác (mà thực chất đó chỉ là một sự giao thoa và ảnh hưởng qua lại); cách hiểu về nguồn gốc đạo Phật, Đạo Khổng, về Chữ Nho và Nho Giáo cũng có nhiều điều phải bàn thêm, v.v... Chỉ khi nào hiểu đúng về nguồn gốc dân tộc và tự tin với những giá trị nhân văn riêng, người Việt Nam ngày nay mới thực sự tìm lại chính mình và thoát khỏi nỗi mặc cảm truyền kiếp luôn thấy yếu kém và phụ thuộc các thế lực bên ngoài.

Thay cho lời kết

Những lập luận trên đây chỉ là ý kiến cá nhân của người viết để nhắc lại rằng dân tộc Việt Nam có cội nguồn lâu đời với những giá trị nhân văn không thua kém các dân tộc khác. Đó là một lịch sử cần được tôn trọng bằng các chứng cứ khoa học khách quan chứ không chỉ bằng truyền thuyết; ngay cả sử sách cũng phải được kiểm chứng lại bằng các kết quả nghiên cứu khoa học nghiêm túc.

Theo hướng đó, bài viết chỉ nêu lên một thực trạng tình hình đồng thời gợi ra một số việc cần làm thêm (chứ không nhằm phê phán ai hoặc nước nào) với hy vọng góp phần đem lại sự hiểu biết đúng đắn hơn về lịch sử và cội nguồn dân tộc của Việt Nam cũng như các bên liên quan khác trong khu vực, coi đó là cơ sở để đảm bảo mối quan hệ hữu nghị, bình đẳng lâu dài giữa Việt Nam và Trung Quốc cũng như giữa các nước khu vực với nhau./.

---------------------

Tài liệu tham khảo

- Mục Bách Việt trong Bách khoa toàn thư mở -Wikipedia, và rất nhiều tài liệu khác nhau được liên kết trong tài liệu này.

- Đại Việt Sử Ký Toàn Thư

- Sử Trung Quốc, Nguyễn Hiến Lê

- Việt Nam Sử Lược, Trần Trọng Kim

- Bộ sách giáo khoa môn sử học phổ thông của Nhà XB Giáo Dục Việt Nam .

- Công trình nghiên cứu nguồn gốc chủng tộc dựa vào gen di truyền (DNA) của M. Liu thuộc Mackay Memorial hospital và được Viện Nghiên Cứu Sức Khoẻ quốc gia của Đài Loan tài trợ chứng minh là các giống dân miền Hoa Nam, Việt Nam, Thái Lan, Mã Lai, Nam Dương có liên hệ gen di truyền khác biệt với chủng tộc Hán ở miền bắc.

-* Sử dụng lại bản đồ của Nhóm nghiên cứu về Bách việt trên mạng internet- Nguồn: nhatnguyen.yolasite.com

Chú ý: những tên nước trong bản đồ này chỉ mang tính chất tượng trưng; trên thực tế chúng được thay đổi hoặc biến mất trong các thời kỳ lịch sữ khác nhau.

VỀ HỘI LÀNG   8 tháng 3 Âm lịch hằng năm là ngày Hội làng truyền thống quê tôi. Năm nay ngày hội rơi vào 2 ngày Nhà nước quy định Quốc tang ...