Thứ Hai, 28 tháng 10, 2013

Tâm linh thì tôn trọng, nhưng dựa vào niềm tin tâm linh để lừa đảo thì không thể chấp nhận



Tâm linh thì tôn trọng, nhưng dựa vào niềm tin tâm linh để lừa đảo thì không thể chấp nhận


Entry trước chủ blog tôi đã chia sẻ một chương trình của VTV với cái nhìn khách quan và khoa học về một vấn đề đã và đang động chạm đến tâm tư và tình cảm của hàng triệu người Việt Nam có người thân hy sinh trong các cuộc chiến giành độc lập dân tộc và thống nhất đất nước.  

Vì thế những ý kiến như của Đại tá Tiến sĩ Đỗ Kiên Cường (hai bài viết dưới đây) tạo được sự đồng tình nhanh chóng trong dư luận - đặc biết đối với các gia đình là thân nhân của liệt sĩ. 

Xin phép tác giả đưa về trang nhà để mọi người cùng đọc.

Vệ Nhi

----

Tiến sĩ Đỗ Kiên Cường thách đố Phan Thị Bích Hằng



Đẫ theo nguồn: Như đã nói công khai trong cuộc TRANH LUẬN TRỰC TIẾP VỚI NHÀ NGOẠI CẢM LÊ TRUNG TUẤN tối qua, chúng tôi- các thành viên Nhóm Biên tập Google.tienlang không am hiểu về kinh dịch/bói toán/tướng số hay ngoại cảm. Rất may các bạn đọc ở Google.tienlang vừa gửi cho chúng tôi 2 bài viết của Tiến sĩ, Đại tá Quân đội Đỗ Kiên Cường. Trong một bài viết, Đại tá Đỗ Kiên Cường nêu ra những giải pháp khảo nghiệm, từ đơn giản đến phức tạp để đánh giá khả năng thực sự của Nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng cũng như các nhà ngoại cảm VN nói chung. Đọc các bài viết của Đại tá Đỗ Kiên Cường khiến chúng tôi giật mình: Ừ, mang tiếng là nghiên cứu về ngoại cảm có tới 3 viện khoa học đã được thành lập với toàn những người có học vị đầy mình như ông Vũ Thế Khanh, Nguyễn Phúc Giác Hải, Nguyễn Chu Phác....Ấy vậy mà trong cả chục năm qua, các viện khoa học này chưa hề tổ chức một cuộc khảo nghiệm, thậm chí vô cùng giản đơn đến bà nông dân cũng có thể làm được! Ngược lại, chính những ông giáo sư tiến sĩ này chỉ làm một việc: Quảng cáo cho những người tự nhận là "nhà ngoại cảm"! Vậy là sao ta?

Lê Hương Lan



Lật tẩy trò lừa đảo của nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng

Như đã viết trong các kỳ trước, giới ngoại cảm không thể “gọi hồn”, “áp vong” hoặc “nói chuyện với người chết” để tìm mộ. Có thể thấy từ loạt bài viết về “nhà ngoại cảm” Vũ Thị Minh Nghĩa, tất cả các cuộc trò chuyện với thế giới bên kia chỉ là động tác giả mà giới ngoại cảm hoặc giới đồng cốt thực hiện nhằm tạo niềm tin đối với thân chủ.

Mọi thông tin để tìm hài cốt đều do chính quyền, đồng đội và gia đình cung cấp theo nhiều kênh khác nhau trước, trong và sau quá trình áp vong. Do gia đình bị lạc hướng trong màn “áp vong”, giới ngoại cảm hoặc đồng cốt chỉ việc ung dung tổng kết thông tin thu được về người chết và cung cấp trở lại cho thân nhân.




Do đó trong cuốn “Sự thật đầy đủ về đọc nguội”, Ian Rowling viết rằng “trong một màn gọi hồn thành công, cô đồng nói trong hầu hết thời gian, nhưng mọi thông tin đều do thân chủ cung cấp”. Tuy nhiên, do “chúng ta muốn tin” (bản chất sinh học của sự mê tín), nên chúng ta có xu hướng gán mọi thông tin đó cho “nhà ngoại cảm”.

Vậy trước khi nhờ tìm mộ, chúng ta có thể kiểm tra khả năng của một “nhà ngoại cảm” như thế nào? Trước khi trình bày một vài cách đơn giản mà hiệu quả để vạch mặt “giới ngoại cảm” hoặc đồng cốt, người viết muốn điểm qua kinh nghiệm của thế giới trong việc tìm hiểu bản chất của các hiện tượng ngoại cảm và tâm linh. Trên cơ sở đó có thể thấy rằng, việc kiểm tra thực ra rất đơn giản, nếu chúng ta thực sự muốn kiểm tra.

Những “phép thử” trên thế giới

Các hiện tượng tâm linh xuất hiện trong mọi nền văn hóa từ buổi sơ khai của người hiện đại, tức từ khoảng 50.000 năm trước. Tuy nhiên chỉ đến khi Hội Nghiên cứu tâm linh được thành lập năm 1883 tại Anh (tổ chức nghiên cứu nghiêm túc đầu tiên trên thế giới), các hiện tượng như thần giao cách cảm (đọc ý nghĩ người khác), thấu thị (nhìn xuyên tường), tiên tri (biết trước các sự biến), ma nhập (như gọi hồn hoặc áp vong)… mới được tổ chức khảo sát một cách khoa học và bài bản.

Ban đầu, giới nghiên cứu tập hợp các báo cáo về ngoại cảm và tâm linh trên các phương tiện truyền thông rồi phân tích chúng thật cẩn thận. Và nghịch lý xuất hiện ngay lập tức: Càng xem xét cẩn thận, người ta càng nhận ra rằng, các chứng cứ đó không thể sử dụng như các cứ liệu khoa học.

Tại sao như vậy? Câu trả lời thực ra rất đơn giản: tri giác con người do kiến thức, kinh nghiệm, sở nguyện và kỳ vọng cá nhân chi phối, còn trí nhớ về các hiện tượng dị thường hoàn toàn không chính xác. Nếu cho rằng một hiện tượng nào đó là dị thường, chúng ta chỉ nhớ các chứng cứ khẳng định mà quên hết các chứng cứ phủ định tính dị thường đó.

Ngược lại, nếu không tin, chúng ta chỉ chăm chăm đi tìm các chứng cứ phủ định mà thôi. Và theo quy luật vàng của môn tâm lý học, tin là thấy (believing is seeing), nhất định chúng ta sẽ tìm ra các chứng cứ phù hợp với niềm tin của mình. Do đó, hơn bất cứ một lĩnh vực nào khác, trong bài toán ngoại cảm và tâm linh, những nhà nghiên cứu đủ kiến thức, nhiều kinh nghiệm và không thiên kiến là một yêu cầu bắt buộc và cần thiết.


Do đó đến đầu thế kỷ XX, giới nghiên cứu đưa việc nghiên cứu vào các phòng thí nghiệm được tổ chức chặt chẽ hơn. Ban đầu họ dùng các phương pháp khá đơn giản như đoán màu của các quân bài. Trong thử nghiệm này, một người lần lượt mở các quân của một bộ bài, và nhà ngoại cảm đối diện phải đoán màu của các quân bài (cơ, rô, chuồn hoặc bích). Xác suất ngẫu nhiên (tức đoán mò) của sự biến là 25%, nên bất cứ tỷ lệ nào vượt 25% đều được xem là bằng chứng của thần giao cách cảm, một trong bốn hiện tượng ngoại cảm (thần giao cách cảm, thấu thị, tiên tri và hậu tri).

Mặc dù nhiều nhà ngoại cảm có tỷ lệ thành công khá cao, nhưng giới nghiên cứu cũng nhanh chóng nhận ra rằng, đó là do hiệu ứng Hans thông minh, khi nhà ngoại cảm đọc nét mặt và ngôn ngữ cơ thể của người lật bài (ngựa Hans đầu thế kỷ XX tại Berlin có thể làm toán, đọc đúng tên tổng thống Mỹ… do đọc ngôn ngữ người đối diện). Đây chính là đặc trưng nổi bật của kỹ thuật đọc nguội mà giới ngoại cảm, đồng cốt hoặc bói toán thường xuyên sử dụng.

Cuối những năm 1950, thời điểm cao trào của cuộc chiến tranh lạnh, khi Liên Xô và Mỹ cùng đổ nhiều tâm sức và tiền bạc nghiên cứu để không bị tụt hậu trong cuộc “chiến tranh tâm linh”, phòng thí nghiệm nghiên cứu các dị thường công nghệ tại Đại học Princeton do giáo sư Robert Jahn lãnh đạo đã cố gắng dùng ý nghĩ tác động lên bộ phát số ngẫu nhiên với hy vọng thu được các con số cần thiết.

Bản tổng kết năm 1989 qua 800 cuộc thử nghiệm với hơn 60 nhà tâm linh và hàng triệu lượt thực nghiệm trong suốt 30 năm thông báo, có một độ lệch tuy nhỏ nhưng đáng tin cậy khỏi xác suất của phân bố ngẫu nhiên, cho thấy ý chí con người có thể tác động lên các hệ vật chất.
Tuy nghiên, giới nghiên cứu trung gian bác bỏ kết luận đó, vì họ không lặp lại được kết quả, cho dù dùng đúng quy trình và thiết bị khảo sát như nhóm của Jahn. Nghiêm túc và gây ấn tượng nhất là kỹ thuật Ganzfeld trong khảo sát thần giao cách cảm (đọc ý nghĩ người khác, thậm chí từ xa) trong những năm 1980.

                                           Tiến sĩ - Đại tá Đỗ Kiên Cường

Kỹ thuật này được nhà tâm lý Charles Honorton cải tiến và dùng nhiều để loại bỏ ảnh hưởng của môi trường lên quá trình đọc và truyền ý nghĩ đi xa. Trong kỹ thuật Ganzfeld, người gửi và người nhận ý nghĩ ngồi trong hai phòng cách ly, mắt và tai bịt kín. Người gửi được xem một bức tranh và cố gắng truyền ý nghĩ cho người nhận ở phòng bên cạnh. Người nhận cần nhận ra bức tranh đó trong số bốn bức tranh được lần lượt đưa ra. Khoảng 30 đợt thử nghiệm đã được thực hiện, với xác suất thành công 34%, cao hơn rõ rệt so với xác suất ngẫu nhiên 25%, cho thấy thần giao cách cảm nhiều khả năng có thật.

Tuy nhiên, cũng như trường hợp giáo sư Jahn, giới nghiên cứu trung gian bác bỏ kết quả đó, khi cho rằng thử nghiệm chưa được thiết kế chặt chẽ để loại trừ tất cả các ám hiệu ý thức và vô thức. Ngoài ra, thống kê cho thấy chúng ta có xu hướng chọn hình ảnh đầu và hình ảnh cuối, cũng như thường nghĩ tới nước và tình dục (bản chất sinh học), nên nếu không ngẫu nhiên hóa tốt trình tự xuất hiện bốn bức tranh, kết quả cuối cùng sẽ bị sai lạc.

Sau khi xét tới tất cả các yếu tố đó, tỷ lệ thành công của kỹ thuật rơi về con số xấp xỉ 25%, tức chỉ ngang với đoán mò. Sau 130 năm nghiên cứu nghiêm túc và toàn diện, giới nghiên cứu thế giới đi tới kết luận rằng, cho đến nay, chưa hề có bằng chứng xác đáng cho thấy các hiện tượng ngoại cảm và tâm linh có thật. Còn tại nước ta thì sao?

Tại Việt Nam

Cũng như các lĩnh vực khoa học và nhận thức khác, kinh nghiệm của giới nghiên cứu nước nhà về các hiện tượng lạ hầu như bằng không. Chúng ta cũng có một vài cơ sở tổ chức nghiên cứu và khảo nghiệm một số hiện tượng tâm linh, chẳng hạn Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người.

Tuy nhiên qua nhiều kênh thông tin và qua các sự kiện như công nhận khả năng áp vong của cô đồng Phương tại Thanh Hóa hoặc quảng bá lúa nhân điện (trồng lúa không cần phân bón, chỉ cần nhà ngoại cảm mỗi tuần đến nhìn khắp ruộng trong vài giây để truyền “năng lượng vũ trụ” mà lúa tốt bời bời!), người viết cho rằng, các nhà khoa học tại đó vẫn chưa thoát ra khỏi bản năng “chúng ta muốn tin” thông thường.

Tại một cơ sở nghiên cứu khác cũng vậy, việc gắn gương Huyền thông nhằm tôn vinh một số nhà ngoại cảm tìm mộ cho thấy, họ chưa nắm rõ vấn đề. Đó là một trong những lý do giúp giới ngoại cảm làm mưa làm gió trên nỗi đau của gia đình liệt sỹ và của toàn xã hội trong những năm qua. Đứng trước thực trạng đáng buồn đó, chúng ta có thể kiểm tra giới ngoại cảm trước khi nhờ họ tìm mộ như thế nào?

Lật tẩy trò bịp bợm tìm mộ của “nhà ngoại cảm” Phan Thị Bích Hằng

Người viết khẳng định rằng, có rất nhiều cách khảo nghiệm hiệu quả, từ đơn giản tới phức tạp, tùy hoàn cảnh và khả năng của người hoặc tổ chức đứng ra thực hiện. Với một cơ sở nghiên cứu hoặc một tổ chức có nguồn nhân vật lực thỏa đáng, có thể tiến hành nhiều cách khảo nghiệm một cách bài bản và công phu.

Chẳng hạn bí mật cho bộ hài cốt đã xác định được danh tính bằng thử nghiệm gien vào một trong mười quan tài bên ngoài giống nhau và đề nghị Phan Thị Bích Hằng (ảnh dưới) hoặc bất cứ một “nhà ngoại cảm” nào khác dùng cách “gọi hồn”, “áp vong” hoặc “nói chuyện với liệt sỹ” để tìm ra quan tài có cốt.

Có thể làm phức tạp vấn đề bằng cách dùng mười bộ hài cốt đã có tên cho vào mười quan tài và đề nghị “nhà ngoại cảm” xác định xem ai nằm trong quan tài nào. Vẫn tuyên bố gọi được hồn liệt sỹ từ xa ngàn dặm và “mỗi tối tôi trò chuyện với 4 - 5 vong hồn”, hẳn Phan Thị Bích Hằng sẽ vượt qua khảo nghiệm này dễ như trở bàn tay (?).

 
Xin lưu ý một điểm quan trọng: Để tránh hiệu ứng Hans thông minh, người đặt cốt vào quan tài không được có mặt khi tiến hành khảo nghiệm (để loại trừ khả năng đọc ngôn ngữ cơ thể, tuy người viết không tin Phan Thị Bích Hằng lại cao tay đến vậy).


Vậy với các gia đình liệt sỹ không có điều kiện tiến hành một thử nghiệm công phu như vậy thì sao? Có hai cách khảo nghiệm đơn giản hơn nhiều mà hiệu quả không hề thua kém. Cách thứ nhất là ngụy tạo một nhân thân liệt sỹ không có thật và nhờ “nhà ngoại cảm” đi tìm mộ. Cách thứ hai là đề nghị “nhà ngoại cảm” tìm một ngôi mộ gia đình tại nghĩa trang địa phương.

Ngụy tạo một nhân thân liệt sỹ là cách rất đơn giản và hiệu quả để hiểu rõ chân tướng giới ngoại cảm hoặc đồng cốt. Một phóng viên báo Công an TP. Hồ Chí Minh đã nhận ra sự lừa gạt của cô đồng Phương tại Thanh Hóa nhờ chính phương pháp này. Năm 2007, phóng viên chuyên trang Viet Times thuộc Vietnamnet cũng tạo một nhân thân người chết giả. Và sau 6 ngày vất vả, một ngôi mộ đã được tìm ra (?)!


Nếu không quen hoặc không thích ngụy tạo, bạn có thể yêu cầu “nhà ngoại cảm” tìm ngôi mộ của một thành viên đã khuất trong gia đình tại nghĩa trang địa phương, nếu ngôi mộ đó và nhiều ngôi mộ khác không có bia (các “nhà ngoại cảm” có thể đọc tên trên bia mộ!). Cần lưu ý không nhờ người biết vị trí ngôi mộ dẫn đường để tránh hiệu ứng Hans thông minh.

Nếu các ngôi mộ trong nghĩa trang đều có tên thì yêu cầu “nhà ngoại cảm” vẽ sơ đồ ngôi mộ khi đang ngồi tại chính nhà người chết. Vẫn tuyên bố vẽ được vị trí và đặc điểm mộ tại một nghĩa trang cách xa hàng ngàn cây số, “nhà ngoại cảm” phải vẽ đúng ngôi mộ trong nghĩa trang làng.

Điều gì sẽ xảy ra nếu Phan Thị Bích Hằng nhận được yêu cầu như vậy? Chắn chắn “nhà ngoại cảm” nổi tiếng (và tai tiếng) này sẽ từ chối, với lý do gia đình không tin. Mà đã không tin thì “vong thăng”, làm sao mà áp vong được! Đó chính là lối thoát đơn giản nhưng hiệu quả mà giới đồng cốt hoặc ngoại cảm vẫn sử dụng mỗi khi lâm vào thế khó.




Điều đáng nói là một số nhà nghiên cứu cũng đồng ý với cách giải thích này, khi cho rằng phải tin thì giới ngoại cảm mới có thể thành công, không tin thì họ thất bại. Đó là một quan điểm sai lầm trên khía cạnh nhận thức. Nếu một sự kiện mà chúng ta tin thì mới có, không tin thì không có, đó không phải là sự kiện khách quan, mà chỉ là hình ảnh chủ quan trong tâm thức của những người tin tưởng.

Bạn đang nửa tin nửa ngờ khả năng của một “nhà ngoại cảm”? Hãy tạo ra một nhân thân giả hoặc yêu cầu nhà ngoại cảm vẽ sơ đồ một ngôi mộ trong nghĩa trang tại nơi bạn đang sinh sống. Và bạn sẽ nhanh chóng nhận ra sự thật.

Để kết thúc loạt bài viết này, người viết nhấn mạnh lại quan điểm cá nhân: Ngoại cảm tìm mộ chính là một loại thuốc phiện cho nỗi đau vốn chưa thể hóa giải của các gia đình liệt sỹ và của toàn dân tộc. Nó có thể tạo ra sự giảm đau tạm thời, nhưng sẽ để lại di hại ghê gớm một cách lâu dài.

------

 

Dưới đây là bài viết từ năm 2007 trên VieTimes.com mà một bạn đọc vừa gửi cho chúng tôi





Đỗ Kiên Cường: Chiến binh “quét sạch” ngoại cảm giả danh!

(07:00, 08/10/2007)

VieTimes.com trân trọng gửi đến bạn đọc bài phỏng vấn "Người chiến binh này!

ĐỖ KIÊN CƯỜNG (sinh 1957)

Phóng viên (PV): Ông theo dõi loạt bài về ngoại cảm trên VieTimes từ đầu?


Ông Đỗ Kiên Cường (ĐKC): Tôi đọc VieTimes sau khi đọc bài Không được lạm dụng “thánh thần”. Và tôi rất nhất trí với quan điểm của báo.

PV: Là người nghiên cứu chuyên sâu, xin ông cung cấp cho độc giả cái nhìn khái quát về tình hình nghiên cứu ngoại cảm trên thế giới và tại Việt Nam..




ĐKC: Việc nghiên cứu ngoại cảm một cách khoa học được bắt đầu từ 1882 tại Anh, khi Hội nghiên cứu tâm linh (Psychical Society) đầu tiên trên thế giới được thành lập.

PV: Xin lỗi vì ngắt lời ông. Về thuật ngữ, hình như không có sự phù hợp giữa tiếng Việt và tiếng Anh?

ĐKC: Đúng vậy. Trong tiếng Anh có hai thuật ngữ là duy linh luận (spiritualism) và thông linh luận (spiritism). Chúng thường được đánh đồng với nhau. Duy linh luận là niềm tin tôn giáo - triết học về sự tồn tại sau cái chết. Và chúng ta có thể liên lạc với người chết qua giới đồng cốt. Về mặt khoa học, đây là quan điểm sai lầm.

Liên quan với các hiện tượng lạ, tiếng Anh dùng thuật ngữ psychical, cũng được dịch ra tiếng Việt là tâm linh. Nó nghiên cứu ngoại cảm, viễn di tâm học (như làm cong thìa bằng ý nghĩ chẳng hạn), hiện tượng “ma” ám, “ma” quấy rối (poltergeist) và cảm xạ.

PV: Đó là những thuật ngữ chuyên môn thuần túy, bạn đọc dễ bị rối…

ĐKC: Vì thế không nên dùng thuật ngữ tâm linh khi bàn về các hiện tượng lạ. Theo tôi khi nói về sự tồn tại sau cái chết, nên dùng thuật ngữ duy linh. Khi nói về ngoại cảm, nên dùng thuật ngữ lạ hay dị thường. Cuối cùng, nên dùng thuật ngữ tinh thần thay cho tâm linh. Chẳng hạn, nên viết “đời sống tinh thần” thay cho “đời sống tâm linh”.

Xin quay lại việc nghiên cứu ngoại cảm trên thế giới. Đầu tiên giới nghiên cứu tập hợp thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng rồi phân tích chúng. Và nghịch lý nhanh chóng xuất hiện: càng nghiên cứu cẩn thận càng thấy rằng, không thể dùng chúng như những bằng chứng khoa học.



PV: Vì sao vậy, thưa ông?

ĐKC: Vì thông tin trên báo chí dựa trên lời kể. Cần lưu ý rằng, nhận thức của chúng ta do sở nguyện và kỳ vọng chi phối; còn ký ức, nhất là về các sự kiện lạ thường, thường không chính xác. Khi ta nghĩ một sự kiện là dị thường, ta chỉ nhớ những gì khẳng định tính dị thường, mà quên mọi thông tin về tính không dị thường của nó. Vì thế khi đọc các bài viết về ngoại cảm trên một số tờ báo ở nước ta thời gian vừa qua, ta chỉ thấy thông tin ủng hộ, mà không thấy thông tin phản bác, vì chúng không được ghi nhớ.

PV: Vậy có thể khắc phục nhược điểm đó như thế nào?

ĐKC: Đưa ngoại cảm vào các phòng thí nghiệm. Nửa đầu thế kỷ 20, người ta dùng các phương pháp khá thô sơ (như đoán ý nghĩ một người đang lật các quân bài). Sau đó là các phương pháp tinh xảo hơn như dùng máy phát màu tự động để nghiên cứu tiên tri những năm 1970 (máy tự động phát ánh sáng một trong bốn màu, nhà ngoại cảm phải đoán màu trước khi ấn nút phát) hay thí nghiệm Ganzfeld để nghiên cứu thần giao cách cảm những năm 1980 (một nhà ngoại cảm lần lượt xem bốn bức tranh rồi gửi ý nghĩ cho một nhà ngoại cảm khác ở căn phòng bên cạnh; người này có nhiệm vụ tìm ra chúng trong số những bức tranh trong phòng).

PV: Kết quả các thí nghiệm đó thế nào, thưa ông?

ĐKC: Thất vọng. Đoán ý nghĩ người lật bài không thể xem là khoa học, vì nhà ngoại cảm có thể đọc ngôn ngữ cơ thể (hiệu ứng Hans thông minh). Còn các thí nghiệm về tiên tri hay thần giao cách cảm chỉ đạt tỉ lệ thành công khoảng 33-35%, dù giới ngoại cảm học đã rất kiên trì (trong thí nghiệm tiên tri, các nhà ngoại cảm đã bấm nút máy phát hơn một triệu lần!).

PV: Nhưng 35% cũng đã lớn hơn tỉ lệ ngẫu nhiên 25%, cho thấy tiên tri có thật ?

ĐKC: Ban đầu cũng có ý kiến như vậy. Nhưng khi khảo sát cụ thể hơn, người ta thấy một người thiết kế thí nghiệm lại tham gia thí nghiệm và đóng góp 2/3 số kết quả thành công. Vì thế kết quả nghiên cứu không được thừa nhận.


PV: Sau đó thì sao ?

ĐKC: Hai thập kỷ nay, giới ngoại cảm học không đưa ra được một phương pháp nghiên cứu mới nào. Gần đây giới khoa học ít quan tâm đến các hiện tượng dị thường nói chung, ngoại cảm nói riêng so với trước đây. Có thể họ đã thất vọng.

PV: Vậy họ làm gì, thưa ông ?

ĐKC: Để khuyến khích giới ngoại cảm, nhiều tổ chức và cá nhân đã treo các giải thưởng rất có giá trị cho bất cứ nhà ngoại cảm nào thành công trong một thí nghiệm được thiết kế đặc biệt để ngăn chặn sự truyền tin qua năm giác quan. Sự ngăn chặn như thế là cần thiết, vì ngoại cảm là sự cảm nhận phi ngũ quan.

Hiện Quĩ James Randi (ảo thuật gia Mỹ, đồng sáng lập Ủy ban điều tra khoa học các tuyên bố về hiện tượng dị thường CSICOP, có công phát hiện khả năng “nhìn cong thìa” của nhà ngoại cảm lừng danh Yuri Geller chỉ là trò ảo thuật) treo giải 1 triệu đôla Mỹ.

Các Tổ chức nghi ngờ tại Mỹ, Pháp, Úc, Canada… treo giải 200 ngàn euro/nước. Ngoài ra cũng phải kể thêm sồ tiền thưởng 50 triệu đôla của chính phủ Mỹ cho bất cứ ai giúp tìm ra trùm khủng bố Bin Laden. Không ai cấm các nhà ngoại cảm giành được khoản tiền lớn này, nếu họ thực sự có khả năng.

PV: Đã có nhà ngoại cảm nào nhận được tiền chưa ?

ĐKC: Khoảng vài chục nhà ngoại cảm đã tham gia nhưng đều thất bại. Giải thưởng vẫn chờ được trao.

PV: Quay trở lại Việt Nam, ông nghĩ sao về những nghiên cứu dùng ngoại cảm tìm mộ thời gian vừa qua ?

ĐKC: Tôi không thể ngạc nhiên hơn được nữa.

PV: Ngạc nhiên? Như thế nào và tại sao ?

ĐKC: Khoảng 10 năm trước, khi thấy một nghiên cứu kết luận rằng nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Liên đạt tỉ lệ thành công 70% khi tìm mộ, tôi rất ngạc nhiên, vì tôi vốn không tin ngoại cảm. Nhưng tôi bị thuyết phục khi biết có cả tổ chức khoa học hình sự nhà nước tham gia nghiên cứu. Tôi từng viết bài đăng báo cố gắng giải thích “khả năng” của ông Nguyễn Văn Liên. Tuy nhiên khi trực tiếp đọc báo cáo tổng kết, tôi hoàn toàn thất vọng.

PV: Điều gì làm ông thay đổi thái độ như thế ?

ĐKC: Có nhiều nguyên nhân. Trong đó quan trọng nhất là không ai trong nhóm tác giả có kiến thức cần thiết về ngoại cảm. Tôi khẳng định như vậy vì sau đó tôi đã gặp giám đốc một trung tâm nghiên cứu chuyên về tiềm năng con người, còn viện phó một viện nghiên cứu thì nhờ tôi tìm tài liệu. Chính vì thiếu kiến thức chuyên ngành nên họ không thiết kế được thí nghiệm có kiểm soát và bị nhà ngoại cảm “làm xiếc”.

PV: Nhưng tỉ lệ thành công 70% cho thấy ông Nguyễn Văn Liên đã giúp được nhiều gia đình tìm được hài cốt người thân ?

ĐKC: Con số đó không đáng tin vì nó thu được dựa trên cái gọi là thử nghiệm tại hiện trường (field test). Trong các hiện tượng lạ, thử nghiệm tại hiện trường luôn thành công, trong khi thử nghiệm có kiểm soát luôn thất bại.

Thử nghiệm tại hiện trường là phương pháp thấy sao ghi vậy, nên không kiểm soát được các kênh cảm giác. Vì thế nhà ngoại cảm có thể nhận được nhiều chỉ dẫn cảm giác từ xung quanh. Chẳng hạn trong cảm xạ học, nhà ngoại cảm có thể tìm được nước ngầm do các chỉ dẫn hay ám hiệu địa hình (đất ẩm ướt, cây cỏ xanh tươi hơn…). Khi xóa hết các ám hiệu, khả năng giảm xuống bằng với tìm kiếm ngẫu nhiên (tức đoán mò). Ngoại cảm tìm mộ cũng vậy, khi đến nơi chôn cất liệt sĩ (thông tin này có thể thu được từ dồng đội, chính quyền địa phương…), thấy một nơi cây cỏ xanh tươi hơn, bên dưới nhiều khả năng có cốt.

PV: Đó là về ông Nguyễn Văn Liên và bà Năm Nghĩa. Nhưng nhiều nhà ngoại cảm khác đã được nghiên cứu và được tặng thường, như được tặng gương Huyền Thông của Liên hiện khoa học công nghệ tin học ứng dụng UIA. Ông nghĩ sao về việc này ?

ĐKC: Khi thấy bộ môn cận tâm lý của một trung tâm nghiên cứu khẳng định cô đồng Phương - Thanh Hóa có khả năng gọi vong người chết, tôi nghĩ ngay là họ thiếu kiến thức. Tuy nhiên chỉ đến khi đọc bài trả lời phỏng vấn VieTimes của ông Vũ Thế Khanh, Tổng Giám đốc UIA, tôi mới biết cụ thể sự thiếu kiến thức đó là như thế nào.

Khi đọc bài Khi “ngoại cảm” chiếu yêu… khoa học, tôi thấy ông Vũ Thế Khanh hoàn toàn không biết ngoại cảm là gì. Hệ quả là ông không biết bố trí các thực nghiệm đúng cách. Vì thế mọi nghiên cứu và kết luận với sự tham gia của ông Vũ Thế Khanh và UIA đều mắc sai lầm nghiêm trọng trong quan niệm và trong phương pháp. Cần bác bỏ chúng.

Xin nhấn mạnh rằng, những nghiên cứu đó rất nguy hại đối với xã hội vì góp phần phổ biến sự mê tín và các quan niệm phản khoa học. Một người bạn kể với tôi rằng, khi được hỏi tại sao lại tin “ngoại cảm tìm mộ”, người anh trai trả lời là mấy viện nghiên cứu đã khẳng định thì phải tin chứ.

PV: Mấy viện nghiên cứu với rất nhiều nhà khoa học danh tiếng… Vậy điều gì quyết định sự đúng sai ?

ĐKC: Cái quyết định sự đúng sai là bằng chứng khách quan. Nhà thiên văn Carl Sagan, cha đẻ Chương trình tìm kiến nền văn minh ngoài trái đất SETI (bằng cách theo dõi sóng điện từ liên hành tinh) từng đặt ra tiêu chuẩn: Tuyên bố dị thường đòi hỏi chứng cớ dị thường. Ngoại cảm tìm mộ hay lúa nhân điện (trồng lúa không dùng phân bón và thuốc trừ sâu, chỉ cần nhà nhân điện mỗi tuần đến nhìn ruộng vài lần mà lúa tốt bời bời!) là những tuyên bố dị thường. Tuy nhiên bằng chứng về chúng thì rất sơ sài và kém thuyết phục. Vậy theo tiêu chuẩn Sagan thì ngoại cảm tìm mộ hoàn toàn không đáng tin.

Cần nhấn mạnh thêm rằng, kiến thức là quan trọng, nhưng quan điểm khoa học quan trọng hơn . Khi nghiên cứu ngựa Hans, một hội đồng chuyên môn gồm nhiều nhà khoa học tên tuổi thất bại, chỉ vì họ “muốn tin”. Trong khi đó chàng sinh viên Pfungst mới ra trường (học trò của vị giáo sư tham gia hội đồng) thành công vì quan niệm đúng (ngựa thì không biết làm toán!). Tương tự, phóng viên VieTimes hay phóng viên báo Công an Thành phố Hồ Chí Minh, tuy kiến thức có thể không bằng các nhà khoa học UIA, nhưng khám phá được sự thật vì có quan niệm đúng đắn (không có linh hồn).

PV: Vậy tại sao các nhà khoa học đó muốn tin và tại sao các nhà ngoại cảm tiếp tục thuyết phục chúng ta rằng, khả năng của họ không phải là sự lừa gạt ?

ĐKC: Với một số nhà khoa học không màng danh lợi, họ muốn tin vì bản chất của con người là như vậy (con người tiến hóa để tin các hiện tượng lạ có thật). Với số còn lại thì là chuyện danh lợi. Tôi được biết, mấy năm trước “gạo nhân điện” được bán 10.000 đ/kg, gấp đôi mức thông thường, mà bao nhiêu cũng hết! Ngoại cảm tìm mộ cũng vậy.

PV: Ông đã đọc bài Gửi các nhà “ngoại cảm” giả danh! chưa? Xin ông cho biết ý kiến về những yêu cầu mà cũng là thách thức của bạn đọc đối với các nhà ngoại cảm.

ĐKC: Tôi đã đọc và thấy bạn đọc rất sáng suốt. Những thách thức đó thì tự cổ chí kim, từ đông sang tây, không một nhà ngoại cảm giả danh và không giả danh nào làm được. Tôi xin khẳng định như vậy với tư cách một người đã gần 30 năm nghiên cứu vật lý y sinh học và các hiện tượng dị thường, trong đó có ngoại cảm.

Xin lưu ý một vấn đề. “Ngoại cảm giả danh” thì không nói làm gì, vì đó là sự giả danh. Tuy nhiên ngay cả ngoại cảm không giả danh cũng bất lực trước các thách thức mà bạn đọc đã nêu. Trong các bài viết của mình, tôi viết về ngoại cảm không giả danh. Và như đã trình bày, ngoại cảm là không đáng tin, vì không vượt qua được các thử nghiệm có kiểm soát.

PV: Hãy giả định một tình huống là tuy được cung cấp đầy đủ thông tin mà nhiều người vẫn tin ngoại cảm. Khi đó ông nói gì ?

ĐKC: Tôi không nói gì cả. Và tôi dẫn Blackmore. Từng xuất hồn và sau hơn 30 năm nghiên cứu thoát xác cùng nhiều hiện tượng lạ khác, nữ tâm lý gia Susan Blackmore đưa ra định luật Blackmore thứ nhất: “Khát vọng muốn tin các hiện tượng dị thường của con người lớn hơn mọi chứng cớ phản bác”. Đó là bản chất con người. Tuy nhiên tôi phản đối mọi sự tuyên truyền hay trục lợi từ ngoại cảm và các hiện tượng lạ khác.

PV: Cuối cùng ông muốn gửi lời nhắn gì tới giới ngoại cảm nước nhà, kể cả giả danh và không giả danh ?

ĐKC: Tôi muốn nhắn rằng, nếu có khả năng thực sự, xin đừng kiếm những khoản tiền còm từ người dân nghèo và thiếu hiểu biết trong nước nữa. Hãy tìm kiếm vinh quang và tiền bạc từ chính phủ Mỹ, Quĩ James Randi, cũng như từ nhiều tổ chức và cá nhân khác trên toàn thế giới.

PV: Thật là một đề nghị trị giá hơn 50 triệu đô la Mỹ! Tôi nghĩ là không một nhà ngoại cảm có khả năng thực sự nào cầm lòng được. Xin cảm ơn ông.

-------------------------

- Đại tá, tiến sĩ Đỗ Kiên Cường sinh năm 1957 tại xã Nhân Chính, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam.

- Năm 1974-1978, ông theo học ngành vật lý lý thuyết tại Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội khóa 19.

- Tháng 12-1978, sau khi ra trường, ông gia nhập quân đội.

- Từ 1979-1989, ông là giảng viên Bộ môn Vật lý Lý sinh, Học viện Quân y.

- Từ 1990, ông nghiên cứu ứng dụng vật lý trong sinh học và y học tại Trung tâm Vật lý Y Sinh học, Viện Kỹ thuật Quân sự 2 (nay mang tên Phân viện Vật lý Y Sinh học thuộc Viện Khoa học Công nghệ Quân sự, Bộ Quốc phòng).

- Ông xin nghỉ hưu sớm để tập trung viết sách và giảng dạy tại Bộ môn Vật lý, Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch, Tp. Hồ Chí Minh

 (Vietimes)

------



Nguồn:  http://googletienlang.blogspot.com/2013/10/ts-o-kien-cuong-thach-o-phan-thi-bich.html

  Xin phép tâc giả và dịch giả đăng bài viết trên website "Nghiên cứu Quốc tế". Trung Quốc được lợi gì từ cuộc chiến ở Gaza? Nguồn...