Hiển thị các bài đăng có nhãn Kha Tiệm Ly. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Kha Tiệm Ly. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 26 tháng 5, 2014

Bài Phú nức lòng



Bài Phú nức lòng


Lâu nay vắng tin, sáng mở hộp thư thấy lại mấy dòng anh Kha Tiệm Ly nhắn gửi. Kèm theo một bài Phú anh KTLy mới sáng tác nhân sự kiện bành trướng bá quyền Trung Quốc hạ đặt giàn khoan vào lãnh hải ta.  

Cám ơn nhà thơ từ Nam Bộ, anh Kha Tiệm Ly; và chủ blog tôi xin trân trọng giới thiệu với bạn bè trên thế giới mạng của chúng ta thưởng thức, chia sẻ.

Vệ Nhi

----

Đối diện quân thù phú

Kha Tiệm Ly

Bắc biên địa, hận cũ chẳng nguôi ngoai
Đông lãnh hải, lại giở trò lếu láo.
Kéo dàn khoan ỷ thế nghênh ngang,
Bày thế trận vẫn thói quen hung bạo!



Than ôi!

Đau lòng biết mấy, giặc nuốt rồi mấy dặm Nam Quan,
Ôm hận bao năm, thù chiếm trọn Hoàng Sa hải đảo!
Ngông cuồng vẽ đường chín khúc, không kiêng công ước rạch ròi,
Nghênh ngang kéo cả dàn khoan, để lộ mặt mày ngổ ngáo.
Ỷ mạnh kéo tàu to tàu nhỏ, hiếp ngư thuyền không súng không gươm ,
Thẳng tay dùng cây ngắn cây dài, nện ngư dân chẳng giày chẳng áo!
Thảm sát Đồng Chúc, phụ nữ mang thai mà chúng giết như giết lợn giết bò,
Đánh chiếm Gạc Ma, chiến sĩ tay không mà chúng bắn như bắn cò bắn sáo!
Niềm uất hận chất kín gầm trời,
Biển tang thương đỏ tươi màu máu!
Cho vợ khóc chồng lệ xót lâm li,
Để mẹ nhớ con canh dài áo não!
Câu “Bốn tốt” đã thành lời lẽ yêu ma,
“Mười sáu chữ vàng” nay lòi tim gan chồn cáo!

Thế mới hay,

Vì mộng bành trướng mà mắt cú láo liên,
Bởi thói bá quyền nên lòng lang trơ tráo.
“Không có đối thủ nào trọn kiếp thù hằn,
Chẳng có hữu bằng nào trăm năm vĩnh hảo”
Mất lòng dân, thì dù tấc đất khó gìn,
Được lòng dân, sợ chi quân thù trở giáo!

Từ xưa:

“Hiền tài là nguyên khí quốc gia”
“Giang sơn mất thì nhà tan cửa nát”

Cho nên:

Chớ xui hào kiệt lên rừng đốt củi làm than,
Đừng đẩy sĩ phu ra đường bán rong hát dạo!
Nếu lúc bình thời mãi dùng củi mục làm quan,
Thì cơn quốc loạn lấy ai bảo toàn cương thổ?
Lũ vô tài vô đức, chỉ biến nhân dân thành chó thành dê,
Người đại trí đại nhân mới giúp giang sơn hóa rồng hóa hổ.

Hỡi quân thù!



Mi xua tàu chiến, chồn ló mặt chồn,
Mi kéo dàn khoan, cáo lòi đuôi cáo!
Miệng lằn lưỡi mối khác gì trôn đĩ thối tha,
Khẩu Phât tâm xà nên ló mặt mo vênh váo!
Dân ta lòng gang dạ sắt, chớ bày trò nhát khỉ rung cây,
Bọn mi mắt chột mắt mù, chớ lấy tơ trói hùm trói báo!
Giang sơn li loạn, trăm sông ta liền hóa Như Nguyệt, Bạch Đằng,
Tổ quốc lâm nguy, triệu dân ta đều trở thành Ngô Quyền, Hưng Đạo.
Trải bao binh lửa, Cửu Long Giang luôn chín khúc hào hùng,
Qua bấy phong ba, Hoàng Liên Sơn vẫn nghìn mây vời vợi.
Thử lửa đi! Chiến sĩ ta đạn đã lên nòng,
Xung phong đi! Nhân dân ta gươm chờ tuốt vỏ!
Thắng trăm trận cũ, Đại Cồ giữ nước nghìn năm,
Thắng một trận nầy, Việt Nam lưu danh vạn thuờ.

Anh em ơi!

Giặc đã đến rồi!
Giặc đã đến rồi!
Ta nhân nhượng cũng có mức có chừng
Chúng hung hăng ngày tự tung tự tác.
Thương giống nòi, chân mạnh bước hiên ngang,
Vì tổ quốc, máu sôi lòng bất khuất.
“Đánh cho để răng đen,
Đánh cho luôn dài tóc”.
Đống Đa  gươm khua chan chát, máu thù dơ bước chân voi,
Đằng Giang sóng cuộn ầm ầm, xác giặc còn tanh mũi cọc.
Diên Hồng vang rền “Sát Thát”, quyết bảo toàn hải phận, biên cương,
Như Nguyệt sang sảng lời thơ, không để mất ngọn rau, tấc đất.
Lao thân đạn lửa, mới biết ai dũng ai hèn,
Đối diện quân thù, mới rõ ai vinh ai nhục!
Dù máu đỏ loang lòng biển, quyết bảo toàn hạt cát quê hương,
Dù xương trắng chất  đầu non, không để mất bờ cây tổ quốc.



Hỡi anh em!

Vung tay lên, trăm triệu chung lòng!
Trước giặc thù, một còn một mất!

Kha Tiệm Ly






Chủ Nhật, 28 tháng 7, 2013

Thơ văn bằng hữu




Thơ văn bằng hữu

Nhà thơ Kha Tiệm Ly ở miền Nam mới gửi cho blog mình một bài thơ, có tên “Gởi Tông Giang”. 
 Cùng với bài thơ gửi, chư huynh Tiệm Ly viết vài hàng vô cùng chân tình: “Lâu quá không ghé quý huynh. Kha kính thăm sức khỏe, nhân tiện gởi bài thơ Đường, cộng tác”. – kính.
Xin chân thành cảm ơn nhà thơ và post bài thơ của tình bạn thông cảm và gửi gắm lên Trang nhà để bạn bè cùng chia sẻ.

Vệ Nhi

------



GỞI TỐNG GIANG
(Kính gởi Du Phong)




Ngựa hồng chưa nản bước chân bon
Chí đặt non cao  há chịu mòn
Sọt rác quăng đi trò lếu láo        
Ngoài tai vứt bỏ chuyện con con      
Đã không ham chút tiền tài bẩn
Thì dễ gì cong ngọn bút son?
Kiếm báu thở dài trong hốc đá,
Đêm đêm còn mộng đỉnh Lương Sơn 

Kha Tiệm Ly





Chủ Nhật, 18 tháng 11, 2012

Thơ & rượu, Rượu & thơ



Thơ & rượu, Rượu & thơ

Nhà thơ Kha Tiệm Ly, bạn đọc blog tôi  từ quê hương Nam Bộ gửi ra tặng bài thơ về rượu (nếu gọi được như thế), đọc lên đầy chất cảm khái với thi tứ dồi dào... Cám ơn nhà thơ.
Chủ nhật cuối tuần gửi bà con và bạn đọc yêu thơ, yêu văn hóa văn nghệ, và nhất là các trang nam nhi như người ta hay ví  “…. như kỳ vô phong”, nào ta cùng "nâng chén" để chia sẻ với thi nhân.
Vệ Nhi

----


Uống rượu một mình


kha tiêm ly






Lưu linh như ta uống rượu chẳng cần mồi,
Như thằng điên mặc thây thế sự,
Là thằng say, nên đâm ra tư lư.
Mà chuyện đời sao kể hết em ơi.

Vỗ bụng kinh luân, môn sinh lố nhố,
Bằng hữu le hoe mà đủ kín dòng sông.
Nhưng lúc sa cơ, có bao nhiêu Tử Lộ?
Gặp bão giông toàn chạm mặt Lý Thông!

Chẳng giận người ân tình đem rao bán,
Vì thói thường của mặt ngọc, môi hồng.
Mà cả giận lũ lừa thầy phản bạn,
Mang tấm thân bảy thước cũng như không!


Ai đã từng thức trong đêm tối,
Thì mới hay khó phân biệt trắng đen.
Khi bút mực đã nhạt màu sĩ khí,
Thì liệt oanh cũng hóa ươn hèn!


kha tiệm ly


Thứ Tư, 12 tháng 9, 2012

Người viết Phú "tự trào"



Người viết Phú “tự trào”

 
Ông Kha Tiệm Ly, tên thật là Thái Quốc Tế ở Bến Tre không phải là nhà thơ chuyên nghiệp nhưng ông sáng tác văn thơ đã từ rất lâu, đều đặn và liên tục. Tác phẩm của ông được in trên nhiều tờ báo tạp chí, và gần đây được đăng trên nhiều blog và trang mạng cá nhân…

Dù viết nhiều và thành công sớm về sự nghiệp văn chương, nhưng ông Kha được nhắc đến nhiều nhất lại là những bài viết ở thể Phú, một thể loại cổ văn với luật lệ bằng trắc và ý tứ đối đẳng cũng như cấu tứ đầy điển tích… - thật là thể loại không phải ai cũng sáng tác thành công.

Có thể nói nhắc đến Kha Tiệm Ly – Thái Quốc Tế là người ta nói đến mấy tác phẩm Phú mà ông viết về Hoàng Sa và Trường Sa. “Blog Nguyễn Vĩnh” tôi cũng đã có vinh hạnh giới thiệu được 3 bài trong số đó.

Mới đây tác giả đã gửi cho chủ blog một lá thư đính kèm “8 bài phú và hơn 60 bài thơ thể tự do” với những lời nhắn rất thân quý và khiêm nhường.

Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc và bà con giới mạng bài Phú “tự trào” của tác giả.

Vệ Nhi
 
* Đăng thêm 2 bài thơ Tự Trào của cùng tác giả.

 ------

Tự Trào Phú

 

Tác giả: Kha Tiệm Ly

 

Trộm nghe,

 

Lấy gương soi mặt giai nhân,

Lấy tâm soi lòng kẻ sĩ.

Đem gian nan thử bậc cao tài,

Đem lửa đỏ thử vàng đúng tuổi.
 
 
 

 

Cười cho mỗ,

 

Một đời múa bút, chữ “sĩ” lăm le,

Bao bận khoa gươm, chữ “hùng” lấp ló.

Chỉ vì bút nghiên chệch choạt, mà văn chẳng ra văn,

Cũng tại chân cẳng quều quào, mà võ không ra võ!

Ngũ kinh lập bập, rặn ba bài phú mà đọ với Dương Hùng,

Tam lược nghêu ngao, lượm mấy cơ mưu, lại sánh ngang Tôn Vũ!

 

Lại cười cho mỗ:

 

Dốt không chịu dốt, bày trò thi phú búa xua,

Hèn chẳng chịu hèn, giao kết đệ huynh lố nhố.

Muốn trương buồm ngâm câu Thiên Địa, rượu rót tràn ly,

Thích tuốt kiếm ca khúc Lương Sơn, ngựa phi thẳng vó.

Chí tồi mà muốn vọt thấu mây,

Guơm sét* lại đòi bung khỏi vỏ!

 

Chẳng nhớ câu:

 

Giao long lỡ vận nào khác tép tôm,

Mèo chó đắc thời tuồng như báo hổ!

Mỉa mai câu nói “sinh bất phùng thời”,

Chua xót lời khuyên “đức năng thắng số”!

 

Thì thôi,

 

Thân đã ở nhà lá nhà tranh,

Miệng ráng ăn rau đay rau ngổ!

Đã cam tâm ngậm cục bồ hòn,

Thì mơ tưởng chi hơi cam lộ!

Thênh thang năm dài tháng rộng, tội mỗ đây lấy nhục làm vinh,

Chắt chiu bữa muối bữa dưa, xót mẹ đĩ chịu thương chịu khó!

Trong cơn dâu bể, hữu bằng đầy dẫy Lý Thông,

Sau trận phong ba, đồ đệ có bao Tử Lộ?

Quăng đuốc danh, lòi mặt kẻ hai lòng,

Nhá  lửa lợi, đổi màu vàng bốn số!

Chưa chứng Thiên Nhãn mà thấy tâm can kẻ đứng sau tường,

Chưa chứng Tha Tâm, mà biết thức thần người nằm dưới mộ!

 

Thương cho,

 

Vợ ăn cháo hoa lỉnh bỉnh, lại chịu ngày đói ngày no,

Con mặc áo khính thùng thình, còn vá miếng xanh miếng đỏ!

Vải dỏm loang màu, giặt một nước, lông lá bèo nhèo,

Chuối chát độn cơm, ăn một miếng, lưỡi môi ngờ ngợ!

Dù lành dù rách, gìn nếp riêng, chẳng mở lời than,

Dù đói dù no, noi phép cũ, không châu miệng ngó!

 

Nay thì,

 

Vinh nhục như đã hết duyên,

Văn thơ xét ra vẫn nợ.

Năm xe kinh điển, quyển mất quyển còn,

Mấy lố bạn văn, đứa đi đứa ở.

Miệt mài trên báo, xem “thơ tự do” mà bụng dạ hãi hùng,

Lang thang trên mạng, coi “thơ Đường luật” làm mặt mày mắc cỡ!

 

Chỉ vì,

 

Thẹn cho tài, dẫu gọt hết trúc rừng làm bút, mà chẳng thành danh,

Tủi cho phận,  dù mài vơi nước sông làm mực, cũng chưa tiệm ngộ!

Luật niêm trớt lớt, nào dám xưng văn nọ văn kia,

Đối chác lem nhem, đâu dám vô hội nầy hội nọ!

Thơ viết người không muốn đọc, mà ca ù tai hơn tiếng ve kêu,

Sách in mối chẳng thèm ăn, lại bốc điếc ráy còn hơn bom nổ!

Mùi chưa dậy mà mắc buồn nôn,

Bụng không chửa lại lên cơn ói!

 

Làm thơ mà:

 

 

Cho không ai nhận, thì đem về nhóm lửa nấu cơm.

Đọc chẳng người nghe, cứ để dành gói xôi gói đỗ!

Những tưởng, tay nắm tay cùng dắt lên mây,

Dè đâu, mặt đưa mặt thay phiên trét lọ!

 

Ôi thôi!

 

Thà đành há miệng chờ sung,

Chẳng chịu trói voi bỏ rọ.

Kệ miệng người nói thẳng nói xiên,

Mặc trôn đĩ đóng ngang, đóng dọc!


------



MỜI ĐỌC THÊM:

 
 
TỰ TRÀO


 
 
Không gầy cho lắm, cỡ…cây tre!

Da dẻ ông lò cũng chạy te!

Ba rọi miếng quan cùng miếng lính,

Ốc trâu thân trạng với thân nghè!

Thi gan biển cả, e tàu đắm

Đọ sức non cao sợ đá đè!

Còn chút văn chương, ba lá cải,

Một mình mình đọc, một mình nghe!


-----
 

Tự họa :

TỰ TRÀO




Chẳng phải bách tùng, chỉ gốc tre

Thân như chong chóng, chạy te te!

Đầu hôm tất bật cầu Ông Lãnh

Rạng sáng lu bu chợ Thị Nghè!

Bèo bọt ngại chi mưa, gió cuốn

Cỏ rêu nào sợ đá, cây đè!

Trắng đen, hơn thiệt, trò khinh trọng,

Nhục nhục, vinh vinh chẳng muốn nghe!

KTL
 
2 bài thơ trên của Kha Tiệm Ly đăng trên website "Tiếng Quê Hương"  



 

Thứ Bảy, 8 tháng 9, 2012

Hoàng Sa Tiếu Ngạo Phú



Hoàng Sa Tiếu Ngạo Phú


Cuối tuần "tiếu ngạo" cùng văn chương chữ nghĩa chút chơi, các bạn và bà con nhỉ.

Chơi ngày nghỉ, đúng, nhưng "tiếu ngạo" với Hoàng Sa - Trường Sa lúc này thì khó "tâm nhàn tâm nghỉ" cho được! Mà là phải nghĩ ngợi, lo lắng vì bao nhiêu là thử thách gian nan trước mắt và lâu dài. Đó là vấn đề vận mệnh đất nước, chủ quyền của  cả dân tộc ta lúc này trước lịch sử... 

Tuy nhiên có điều này động viên an ủi, chắc chắn khi đọc xong bài Phú ai cũng thế, cảm xúc dâng trào, rất tự hào với ông cha chúng ta, rồi đến các thế hệ hậu duệ của các bậc tiên liệt nối tiếp nhau để ngẩng cao đầu, trong cái thế hiên ngang với chiến công hiển hách trước bao thế lực xâm lược bạo tàn suốt chiều dài lịch sử... Và ta có quyền "tiếu ngao", cười vào mặt quân thù khi nhìn lại những thử thách và chiến công, những thăng trầm, tiến lui của bao biến cố và số phận...

Cám ơn tác giả Kha Tiệm Ly đã chuyển cho bài văn ý tứ sâu sắc, lời lẽ cân nhắc mạch lạc đâu vào đấy như thế này, xứng điểm "khuyên tròn" cho thể loại Phú - thứ nghệ thuật của cổ văn mà không phải ai cũng sáng tác thành công được. Dù biết bài Phú này đã lan truyền trên nhiều trang mạng ít tháng trước đây, có thể bạn đã đọc, nhưng chủ blog tôi vẫn đưa lên để ai chưa thấy thì đọc, đã đọc rồi cũng nên một hai lần đọc lại...


VỆ NHI

------



Hoàng Sa Tiếu Ngạo Phú


Tác giả: Kha Tiệm Ly




Tưởng rằng,

Tổ tiên có lắm bậc đại hiền,

Tử tôn ắt nhiều người cao đức.



Ngờ đâu,

Cây cha thẳng, mà tủa cành, nhánh cong queo,

Giống mẹ lành, lại trỗ trái, hoa đắng nghét!

Thương cho các ông thầy Lão Đam, Mặc Địch, Khổng Khâu,

Lại có mấy thằng trò Bàng Quyên, Hòa Thân, Hòa…Thiết (!)

Lời cũng như sách, đều dạy phong ngôn hòa ái, khiêm cung,

Mặt dẫu giống người, nhưng quen dã tính hung hăng, tàn ác.

Với kẻ thù, mi quen tuồng làm tớ làm tôi,

Với đồng bào, mi giở thói sát nhơn sát đức!




Đạo đức thì,

Làm thức ăn bằng giấy các-tông,

Chế thuốc uống bằng đồ bánạp!

Xem con người như chó như heo,

Coi mạng sống như rơm như rác!




Chí khí thì,

Dân hàng trăm triệu (1), mà chịu bại dưới vó ngựa Mãn, Mông,

Quân mấy mươi muôn (1), mà đầu hàng trước gót giày Anh, Nhật!

Để chúng lấy Giang Bắc nhanh như trở mặt bàn tay,

Để chúng chiếm Giang Nam dễ như lấy đồ trong bọc!

Mất muôn dặm đất (1) mà  còn chẳng chịu hèn?

Đọa trăm triệu dân (1) mà lại chưa biết nhục?




Ôi!

Thẹn cho đất rộng nghìn vuông,

Tủi cho thân cao bảy thước!

Trên đầu lột mũ cánh chuồn, bỏ hết cổ trang,

Nửa sọ thắt tóc đuôi sam, tuân theo tân pháp!

Mỏi gối vì câu “vạn tuế” mà bỏ nước bỏ dân,

Trẹo lưng bởi kiếp “nô tài”nên quên vinh quên nhục!




Chẳng trách,

Tình đồng chí vừa mới quen tai,

Câu hảo bằng còn chưa ráo mực!

Cắt cáp tàu, không chừa thói cuồng ngông,

Cướp hải phận , lại ló mòi láo xấc!

Vạch đường Chữ U (2), đúng là lưỡi mối miệng lằn,

Nói câu hữu nghị, khác chi tâm xà khẩu Phật!




Nầy bọn mi!

Chớ huênh hoang mà lấy thịt đè người.

Đừng khờ dại mà lấy gươm chém sắt!

Hoàng Sa ta còn trăm triệu anh em, chỉ cách có mấy giờ bay,

Hoàng Sa ta còn hàng vạn kiều bào, chỉ cách nửa vòng trái đất.

Nếu mi liều lĩnh cho hỏa tiễn rời giàn,

Thì ta lập tức quay thần công nhả đạn!

Hàng vạn tấm lòng đang náo nức hồi hương,

Hàng trăm con tàu đang sẵn sàng rẽ nước!

Lãnh thổ, lãnh hải, xưa nay đâu phải một bận tranh cường,

Bọn ta, bọn mi, đến giờ cũng đã bao phen so đọ sức?




Nhớ chăng?

Chèo Ngô Vương sục sôi song nước, dìm xâm lăng dưới đáy Bạch Đằng,

Gươm Thường Kiệt sang sảng lời thơ, truyền tuyên ngôn bên bờ Như Nguyệt.

Đánh đường núi, thây chất kín đèo,

Đánh đường sông, dòng trôi nghẽn xác!

Tiếng quân hò rung chuyển Ải Nam Quan,

Khí thế dậy lung lay thành Kinh Bắc.

Mới nghe tên, đã sợ mất thần hồn,

Nhác thấy bóng, vội chạy bung đầu tóc!




Vì thế,

Thấy cây nhọn, ngỡ cọc Bạch Đằng, rồi bịt mắt ôm tim,

Thấy sắc đỏ, tưởng nước Hồng Hà, vội lấy tay bưng mặt!

Thấy yếm đào, nhớ hồn ma Lục Dận chợt kiêng hùng khí Triệu Nương;

Vào hiểm địa, nhớ mồ tổ Liễu Thăng bỗng sợ thần oai Lê Sát!

Nếu ta lại đem Mã Yên ra dọa, ắt  mặt lắm kẻ xanh lè,

Nếu ta còn đem Tốt Động ra đe, chắc môi bọn mi tím ngắt!



Mới đây thôi,

Ngụy Văn Thà theo tàu tuẩn tiết, chữ DŨNG còn ghi,(4)

Trần Đình Phương vì đảo hi sinh, chữ TRUNG mãi nhắc.(5)

Xem tử sinh là hạt bụi, sợi lông,

Đặt chí khí như tấm gang, lá thép!

Khè lửa mạnh mới biết vàng thau,

Đọ sóng dữ mới hay hào kiệt!



"Đằng giang tự cổ huyết do hồng" (Sông Đằng từ xưa máu còn đỏ) mà người dân giương cao biểu ngữ trong một cuộc biểu tình bảo vệ chủ quyền đất nước




Xưa nay,

Kế hành binh ngoài chỗ dựa quân cơ,

Giành thắng lợi cốt nhằm vào nhân đức.

Huống chi ta,

Bên sau, lớp lớp nhân dân đang ngụt chí diệt thù;

Phía trước, hàng hàng chiến sĩ quyết đồng lòng giữ nước.

Gươm tôi đúng lửa, hào quang lòe ba cõi quỉ thần,

Binh dụng phải thời, hùng khí át hai vầng nhật nguyệt!




Còn mi,

Tay bốc tay hốt, sao không tu tánh sửa mình,

Trước bại sau thua, sao chẳng kiêng oai nể mặt?

Nếu mi ngoan cố còn vẽ “lưỡi bò”, (3)

Thì ta quyết tâm luôn tung kiếm thép! (3)

Với chúng ta mà dám dựa pháo, cậy tàu,

Thì bọn mi sẽ tự lấy tro bôi mặt!




Một mai,

Dù cho gió đổi màu mây,

Dù cho máu pha màu cát.

Hoàng Sa ta cũng không cho mi lượm viên sỏi của Duy Mộng, Quang Hòa, Hoàng Sa ta cũng không cho mi lấy… phân chim của Cam Tuyền, Vĩnh Lạc.(6)

Đó là công lao cha mẹ ta, dựng nên một dải sơn hà,

Đó là xương máu anh em ta, giữ yên ba miền tổ quốc.

Ta giữ nước bằng mưu trí thần sầu,

Ta giữ nước bằng chiến công oanh liệt!

Ta giữ nước bẳng một dân tộc anh hùng,

Ngươi “giữ nước” bằng dãy trường thành khiếp nhược!!!




Cảm khái câu:

“Thà làm quỷ nước Nam”;

Hơn làm vua đất Bắc”.




Hoàng Sa ta,

Thân dựa mũi gươm,

Ngựa treo đầu giặc.

Đem xương gởi  ở chiến trường.

Lấy máu giữ từng tấc đất.

Hẹn với lòng một nhục một vinh,

Thề với giặc một còn một mất!




Nhớ cho,

Coi mặt mà bắt hình dong,

Hối hận bây giờ còn kịp!

Bút thép lời gang,

Hoàng Sa hạ bút!



-----



Chú thích:


(1)                    Những con số minhhọa. Tượng trưng cho nhiều, lớn. 

(2)                    Đường Chữ U hay Đường Lưỡi Bò, là vùng biển mà Trung quốc tự khoanh vùng, rồi đòi làm hải phận cho mình. 

(3)                    “lưỡi bò”, “kiếm thép”. (Tác giả không viết hoa) dụng ý… “chơi chữ”! 
(4)                    Sự kiện, năm 1974: Khi tàu HQ-10 bị địch bắn cháy, Hạm trưởng Ngụy Văn Thà tuẩn tiết theo tàu. 
(5)                    Sự kiện năm 1988, Trung úy Trần Đình Phương trước lúc hi sinh, nói: “Thà hi sinh, chứ không để mất đảo!” 
(6)                    Tên những đảo trong QĐ Hoàng Sa.




VỀ HỘI LÀNG   8 tháng 3 Âm lịch hằng năm là ngày Hội làng truyền thống quê tôi. Năm nay ngày hội rơi vào 2 ngày Nhà nước quy định Quốc tang ...