Có đổi tên nước?
CẬP NHẬT: Quốc hội họp phiên khai mạc hôm nay, 20/5, tin cuối cùng thì Chủ nhiệm UB Pháp luật, ủy viên UB dự thảo sửa đổi Hiến pháp, Trưởng ban biên tập dự thảo sửa đổi Phan Trung Lý vẫn trình “giữ nguyên tên nước”. Tuy nhiên để xem xét mọi ý kiến, góp ý theo nhiều chiều, blog tôi vẫn để lại entry này đã post lên từ sớm nay "như một tư liệu tham khảo".
Mình nhớ chuyện này có thời báo chí loáng thoáng đưa tin vị trí thức này nhà nghiên cứu kia đề xuất trở lại tên nước do cụ Hồ đặt từ khi lập nước, năm 1945. Không giữ định ngữ xã hội chủ nghĩa nữa vì cũng “chưa thấy chủ nghĩa xã hội nó thể hiện ở đâu cả”.
Tuy nhiên cái đáng nói là lý do trở lại tên xưa. Đó là vì cái tên đó hội đủ ý nghĩa của một đất nước mới lập có ý chí như thế, nó không những hợp lòng dân mà còn hợp với xu hướng tiến bộ của nhân loại. Vì tựu chung ý nghĩa nước Việt Nam Mới là một Quốc gia Dân chủ - Cộng hòa Dân chủ Việt Nam (“Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” là cách đọc cách viết theo trật tự Hán - Việt).
Song rồi vấn đề trên khép lại ngay. Có tin báo chí nào công khai đăng những ý kiến đó còn bị các cơ quan quản lý nhắc nhở…
Nhưng nói đi thì phải nói lại. Tự cái tên nước thì cũng chẳng nói lên điều thực chất gì nếu như nhà cầm quyền (những người nắm quyền lực) không dốc lòng cùng với nhân dân nước họ xây dựng đất nước theo tiêu chí dân chủ, tức người dân làm chủ thật sự đất nước. Cụ thể cái nước “Campuchia Dân chủ” một thời của bè lũ Pol Pot, cái Quốc hiệu là thế nhé, nhưng đó là một nhà nước diệt chủng ngay giống nòi mình chứ hay ho gì. Trái lại biết bao nhiêu nước khác, vẫn có Vua, có Nữ hoàng, tên nước là “Vương quốc này, kia...” nhưng đố ai dám nói nước Anh, Tây Ban Nha, một vài nước Bắc Âu, rồi bên châu Á này là Nhật Bản… là họ thuộc loại nước vua chúa, phong kiến cha truyền con nối, tức là không dân chủ. Thủ tướng điều hành 100% công việc đất nước tại những nơi đó bầu cử tranh cử toát mồ hôi, thay đi đổi lại xoành xoạch.
Cho nên cái tên vẫn là cái tên mà thôi.
Trở lại vấn đề, tên nước (Quốc hiệu) ít ngày nữa sẽ là một chủ đề thảo luận và cho ý kiến có thay đổi Quốc hiệu hay không tại kỳ họp thứ 5 của Quốc hộisẽ khai mạc sáng hôm nay, 20/5.
Thế là câu chuyện xới xáo lên ít năm trước đây có lúc được coi là vấn đề nhạy cảm, thậm chí tới độ húy kỵ, thì nay lại trở nên chương trình nghị sự đặt lại trên bàn các nhà lập pháp.
Thời gian qua đi bộc lộ ra bao vấn đề bất cập. Thời thế cũng vậy, không bao giờ bất định mà thay đổi, giống như… đời sống, cuộc sống. Đó là hợp lẽ tự nhiên của mọi sự tiến hóa. Thôi ta chờ những ý kiến của những người - về danh chính ngôn thuận – là các đại biểu thay mặt cho nhân dân mình vì đã được bầu ra sẽ cho ý kiến về tên nước cần đổi/hay giữ như 37 năm nay?
Riêng mình nếu có ai hỏi lấy tên nước là gì, mình đáp rất đơn giản "Việt Nam", gọn 2 từ như vậy là tốt là đủ rồi. Mình nhớ cái ông Cu Ba, rõ ràng là bảo thủ nhé (không đổi mới ngay cả về kinh tế mà), nhưng nước này đâu cần các từ Cộng hòa, Dân chủ, Nhân dân, Cách mạng, mà chỉ gọi nước mình là Cuba thế thôi, đâu có sao!
Quay lại ý kiến những công dân trong cả nước và người Việt Nam ở nước ngoài góp vào thì đã có rất nhiều, chúng ta có thể search sẽ thấy đầy trên mạng. Nhưng mới đây GS Hoàng Xuân Phú có một bài viết được thế giới mạng hết sức chú ý và quan tâm.
Mình chẳng biết một ý kiến chất lượng như vậy có được tờ báo lề phải (dĩ nhiên cả báo viết và báo điện tử) nào ở nước ta đăng tải hay không? Thôi thì xin phép tác giả đưa lại đây để bà con và bạn bè blog tôi ai chưa đọc thì tải xuống tham khảo.
Vệ Nhi
------
Quốc hiệu nào hội tụ lòng Dân?
Tác giả: Hoàng Xuân Phú
Lẽ ra ta không cần phải tốn quá nhiều thời gian để
bàn luận về quốc hiệu, bởi đó là một chuyện đơn giản. Không gì đơn giản hơn việc
chọn một tên thật… đơn giản và mộc mạc, để dễ được đa số Nhân dân chấp nhận, và
bền vững với thời gian. Vấn đề chỉ trở nên rắc rối khi muốn dùng quốc hiệu để
trang điểm, hay cố gói ghém vào đó thiên hướng chính trị, và trở thành phức tạp
hơn vì phải né tránh những tì vết của lịch sử. Khi đã lâm vào trạng thái rắc rối
và phức tạp, thì gỡ ra cũng không dễ. Mục đích của bài viết này là chia sẻ mấy
ý kiến, nhằm góp phần lựa chọn một quốc hiệu hợp lý.
1. Tiêu chí
cho quốc hiệu
Để nội dung thảo luận không quá tản mạn, xin đề xuất
bốn tiêu chí, mà quốc hiệu cần thỏa mãn.
Tiêu chí 1: Quốc hiệu không được chứa đựng những
khái niệm trái ngược với thực trạng của Đất nước. Yêu cầu tưởng chừng hiển
nhiên này thường bị vi phạm, khi người ta muốn dùng quốc hiệu để trang điểm cho
chế độ. Chọn tên thế nào cho hay là một chuyện thường tình, nhưng khi tên hay đến
mức… trái ngược hẳn với thực trạng thì lại trở thành trớ trêu. Cũng giống như
việc bố mẹ đặt tên con là “Thiên Tài” hay “Hoa Hậu”, trong khi đứa trẻ lại
không may bị thiểu năng trí tuệ, hay bị dị tật giữa mặt, thì cái tên quá hay
kia chỉ khiến nó càng hay bị người đời châm chọc mà thôi. Hai mĩ từ được ưa
dùng để đưa vào tên nước là “Dân chủ” và “Nhân dân”. Oái oăm thay, ở những quốc
gia mà dân chủ đã trở thành hiển nhiên và Nhà nước thực sự là “của Nhân dân, do
Nhân dân, vì Nhân dân”, thì hai từ “Dân chủ” và “Nhân dân”không xuất hiện trong
quốc hiệu – Điều đó cũng chẳng cần thiết vì “hữu xạ tự nhiên hương”. Ngược lại,
ở nhiều quốc gia mà tính từ “Dân chủ” hay danh từ “Nhân dân” được gán vào quốc
hiệu, thì dân chủ hay bị chà đạp và Nhân dân hay bị coi thường, mà một trong những
ví dụ điển hình là chế độ diệt chủng mang tên “Camphuchia Dân chủ“ của Khmer Đỏ.
Những mĩ từ kiểu ấy không lừa được ai, không thể ngụy trang để che lấp thực tế
phũ phàng. Chúng không chỉ gây cảm giác mỉa mai, mà còn làm cho người dân cảm
thấy bị xúc phạm, như thể bị nhà cầm quyền coi thường và thách thức.Đưa vào tên
nước những giá trị không tồn tại trên thực tế là giả dối. Khi giả dối tràn lan
đến mức phơi ra cả tên nước, thì đạo đức càng dễ lụn bại, giáo dục càng dễ suy
đồi, và Đất nước càng khó phát triển lành mạnh.
Tiêu chí 2: Quốc hiệu không được gây ảnh hưởng xấu
cho lợi ích của Dân tộc, của Nhân dân. Tiêu chuẩn này rõ ràng đến mức không cần
phải giải thích thêm. Chỉ xin nhấn mạnh rằng: Để sớm đạt được mục tiêu Dân
giàu, Nước mạnh, thì phải thực tâm đoàn kết toàn Dân, nhằm huy động sức mạnh của
toàn thể cộng đồng người Việt. Chính vì vậy,quốc hiệu không được gây cản trở
cho quá trình hòa giải và hòa hợp Dân tộc.
Tiêu chí 3: Quốc hiệu cần tránh gây phản cảm. Phản cảm
không phải do nó chứa đựng những từ có nghĩa xấu, vì thông thường chỉ những
khái niệm được coi là tốt đẹp mới được lựa chọn để đưa vào quốc hiệu. Thế nhưng,
nếu khái niệm đẹp đẽ nào đó đã bị gắn với một giai đoạn lịch sử bi thương, thì
nó gợi lại những kỷ niệm buồn. Mặc dù “Nhân dân”là một trong những danh từ được
trân trọng nhất, nhưng người dân các nước Ba Lan, Bun-ga-ri, Hung-ga-ri… chẳng
muốn tiếp tục lưu giữ nó trong tên nước, sau khi đã xóa bỏ các chế độ mang tên
Cộng hòa Nhân dân Ba Lan, Cộng hòa Nhân dân Bun-ga-ri, Cộng hòa Nhân dân
Hung-ga-ri… Mặc dù “Dân chủ” là một trong những tính từ đẹp nhất, nhưng người
Camphuchia khó có thể chấp nhận để nó tái xuất hiện trong tên nước của họ, sau
khi đã trải qua thảm họa diệt chủng dưới chế độ Khmer Đỏ man rợ mang tên
“Camphuchia Dân chủ“. “Xã hội chủ nghĩa” vốn là một từ đẹp, thể hiện giấc mơ về
một xã hội công bằng, nhưng trên thực tế thì nó lại bị bôi nhọ bởi các chế độ độc
tài chuyên chế, và bị nhuốm máu của hàng chục triệu người đã chết oan ức dưới
thời Stalin, Mao Trạch Đông, Pol Pot… Trải qua những cơn ác mộng như vậy, các nạn
nhân sẽ cảm thấy rùng mình khi phải nghe lại những mĩ từ đã từng bị lạm dụng để
hóa trang cho tội ác. Vì vậy, cần tránh dùng những từ đã trở nên phản cảm để đặt
tên nước.
Tiêu chí 4: Quốc hiệu cần được Nhân dân chấp thuận.
Đất nước là của chung, chứ không phải của riêng ai. Vì vậy không ai có đặc quyền
đơn phương quyết định tên nước. Hiển nhiên là khó có thể chọn được một cái tên
để tất cả mọi người đều thích, nên không thể cầu toàn. Nhưng nếu chỉ đưa vào quốc
hiệu những giá trị phổ cập, những khái niệm mang tính hiển nhiên, thì dễ được
đa số Nhân dân chấp nhận (ít nhất là không phản đối). Ví dụ: Có thể coi “Cộng
hòa” là một khái niệm mang tính hiển nhiên (vì đa số nhân dân Việt Nam không muốn
trở lại chế độ quân chủ), nhưng “Xã hội chủ nghĩa” thì không thuộc vào phạm trù
ấy. Có thể “Xã hội chủ nghĩa” là tình yêu chân thành của một số người, nhưng
tên nước không phải là nơi để thể hiện tuyên ngôn tình yêu của họ. Không nhất
thiết phải trưng ra mọi thứ mình yêu, bởi điều đó cũng ngộ nghĩnh như việc in
lên danh thiếp danh sách tình nhân. Mặt khác, họ yêu gì thì cứ việc yêu, nhưng
không thể ép toàn Dân phải cùng yêu thứ đó, bởi điều ấy cũng phi lý như việc họ
ép tất cả mọi người phải cùng yêu vợ hay tình nhân của riêng họ vậy.
Thiết nghĩ, bốn tiêu chí kể trên là hợp lý, không hề
quá cao, mà có thể coi là tiêu chuẩn tối thiểu đối với quốc hiệu. Sau đây, ta sẽ
dựa vào chúng để đánh giá quốc hiệu hiện thời và đề xuất quốc hiệu thay thế.
2. Quốc hiệu
hiện thời
Năm 1976 nước Việt Nam tái thống nhất, lấy quốc hiệu
là “Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam“. Từ “Xã hội chủ nghĩa”được sao chép từ
tên của một số quốc gia, như Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết, Cộng hòa
Xã hội chủ nghĩa Romania, Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Tiệp Khắc… Điều đó không chỉ
để phân biệt với ba quốc hiệu đã từng tồn tại trên đất Việt là “Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa“, “Việt Nam Cộng hòa“ và “Cộng hòa Miền Nam Việt Nam“, mà còn để thể
hiện con đường do giới lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) đã chọn cho
Dân tộc.
Có lẽ khi ấy không có nhiều người công khai phản đối
sự lựa chọn này. “Bên thắng cuộc” thì tin tưởng vào sự sáng suốt của những người
đã lãnh đạo thắng lợi hai cuộc chiến tranh chấn động địa cầu, và cuộc sống no đủ
ở Liên Xô và các nước Xã hội chủ nghĩa Đông Âu (như đã được truyền tụng) là niềm
mơ ước của hàng triệu người đã phải chịu đói khổ suốt mấy chục năm chiến tranh.
“Bên thua cuộc” thì nghĩ mình buộc phải chấp nhận, chứ không được quyền tham
gia lựa chọn.
Cuộc sống khắc nghiệt đằng đẵng những năm 80 của thế
kỷ 20 khiến người người bừng tỉnh khỏi giấc mộng, và thảng thốt tự hỏi: Chẳng
nhẽ “Xã hội chủ nghĩa” là thế này sao?
Rồi Liên Xô và hệ thống các nước Xã hội chủ nghĩa
Đông Âu đồng loạt sụp đổ. Chính Nhân dân (của các nước đó) đã đứng lên xóa bỏ
cái chế độ mà họ từng kỳ vọng, nhưng rồi quá thất vọng. Đối với hầu hết các nước
trên Thế giới, cuộc thí nghiệm quy mô, tốn kém mồ hôi và xương máu có một không
hai trong lịch sử nhân loại đã kết thúc. Mấy chế độ mang danh “Xã hội chủ
nghĩa” còn sót lại bơ vơ với câu hỏi “đi đâu, về đâu”.
Thực tế phũ phàng có sức thuyết phục mạnh hơn mọi lý
thuyết, khiến những người bảo thủ nhất trong bộ máy cầm quyền ở Việt Nam cũng
phải nhận ra rằng lối thoát duy nhất là phải “đổi mới”, tức là phải dứt khỏi những
ràng buộc lý luận quá giáo điều. Như người mới tập bơi, lúc đầu chỉ dám mon men
cạnh con tàu đang chìm dần. Nhưng rồi chới với trong sóng nước, đành phải bám
vào bất cứ vật nào trôi nổi trong tầm với, miễn là còn có thể lềnh bềnh trên mặt
nước. Sau hơn hai mươi năm trôi dạt, giờ đây đã mất hút bóng tàu xưa, chỉ còn lại
kẻ ngơ ngác kiếm tìm “định hướng”. Tuy điệp khúc “Xã hội chủ nghĩa” vẫn còn
vang lên đâu đó, nhưng với lý lẽ vu vơ như trong cơn mê sảng. Nếu tỉnh táo tìm
kiếm từ Bắc vô Nam, thì không thể tìm được bất cứ biểu hiện tích cực nào trong
thực tế cuộc sống, để chứng tỏ rằng xã hội này cũng có những nét tốt hơn so với
xã hội tư bản phát triển. Những giá trị tốt đẹp từng được gán cho “Xã hội chủ
nghĩa”ngày càng vắng bóng, dần bị triệt tiêu. Thay vào đó, những biểu hiện vốn
được coi là đặc trưng xấu của chế độ phong kiến và của chủ nghĩa tư bản hoang
dã ngày càng lấn át: Tham nhũng lộng hành, bất công ngự trị, bóc lột trắng trợn,
thất nghiệp tràn lan… Quốc hiệu hiện thời trở nên cô đơn giữa lòng Dân tộc, vì
nó chứa đựng tính từ “Xã hội chủ nghĩa”, đã trở nên xa lạ và hoàn toàn trái ngược
với thực trạng của Đất nước. Vì vậy, theo Tiêu chí 1, đã đến lúc chúng ta phải
chia tay với quốc hiệu “Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, để sống thật hơn với
lòng mình. Nếu ai đó thực tâm yêu Chủ nghĩa xã hội với tư cách một lý tưởng tốt
đẹp, thì lại càng phải đấu tranh đòi bỏ quốc hiệu hiện thời, bởi việc gắn tính
từ “Xã hội chủ nghĩa” với tình trạng tệ hại hiện nay chỉ có tác dụng bôi nhọ Chủ
nghĩa xã hội mà thôi.
Có ý kiến chỉ đạo rằng cần tiếp tục duy trì quốc hiệu
hiện nay để “thể hiện rõ mục tiêu phấn đấu của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta về
con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội”. Mục tiêu nào? Nếu là mục tiêu cuối cùng của
ĐCSVN thì là tiến lênCộng sản chủ nghĩa, vậy thì tại sao không đổi tên nước
thành “Cộng hòa Cộng sản chủ nghĩa Việt Nam”? Nếu là mục tiêu trước mắt thì chỉ
là “quá độ” hay “định hướng Xã hội chủ nghĩa”, vậy thì tại sao không đổi tên nước
thành “Cộng hòa Quá độ Xã hội chủ nghĩa Việt Nam” hay “Cộng hòa Định hướng Xã hội
chủ nghĩa Việt Nam”? Thực ra, mục tiêu hiện nay của giới cầm quyền chỉ đơn thuần
là duy trì chế độ độc đảng bằng mọi cách. Vậy thì, nếu muốn “thể hiện rõ mục
tiêu phấn đấu của Đảng”, tại sao không chọn quốc hiệu là “Cộng hòa Độc đảng Việt
Nam” cho trung thực? Đặt các câu hỏi như vậy để thấy rõ hơn sự ngụy biện, khi
vin vào mục tiêu phấn đấu để duy trì quốc hiệu hiện thời.
Mục tiêu càng cao xa thì càng có thể sai, có thể nhầm.
Nếu muốn thì cứ việc âm thầm mà theo đuổi, như người lính ra trận giữ bí mật mục
tiêu. Tại sao cứ phải bô bô, nói thay làm, rồi gán cái mục tiêu đã lộ rõ là vô
vọng vào cả tên nước, tạo cớ trói buộc quyền tìm tòi, lựa chọn và khả năng sáng
tạo của Nhân dân, cản trở bước tiến của Dân tộc?
Chủ nghĩa xã hội chỉ là mục tiêu phấn đấu của ĐCSVN,
nhưng lại được gán bừa cho nguyện vọng của Nhân dân. Đó là một sự xúc phạm, thể
hiện tập quán coi thường Nhân dân. Khi cuộc thử sức đã ngã ngũ trên phạm vi Thế
giới, mà vẫn dai dẳng bám lấy ảo vọng “Xã hội chủ nghĩa” được cóp nhặt từ con
tàu đã chìm nghỉm mang tên Liên Xô, thì chẳng thể hiện được lòng trung thành,
mà chỉ chứng tỏ sự trì trệ, bảo thủ và khả năng nhận thức thời cuộc quá kém cỏi.
Điều đó chỉ khiến Dân thêm xa và càng coi thường giới lãnh đạo, ảnh hưởng xấu tới
hiệu quả điều hành của chính quyền.
Giờ đây, bao người sinh ra, lớn lên và được đào tạo
trong chế độ này đã mất hẳn niềm tin vào Chủ nghĩa xã hội. Những người từng ở
bên kia chiến tuyến và con em họ lại càng khó chia sẻ với lý tưởng “Xã hội chủ
nghĩa”. Do đó, việc duy trì quốc hiệu hiện nay chỉ làm cho lòng người thêm li
tán, gây cản trở cho quá trình hòa giải và hòa hợp Dân tộc.
Khi “Xã hội chủ nghĩa” đã trở nên tai tiếng, cả Thế
giới chỉ có hai nước Việt Nam và Sri Lanka còn giữ tính từ ấy trong quốc hiệu,
thì sự kiên định duy trì quốc hiệu hiện thời chỉ làm cho Đất nước thêm cô đơn
trên trường quốc tế, và chứng tỏ rằng chính quyền này thuộc loại “khó hội nhập”.
Trong thuyết minh về ý kiến đề nghị lấy lại tên gọi
“Việt Nam Dân chủ Cộng hòa“, Báo cáo của Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm
1992 gửi Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 11 tháng 4 năm 2013 viết rằng:
“Tên gọi này có khả năng lôi cuốn, tập hợp đoàn kết
toàn dân tộc, tạo sự đồng thuận chung trong xã hội, đồng thời thuận lợi hơn cho
ta trong quan hệ hợp tác với các nước trên Thế giới, góp phần phát huy và tranh
thủ được các nguồn lực trong công cuộc kiến thiết và phát triển đất nước.”
Đánh giá như vậy, trong mối so sánh với phương án tiếp
tục duy trì tên nước là “Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, thì có nghĩa là
thừa nhận rằng quốc hiệu hiện thời không có những tác dụng ấy. Vậy thì, chiểu
theo Tiêu chí 2, còn chần chừ gì nữa mà không chia tay với quốc hiệu “Cộng hòa
Xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, để “đoàn kết toàn dân tộc, tạo sự đồng thuận chung
trong xã hội”, để “thuận lợi hơn cho ta trong quan hệ hợp tác với các nước trên
Thế giới”, và để “phát huy và tranh thủ được các nguồn lực trong công cuộc kiến
thiết và phát triển đất nước”?
Cùng với sự sụp đổ của Liên Xô và hệ thống Xã hội chủ
nghĩa, khái niệm “Xã hội chủ nghĩa” đã vương phải cái dớp đại bại. Đối với người
Việt, từ “Xã hội chủ nghĩa” hay hiện hữu trong ký ức về những sai lầm của cuộc
cải tạo tư sản ở miền Nam, về những năm tháng bế tắc và túng quẫn trước thời kỳ
“đổi mới”, và đặc biệt hằn sâu trong tâm khảm của bao người đã bị cầm tù không
án, vì từng phục vụ trong chế độ Việt Nam Cộng hòa, và những người đã phải mạo
hiểm cả mạng sống để vượt biên đi tìm kiếm tự do. Mấy chục năm qua, từ “Xã hội
chủ nghĩa” đã bị lạm dụng, để tô vẽ và biện hộ cho chế độ phi dân chủ, bị tham
nhũng lộng hành từ trên xuống dưới. “Xã hội chủ nghĩa” bị gán cho một nền kinh
tế lâm cảnh “cha chung không ai khóc”, với kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo
trong việc… phung phí của cải của Nhân dân và dìm Đất nước ngập sâu trong nợ nần.
“Xã hội chủ nghĩa” vang lên như một lời nói dối trơ trẽn đối với bao số phận bị
vùi dập bất công, quanh năm lang thang vật nài công lý… Vậy là bốn chữ “Xã hội
chủ nghĩa” không còn tạo ra được hưng phấn cho những tâm hồn đã một thời tràn
trề hy vọng, mà trở nên phản cảm đối với hàng triệu trái tim. Thế thì, theo
Tiêu chí 3, tại sao không tránh nhắc tới nó trong quốc hiệu cho đỡ đau lòng?
Với những điều đã được trình bày ở trên, có lẽ đa số
Nhân dân sẽ không chấp thuận gắn bó mãi với quốc hiệu hiện thời, tức là nó
không thỏa mãn Tiêu chí 4. Nếu nhà cầm quyền muốn chứng minh điều ngược lại,
thì phải tiến hành trưng cầu dân ý một cách thật sự dân chủ, thông qua hình thức
bỏ phiếu kín, để người dân dám bầy tỏ chính kiến của mình, thay vì ép buộc họ
phải điền hai chữ “đồng ý”, hay làm ngơ trước thực tế rồi kết luận bừa như mấy
chục năm qua. Trước khi trưng cầu dân ý, giới lãnh đạo và bộ máy lý luận hãy ngồi
lại với nhau, thảo luận cho ra nhẽ, để xác định rõ thứ “Xã hội chủ nghĩa” mà họ
theo đuổi thực ra là cái gì. Chắc hẳn nó không thể là thứ “Xã hội chủ nghĩa quốc
gia” (National Socialism, Nationalsozialismus), cái lý tưởng của tổ chức phát
xít mang tên “Đảng Công nhân Xã hội chủ nghĩa quốc gia Đức”
(Nationalsozialistischen Deutschen Arbeiterpartei, mà người Việt quen gọi tắt
là “Đức Quốc Xã”), đã gây bao tội ác ngút trời trong Chiến tranh Thế giới thứ
hai. Liệu thứ mà họ theo đuổi có phải là kiểu “Xã hội chủ nghĩa” thuần túy lý
thuyết của Marx và Engels, hay là kiểu “Xã hội chủ nghĩa” đã được hiện thực hóa
bởi trường phái Lenin và Stalin? Tại sao càng phát triển theo định hướng “Xã hội
chủ nghĩa” thì càng khác lạ so với nguyên mẫu? Xét cho cùng thì điều kiện kinh
tế và xã hội Việt Nam có phù hợp với sản phẩm nhập ngoại ấy hay không? Cái gọi
là “vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Marx – Lenin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam”
chẳng qua là cố “gọt chân cho vừa giày”. Sư phụ có “chân vừa giày” mà còn phải“treo
giày”, giữa đường bỏ cuộc, vậy thì đệ tử “gọt chân” có thể tập tễnh được bao
lâu? Khi không còn ai thí thân đi trước làm hoa tiêu, thì kẻ mò mẫm cô đơn biết
lẫm chẫm về đâu? Lấy đâu ra cái quyền để bắt cả Dân tộc phải lẽo đẽo đi theo
trong cuộc tìm kiếm vô định, mịt mù tương lai? Bằng nào các nhà lý luận của
ĐCSVN chưa tìm được câu trả lời thuyết phục cho chính bản thân mình, thì không
nên đem câu hỏi lựa chọn hay không con đường “Xã hội chủ nghĩa” để đặt ra cho
muôn dân, những người vốn chỉ lo làm ăn kiếm sống, chứ chẳng quan tâm đến chủ
nghĩa này hay chủ nghĩa khác.
Vậy là quốc hiệu hiện thời vi phạm cả bốn tiêu chí
đã đặt ra trong Phần 1. Cho nên, tốt nhất là sớm đổi quốc hiệu “cho lành”.
3. Quốc hiệu
đã qua
Vốn dĩ, trong cả hai phiên bản Dự thảo sửa đổi Hiến
pháp năm 1992 được trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ 4 của Quốc hội khóa
XIII và Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 được đăng tải để lấy ý kiến nhân dân
từ ngày 2 tháng 1 năm 2013, chỉ có một phương án duy nhất về tên nước, là tiếp
tục duy trì quốc hiệu “Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Ấy là thể hiện sự
“kiên trì những vấn đề có tính nguyên tắc, thuộc về bản chất của chế độ chính
trị và Nhà nước ta, tiếp tục khẳng định Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa“, như phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị lần thứ
bảy của Ban Chấp hành Trung ương ĐCSVN khóa XI.
Sau ba tháng lấy ý kiến Nhân dân, trong Báo cáo gửi Ủy
ban thường vụ Quốc hội ngày 11 tháng 4 năm 2013, Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến
pháp năm 1992 đã đề xuất thêm phương án thứ hai cho quốc hiệu là “Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa“.Đây là một động thái tích cực, không chỉ thể hiện thái độ tiếp
thu ý kiến Nhân dân của những người tham gia viết Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm
1992, mà còn chỉ ra rằng tên nước không phải là thứ bất di bất dịch, và mọi người
đều có thể tham gia góp ý để thay đổi cho hợp lý.
Có dư luận cho rằng một trong những nơi đề nghị lấy
quốc hiệu “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa“ là Kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp 1992,
do nhóm 72 người ký ngày 19 tháng 1 năm 2013, nên thường được gọi tắt là Kiến
nghị 72. Đó là một sự nhầm lẫn, bởi vì Kiến nghị 72 không hề đề cập đến tên nước!
Có lẽ nhầm lẫn ấy bắt nguồn từ việc hiểu sai rằng Dự thảo Hiến pháp 2013 là một
bộ phận của Kiến nghị 72. Thực ra, hai văn bản này hoàn toàn độc lập với nhau,
và việc ký Kiến nghị 72 không có nghĩa là tán thành với nội dung của Dự thảo Hiến
pháp 2013.*
Là một trong những người đầu tiên đặt bút ký tên vào
Kiến nghị 72, bản thân tôi không ủng hộ phương án lấy quốc hiệu “Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa“, mặc dù chia sẻ quan điểm cho rằng đó là một giải pháp khả thi để
giới cầm quyền chấp nhận bỏ từ “Xã hội chủ nghĩa” ra khỏi quốc hiệu. Xét theo bốn
tiêu chí đã trình bày ở Phần 1, lý do khiến tôi không tán thành lấy quốc hiệu
“Việt Nam Dân chủ Cộng hòa“ là như sau:
Thứ nhất, hiện nay và cả trong thời gian tới xã hội
này vẫn chưa có dân chủ, vì giới cầm quyền chưa sẵn sàng chấp nhận quyền dân chủ
của Nhân dân, trong khi đa số người dân cũng chưa quen thực hiện và bảo vệ quyền
dân chủ. Tức là phương án “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa“ chứa đựng yếu tố giả dối,
trái ngược với thực trạng của Đất nước. Vậy là vi phạm Tiêu chí 1. Vả lại, kể cả
khi xã hội đã thực sự có dân chủ, thì cũng chẳng cần phải khoe khoang, mà nên
chọn quốc hiệu khiêm tốn như các nước dân chủ hàng đầu Thế giới.
Thứ hai, nếu dùng tên “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa“ để
đặt cho nước Việt Nam thống nhất, thì hàng triệu người đã từng gắn bó với chế độ
Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam sẽ cảm thấy mình không được tôn trọng. Điều đó sẽ ảnh
hưởng xấu cho quá trình hòa giải và hòa hợp Dân tộc. Hơn nữa, nếu sử dụng tên
trùng thì nước Việt Nam thống nhất có thể sẽ phải gánh chịu hậu quả xấu của những
ký kết hay cam kết ngoại giao mà lãnh đạo của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng
hòađã tiến hành trong hoàn cảnh bị lệ thuộc thời chiến tranh. Như vậy, quốc hiệu
“Việt Nam Dân chủ Cộng hòa“ sẽ gây ảnh hưởng xấu cho lợi ích của Dân tộc, của
Nhân dân, tức là vi phạm Tiêu chí 2.
Thứ ba, quốc hiệu “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa“ gợi lại
những sai lầm của cuộc cải cách ruộng đất ở miền Bắc, mà cho đến nay các nạn
nhân vẫn chưa được xin lỗi và bồi thường một cách thỏa đáng. Nó cũng gợi lại những
đau thương và mất mát mà nhiều gia đình miền Nam đã từng phải hứng chịu trong
cuộc chiến “nồi da nấu thịt”. Đối với những nạn nhân như vậy, quốc hiệu này đã
trở nên phản cảm. Vậy là vi phạm Tiêu chí 3.
Thứ tư, vì những lý do kể trên, quốc hiệu “Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa“ khó có thể được đa số người dân chấp thuận.Vậy là có thể vi
phạm cả Tiêu chí 4.
Khi đã phải tránh quốc hiệu một thời của quốc gia
phía bắc, thì cũng khó mà chấp nhận quốc hiệu của quốc gia ở phía nam vĩ tuyến
17. Quốc hiệu “Việt Nam Cộng hòa“ tuy không vi phạm Tiêu chí 1 (vì không chứa từ
nào trái ngược với thực trạng Đất nước), nhưng lại vi phạm Tiêu chí 2 (vì cũng
gây bất lợi cho hòa hợp Dân tộc), Tiêu chí 3 (vì gây phản cảm với những nạn
nhân của chế độ Việt Nam Cộng hòa) và Tiêu chí 4 (vì chắc nó không được giới cầm
quyền và một bộ phận Nhân dân thuộc “bên thắng cuộc” chấp nhận). Vì vậy cũng
không thể chọn “Việt Nam Cộng hòa“ làm tên nước Việt Nam thống nhất.
Có ý kiến đề nghị lấy lại tên “Đại Việt“. Đó là quốc
hiệu của nước ta hơn 700 năm, trong khi tên nước “Việt Nam” mới có từ năm 1804.
Tuy nhiên, tên xưng “tự đại” đó có thể gây phản cảm trong quan hệ quốc tế, và
việc chọn tên “Đại Việt“ đầy tự hào giữa thời buổi khủng hoảng trầm trọng về
chính trị, kinh tế và xã hội dễ gây ra cảm giác khôi hài trong cộng đồng người
Việt. Nó cũng tạo thêm duyên cớ để bên “Đại Bá” lên án chúng ta là “Tiểu Bá”.
Do đó, theo Tiêu chí 3, không nên lấy lại tên “Đại Việt“.
4. Quốc hiệu
thay thế
Trong hai phần trên, ta đã đi đến kết luận là không
nên dùng lại mấy quốc hiệu đã hoặc đang được sử dụng ở nước ta. Vậy thì chọn quốc
hiệu nào? Hãy cùng nhau tham khảo danh sách tên (tiếng Anh) của các quốc gia
trên Thế giới để tìm lời gợi ý.
Trong số 206 nhà nước có chủ quyền được thống kê,
thì có 153 nước (chiếm 74%) đưa danh từ (chỉ thể chế) “Cộng hòa” (Republic) hay
“Vương quốc” (Kingdom) vào quốc hiệu. Trong số 136 quốc hiệu có danh từ “Cộng
hòa”, thì 107 (chiếm 79%) chỉ kèm thêm địa danh, ví dụ như Cộng hòa Áo, Cộng
hòa Ấn Độ, Cộng hòa Pháp, Cộng hòa Italia. Nếu noi theo đa số này, ta có thể chọn
quốc hiệu là “Cộng hòa Việt Nam”. Phương án này ngắn gọn, giản dị, hòa nhập và
không chứa khái niệm nào trái với thực trạng đất nước (tức là thỏa mãn Tiêu chí
1). Nhưng phải chăng “Cộng hòa Việt Nam” chỉ là cách viết ngược của quốc hiệu
“Việt Nam Cộng hòa“? Băn khoăn này được củng cố khi dịch “Cộng hòa Việt Nam” ra
các ngoại ngữ thông dụng, chẳng hạn như tiếng Anh hay tiếng Đức, và thu được
“Republic of Vietnam“ hay “Republik Vietnam“ – đó chính là quốc hiệu (tiếng Anh
hay tiếng Đức) của “Việt Nam Cộng hòa“. Nếu quả như vậy thì không nên chọn quốc
hiệu “Cộng hòa Việt Nam”, vì những lý do như đã trình bày ở Phần 3 đối với quốc
hiệu “Việt Nam Cộng hòa“. Tuy nhiên, có thể tránh yếu tố nhạy cảm do lịch sử để
lại, nếu phân biệt giữa danh từ và tính từ. Trong số 107 quốc hiệu được tạo bởi
danh từ “Cộng hòa” đi kèm với địa danh, thì 94 trường hợp (chiếm 88%) có địa
danh xuất hiện với tư cáchdanh từ, ví dụ như Republic of Austria (Cộng hòa Áo),
Republic of India (Cộng hòa Ấn Độ), và 13 trường hợp (chiếm 12%) có địa danh xuất
hiện với tư cách tính từ, ví dụ như Argentine Republic (Cộng hòa Argentina),
Czech Republic(Cộng hòa Séc), French Republic (Cộng hòa Pháp), Hellenic
Republic (Cộng hòa Hy Lạp), Italian Republic (Cộng hòa Italia), Portuguese
Republic (Cộng hòa Bồ Đào Nha). Như vậy, nếu coi “Việt Nam” là danh từ, thì tên
tiếng Anh của “Cộng hòa Việt Nam” mới là “Republic of Vietnam“. Còn nếu coi “Việt
Nam” là tính từ (thuộc về Việt Nam), thì tên tiếng Anh của“Cộng hòa Việt Nam” sẽ
là “Vietnamese Republic”, không còn bị trùng với “Republic of Vietnam“, và đây
là một phương án có thể chấp nhận được.
Nếu không hài lòng với phương án vừa rồi, mà vẫn muốn
ghép danh từ “Cộng hòa” với danh từ ”Việt Nam”, thì phải bổ sung thêm vào đó một
vài từ. Tất nhiên, không thể thêm những từ không phù hợp với hoàn cảnh của nước
ta, như“Federal” (thuộc về liên bang), hay “Islamic” (thuộc về Islam), và cần
chừa ra tính từ “Socialist” (Xã hội chủ nghĩa) mà ta đã xác định là nên chia
tay với nó. Vậy thì, trong kho từ vựng của 206 quốc hiệu đang được sử dụng, chỉ
còn lại danh từ“People” (Nhân dân) và hai tính từ “Democratic” (Dân chủ),
“United” (Thống nhất, Liên hiệp, Hợp nhất…) là thích hợp.
Nếu gia nhập cái gia đình gồm 5 quốc hiệu chứa danh
từ “People” (Nhân dân), bao gồm Algérie, Bangladesh, Lào, Triều Tiên và Trung
Quốc, thì quốc hiệu ngắn nhất của nước ta sẽ là “Cộng hòa Nhân dân Việt Nam”
(People’s Republic of Vietnam). Phương án này vi phạm Tiêu chí 1, vì Nhà nước
này quá xa Nhân dân, chưa phải là “của Nhân dân”, nên nếu nói “Cộng hòa (của)
Nhân dân” (People’s Republic) là trái với thực trạng Đất nước. Nó cũng vi phạm
Tiêu chí 3, vì bằng nào Nhân dân ta còn bị ức chế triền miên bởi cách cư xử của
láng giềng phương bắc, thì bằng ấy tên gọi “Cộng hòa Nhân dân Việt Nam” còn gây
phản cảm. Thậm chí, có thể nhiều người sẽ coi việc lựa chọn quốc hiệu này như một
biểu hiện của sự theo đuôi ngoại bang để gây phương hại cho lợi ích của Dân tộc.
Nếu gia nhập cái quần thể của 10 quốc hiệu chứa tính
từ “Democratic” (Dân chủ), bao gồm Algérie, Cộng hòa Dân chủ Congo, Đông Timor,
Ethiopia, Lào, Nepal, São Tomé và Príncipe, Cộng hòa Dân chủ Sahrawi Ả Rập, Sri
Lanka và Triều Tiên, thì quốc hiệu ngắn nhất của nước ta sẽ là “Cộng hòa Dân chủ
Việt Nam”. Khi “Việt Nam” là danh từ, thì “Cộng hòa Dân chủ Việt Nam” chỉ là
cách viết giao hoán của “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa“, và nếu dịch ra tiếng Anh,
thì kết quả của hai cách viết hoàn toàn trùng nhau: “Democratic Republic of
Vietnam“. Kể cả khi coi “Việt Nam” là tính từ, để có tên tiếng Anh khác đi là
“Vietnamese Democratic Republic”, thì phương án biến báo này vẫn vi phạm Tiêu
chí 1, bởi vì trong thời gian tới xã hội ta vẫn chưa có dân chủ, nên từ “Dân chủ”
trái với thực trạng của Đất nước.
Ở trên, tôi đã cố ý chép ra đầy đủ danh sách của 5
quốc gia có danh từ “Nhân dân” và 10 quốc gia có tính từ “Dân chủ”trong quốc hiệu.
Tại sao? Để bạn đọc có thể dễ dàng kiểm nghiệm điều đã được viết trong Phần 1:
Những quốc gia mẫu mực về dân chủ và Nhà nước thực sự là của Nhân dân thì trong
quốc hiệu không có hai từ “Dân chủ” và “Nhân dân”. Ngược lại, ở nhiều quốc gia
mà tính từ “Dân chủ” hay danh từ “Nhân dân” được gán vào quốc hiệu, thì dân chủ
hay bị chà đạp và Nhân dân hay bị coi thường. Nếu đã ngộ ra điều đó, thì chắc
không mấy ai còn cảm thấy tự hào khi thấy hai từ“Dân chủ” và “Nhân dân” xuất hiện
trong quốc hiệu của nước mình.
Có 5 quốc hiệu chứa tính từ “United”, đó là: United
Arab Emirates (Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất), United Kingdom of Great
Britain and Northern Ireland (Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland), United
Mexican States (Liên bang Mexico), United Republic of Tanzania (Cộng hòa Thống
nhất Tanzania) và United States of America (Hợp chúng quốc Hoa Kỳ). Nếu gia nhập
gia đình này, hẳn ta sẽ không phải thấy xấu hổ vì các quốc gia “cùng hội cùng thuyền”.
Lúc đó, quốc hiệu tiếng Anh của ta sẽ là “United Republic of Vietnam”, và quốc
hiệu tiếng Việt sẽ là “Cộng hòa Thống nhất Việt Nam”. Rõ ràng là phương án này
thỏa mãn Tiêu chí 1, vì Đất nước đã thống nhất. Nó thỏa mãn Tiêu chí 2, vì
không gây ảnh hưởng bất lợi cho lợi ích của Dân tộc, của Nhân dân. Nó cũng thỏa
mãn cả Tiêu chí 3, vì nó không chứa yếu tố nào gây phản cảm. Vì vậy, có thể hy
vọng rằng nó sẽ được Nhân dân chấp thuận, tức là thỏa mãn Tiêu chí 4. Có thể
bây giờ một số người không thích quốc hiệu “Cộng hòa Thống nhất Việt Nam”, nhưng
nếu nó được chọn ngay sau khi thống nhất Đất nước vào năm 1976 thì có lẽ đã được
đa số Nhân dân tán thành, và bây giờ cũng không cần phải bàn chuyện thay đổi
tên nước.
Để xét hết mọi trường hợp, cần nhắc tới tính từ
“Co-operative” (Hợp tác) được ghép với danh từ “Republic” (Cộng hòa), đó là trường
hợp của Co-operative Republic of Guyana (Cộng hoà Hợp tác Guyana). Phương án
này cũng tương tự nhưtính từ “United”, nhưng không hay bằng.
Bây giờ ta xét đến các trường hợp quốc hiệu không chứa
danh từ (chỉ thể chế) “Cộng hòa” (Republic) hay “Vương quốc”(Kingdom). Trong số
này, nhóm đông đảo nhất là 25 quốc gia
có quốc hiệu chỉ bao gồm địa danh, không kèm theo danh từ hay tính từ
nào nữa (chiếm 12% của 206 quốc gia được thống kê). Mấy nước tiêu biểu thuộc
nhóm này là Canada,Hungary, Japan (Nhật Bản), Malaysia và Ukraine (Ukraina). Hiển
nhiên, ta cũng có thể chọn phương án đơn giản như vậy, nghĩa là chọn quốc hiệu
“Việt Nam”. Rõ ràng là quốc hiệu này thỏa mãn cả bốn tiêu chí được đề ra ở Phần
1.
Có 14 quốc hiệu chứa danh từ “State” (Nhà nước).
Trong đó, có 3 trường hợp chữ “States” (được dùng ở dạng số nhiều) đi với tính
từ “United” hay “Federated”, để tạo thành nghĩa “Liên bang” hay “Hợp chúng quốc”.
Trong các trường hợp còn lại, chữ “State” (được dùng ở dạng số ít) thể hiện
nghĩa “Nhà nước”, ví dụ như State of Israel (Nhà nước Do Thái), State of Kuwait
(Nhà nước Kuwait) và State of Libya (Nhà nước Libya). Theo cách này, ta có thể
đặt quốc hiệu là“Nhà nước Việt Nam” (State of Vietnam). Tiếc rằng, ở nước ta giới
cầm quyền đã quen với quan niệm cho rằng ĐCSVN đứng trên tất thảy, trên cả Tổ
quốc và Nhân dân, và coi Nhà nước này thuộc về ĐCSVN, là cấp dưới của ĐCSVN.
Cho nên, nếu chọn quốc hiệu – với tư cách là tên của Nước – là “Nhà nước Việt
Nam”, thì họ dễ đồng nghĩa “Nước Việt Nam”với “Nhà nước Việt Nam”, và vì thế
coi “Nước Việt Nam” cũng là của ĐCSVN… Ngộ nhận kiểu ấy sẽ gia tăng mức độ lộng
quyền, chắc chắn không có lợi cho Dân tộc, cho Nhân dân. Nghĩa là phương án này
không phù hợp với Tiêu chí 2.
Có hai quốc hiệu dùng tính từ “Độc lập”
(Independent) phối hợp với danh từ “Nhà nước” (State), đó là “Nhà nước Độc lập
Papua New Guinea” (Independent State of Papua New Guinea) và “Nhà nước Độc lập
Samoa” (Independent State of Samoa). Mặc dù ta đã xác định là không nên đưa
danh từ “Nhà nước” vào quốc hiệu nước nhà, nhưng vẫn nẩy sinh câu hỏi là: Có
nên phối hợp tính từ “Độc lập” (Independent) với danh từ “Cộng hòa” (Republic)
để tạo ra quốc hiệu “Cộng hòa Độc lập Việt Nam” (Independent Republic of
Vietnam) hay không? Câu trả lời là không! Một mặt, việc đưa tính từ “Độc lập”
vào quốc hiệu thể hiện sự tự ti hơn là tự tin. Mặt khác, sự nhún nhường của giới
lãnh đạo trước những hành động lấn át triền miên của nhà cầm quyền Trung Quốc
khiến dư luận hay phải đặt câu hỏi về tính độc lập của Nhà nước Việt Nam. Cho
nên, tính từ “Độc lập” có thể trở thành phản cảm, tức là vi phạm Tiêu chí 3.
Như vậy, ta đã rà xét hết danh sách 206 quốc hiệu
đang được sử dụng và lọc ra được ba phương án cho quốc hiệu nước nhà. Tất
nhiên, có thể dùng cả một số danh từ và tính từ không xuất hiện trong 206 quốc
hiệu đã xét để tạo thêm những phương án mới. Nhưng điều đó là không cần thiết
và cũng không nên, bởi từ nào mà các chính trị gia của 206 nước trên Thế giới
không lựa chọn thì ta cũng không nên dùng. Không nên đem cả quốc hiệu ra làm
thí nghiệm, vì Dân ta đã quá khổ vì các cuộc thí nghiệm rồi.
*
Tóm lại, theo tôi thì quốc hiệu cần thỏa mãn bốn
tiêu chuẩn tối thiểu sau đây:
- Tiêu
chí 1: Quốc hiệu không được chứa đựng những khái niệm trái ngược với thực trạng
của Đất nước.
- Tiêu
chí 2: Quốc hiệu không được gây ảnh hưởng xấu cho lợi ích của Dân tộc, của Nhân
dân, đặc biệt là không được gây cản trở cho quá trình hòa giải và hòa hợp Dân tộc.
- Tiêu
chí 3: Quốc hiệu cần tránh gây phản cảm.
- Tiêu
chí 4: Quốc hiệu cần được Nhân dân chấp thuận.
Khi đã tán thành như vậy, thì hai hệ quả tất yếu là:
- Cần sớm
chia tay với quốc hiệu “Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam“.
- Không
lấy lại các quốc hiệu “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa“, “Việt Nam Cộng hòa“ và “Đại
Việt“.
Dựa trên vốn từ và các cấu trúc ngữ pháp được sử dụng
trong 206 quốc hiệu trên Thế giới, ta chỉ chọn được ba phương án quốc hiệu sau
đây phù hợp với ba tiêu chí đầu và có thể thỏa mãn cả Tiêu chí 4:
- Phương
án 1: Việt Nam (tên tiếng Anh: Vietnam).
- Phương
án 2: Cộng hòa Việt Nam (tên tiếng Anh: Vietnamese Republic).
- Phương
án 3: Cộng hòa Thống nhất Việt Nam (tên tiếng Anh: United Republic of Vietnam).
Phương án 1 chỉ sử dụng địa danh “Việt Nam” làm quốc
hiệu, giống như 25 nước khác (chiếm 12% quốc hiệu trên Thế giới). Phương án này
ngắn gọn, giản dị và dễ được mọi người chấp nhận, vì nó không chứa bất cứ yếu tố
nào khiến người ta phải tranh luận hay phản đối.
Phương án 2 chỉ ghép danh từ “Cộng hòa” (Republic) với
địa danh “Việt Nam” để tạo ra quốc hiệu, giống như 107 nước khác (chiếm 52% quốc
hiệu trên Thế giới). Để tránh ấn tượng cho rằng “Cộng hòa Việt Nam” chỉ là cách
viết ngược của“Việt Nam Cộng hòa“, cần xác định rằng hai quốc hiệu này khác
nhau cả về thứ tự sắp xếp từ và cả về ngữ pháp: Từ“Việt Nam” trong “Cộng hòa Việt
Nam” là tính từ, trong khi từ “Việt Nam” trong “Việt Nam Cộng hòa“ là danh từ.
Do đó, tên tiếng Anh của “Cộng hòa Việt Nam” là “Vietnamese Republic”, trong
khi tên tiếng Anh của “Việt Nam Cộng hòa“ là“Republic of Vietnam“. Cách vận dụng
ngữ pháp như vậy không phải là bất thường, vì trong số 107 quốc hiệu được ghép
bởi danh từ “Cộng hòa” và địa danh, có 13 trường hợp mà địa danh là tính từ (giống
như “Vietnamese”).
Phương án 3 sử dụng tính từ “Thống nhất” để tạo ra một
quốc hiệu có chứa hai danh từ “Cộng hòa” và “Việt Nam”, nhưng không trùng với
hai quốc hiệu đã tồn tại ở hai miền Tổ quốc là “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa“ và
“Việt Nam Cộng hòa“. Tính từ “Thống nhất” không trái ngược với thực trạng, vì nước
ta đã thống nhất. Tiếc rằng, đó mới chỉ là thống nhất theo nghĩa thông thường,
tạm gọi là thống nhất về mặt vật chất, vì non sông tuy đã liền một dải, chịu sự
quản lý của cùng một chính quyền, nhưng lòng người vẫn chia lìa trăm mối. Quốc
hiệu “Cộng hòa Thống nhất Việt Nam” có thể là một lờinhắc nhở, thúc dục mọi người
nỗ lực phấn đấu cho mục tiêu hòa giải và hòa hợp Dân tộc, để sớm thống nhất Tổ
quốc cả về mặt tinh thần.
Vậy thì nên lựa chọn quốc hiệu nào để thay thế quốc
hiệu hiện thời? Mỗi người đều có thể đề xuất và trao đổi ý kiến của mình. Nhưng
quyền quyết định cuối cùng thuộc về tập thể Nhân dân, thông qua biểu quyết dân
chủ, để đảm bảo rằng quốc hiệu thực sự được Nhân dân chấp thuận (Tiêu chí 4).
Khi đã khẳng định rằng Nhà nước này là của Nhân dân, thì không ai, không một
nhóm người nào có quyền đơn phương quyết định thay cho Nhân dân.
Hy vọng rằng những lý lẽ và tư liệu được trình bày
trong bài viết này sẽ có ích cho mọi người trong quá trình tham gia thảo luận
và lựa chọn cho nước nhà một quốc hiệu hợp lý, đáp ứng yêu cầu tối thiểu là: Quốc
hiệu phải hội tụ lòng Dân!
Hà Nội, ngày 05-17/05/2013
H.X.P.
Chú thích
* Phần cuối của
Kiến nghị 72 viết:
“Vì vậy chúng tôi kiến nghị gia hạn thời gian lấy ý
kiến của nhân dân đến hết năm 2013, đồng thời khuyến khích đề xuất các dự thảo
khác để Quốc hội, Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp cùng toàn thể đồng bào tham
khảo, so sánh, thảo luận nhằm xây dựng một bản hiến pháp phù hợp nhất cho quốc
gia.”
Để minh họa cho ý “khuyến khích đề xuất các dự thảo
khác”, Kiến nghị 72 có thêm chú thích như sau:
“Theo tinh thần đó, một số chuyên gia luật ở trong nước
đã soạn một dự thảo hiến pháp được gửi kèm Kiến nghị này như một tài liệu để
tham khảo và thảo luận.”
Nghĩa là Dự thảo Hiến pháp 2013 được gửi kèm “như một
tài liệu để tham khảo và thảo luận”, chứ nó không phải là một bộ phận cấu thành
của Kiến nghị 72.
Nguồn: Blog Hoàng Xuân Phú
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét