GÓC NHÌN GIỚI NGHIÊN CỨU NƯỚC NGOÀI:
Khả năng bành trướng lãnh thổ của Trung Quốc
Khả năng bành trướng lãnh thổ của Trung Quốc
Gần 4 năm trước giới nghiên cứu chuyên sâu về các mối quan hệ
quốc tế ở phương Tây đã có những bài viết và công trình nghiên cứu về những khả
năng và biểu hiện của sự bành trướng lãnh thổ của Trung Quốc dưới góc độ quan hệ
quốc tế hiện đại.
Nguồn bài được ghi lại như sau: Taylor Fravel (2010). “International
Relations Theory and China’s Rise: Assessing China’s Potential for Territorial
Expansion”, International Studies Review, 12, pp. 505–532.
Bài viết được đăng
trên trang mạng Nghiên cứu Quốc tế với đường Link: http://nghiencuuquocte.net/2014/12/01/banh-truong-lanh-tho-trung-quoc/#sthash.78D4RhIX.dpuf
Xin giới thiều một bài viết có cách tiếp cận và trình bày khá cơ bản và khách quan về một vấn đề quốc tế nổi bật ở châu Á đã nêu ở trên.
Vệ Nhi g-th
-----
Khả năng bành trướng lãnh thổ của TQ dưới góc độ lý
thuyết Quan hệ Quốc tế (QHQT)
Biên dịch và Hiệu
đính: Nguyễn Thế Phương
Quá trình trỗi dậy trở thành cường quốc
của Trung Quốc mang tính hòa bình hay bạo lực vẫn luôn là một câu hỏi khiến cho
các học giả lẫn các nhà chính trị phải lưu tâm. Tuy nhiên, trong nghiên cứu
quan hệ quốc tế, những quan điểm lý thuyết cạnh tranh nhau đưa ra những cách lý
giải khác nhau cho câu hỏi quan trọng này. Các học giả nghiên cứu sự trỗi dậy
của Trung Quốc thông qua lăng kính của lý thuyết chuyển giao quyền lực (power
transition theory) hay Chủ nghĩa Hiện thực tấn công (offensive realism) đã dự đoán
về một tương lai đầy xung đột.
Thông qua nhiều biến thể khác nhau của
lý thuyết chuyển giao quyền lực, xung đột dễ dàng xảy ra nhất khi một cường
quốc đang lên, bất mãn với tình trạng hiện hành, tiếp cận gần hơn về mặt quyền
lực với cường quốc thống trị trong một khu vực hay trong toàn bộ hệ thống quốc
tế, và sẵn sàng sự dũng vũ lực để định hình lại các quy chuẩn hay thể chế trong
hệ thống đó (Organski 1958; Organski và Kugler 1980; Gilpin 1981; Modelski
1987; Kugler và Lemke 1996; Thompon 2000; Lemke 2002). Khi lý thuyết chuyển
giao quyền lực được áp dụng với Trung Quốc đương đại, nhiều học giả đã dự đoán
rằng Trung Quốc sẽ trở nên hiếu chiến hơn khi nước này tập trung xây dựng tiềm
lực vật chất (Tammen, Kugler, Lemke, Stam, Abdollahian, Alsharabati, Efird, và
Organski 2000; Efird, Kurgler, và Genna 2003; Rapkin và Thompson 2003, 2006;
Kugler 2006; Tammen và Kurgler 2006; Goldstein 2007).[1]
Tương tự, lý thuyết hiện thực tấn công
cho rằng các quốc gia sẽ theo đuổi chính sách bành trướng một khi chúng mạnh
lên, khi các chính trị gia nhận thấy rằng sức mạnh đã tăng lên một cách tương
đối (Labs 1997; Zakaria 1998; Mearsheimer 2001; Elman 2004). Vì quyền lực được coi
là nguồn gốc tối thượng của an ninh quốc gia trong một thế giới vô chính phủ,
các quốc gia theo đuổi bành trướng để trở thành bá quyền khu vực. Khi áp dụng
Chủ nghĩa Hiện thực tấn công để phân tích Trung Quốc, một dự đoán cũng đã được
đưa ra rằng nước này sẽ thiên về xu hướng tiến hành xung đột quân sự
(Mearsheimer 2001, 2006, 2010).
Ngược lại, những xu hướng nghiên cứu
quan hệ quốc tế khác đã đưa ra những cách nhìn lạc quan hơn về Trung Quốc.
Những học giả này đã nhận thấy tầm quan trọng của các ý định muốn xét lại trật
tự quốc tế hay không (của cường quốc đang lên) trong lý thuyết chuyển giao
quyền lực, và lưu ý rằng một vài quá trình chuyển giao quyền lực mang tính hòa
bình, ví dụ như giữa Hoa Kỳ và Đế quốc Anh vào cuối thế kỷ 19.
Hiện tại, Trung Quốc đang theo đuổi một
chính sách đối ngoại ủng hộ hiện trạng, và không mang xu hướng xét lại
(Johnston 2003; Kang 2007). Thêm vào đó, dựa trên lý thuyết phụ thuộc lẫn nhau
về kinh tế, các học giả đã nhấn mạnh vào các loại chi phí mà Trung Quốc phải
trả nếu tiến hành các chính sách ngoại giao gây hấn, đặc biệt là hủy hoại hàng
thập kỷ cải cách kinh tế với thương mại, đầu tư nước ngoài và công nghệ giảm
sút, và rộng hơn, sự tham gia của Trung Quốc vào một trật tự quốc tế vốn đã góp
phần tạo ra sự trỗi dậy của nước này (Copeland 2000; Moore và Yang 2001;
Scobell 2001; Kang 2007; Ikenberry 2008; Johnston 2008; Kirshner 2008; Zhu
2008). Các hành vi gây hấn không những sẽ gia tăng chi phí, mà còn hầu như chắc
chắn sẽ châm ngòi cho quá trình hình thành một liên minh các quốc gia với mục
tiêu kiềm chế Trung Quốc, làm xói mòn chính sách lớn của Trung Quốc trong việc
tái đảm bảo sự trỗi dậy của mình là hòa bình (Goldstein 2005).
Tuy nhiên, sự tin tưởng vào những dự
đoán xuất phát từ các quan điểm lý thuyết cạnh tranh nhau này phải đối diện với
hai hạn chế lớn. Đầu tiên, mặc dù các lợi ích tiềm tàng là nguyên nhân chính
dẫn tới hành vi gây hấn trong quan điểm của cả lý thuyết chuyển giao quyền lực
và Chủ nghĩa Hiện thực tấn công, mức độ cũng như nguồn gốc của các lợi ích này
đã không được thảo luận một cách chi tiết trong những tác phẩm có liên quan
hiện nay.
Trong lý thuyết chuyển giao quyền lực,
lợi ích căn bản mà cường quốc mới nổi mong muốn là khả năng viết lại các chuẩn
tắc của hệ thống quốc tế. Mặc dù quá trình chuyển giao quyền lực sẽ trở nên bạo
lực khi quốc gia đang nổi trở nên bất mãn với sự phân bổ lợi ích hiện thời,
nhưng lợi ích cụ thể dẫn tới chiến tranh lại chưa được xác định rõ ràng. Những
lợi ích này có thể bao gồm việc kiểm soát một vùng lãnh thổ xác định, kiểm soát
vùng ảnh hưởng, tiếp cận tới các nguồn tài nguyên, hay như đạt được một vị thế
nào đó trong hệ thống.
Với Chủ nghĩa Hiện thức tấn công, lợi
ích của việc thực hiện các hành vi gây hấn chính là an ninh, được định nghĩa
một cách rộng hơn thông qua quá trình tối đa hóa quyền lực. Nếu không xác định
được lý do cụ thể tại sao một quốc gia bất kỳ nào đó cảm thấy bất mãn với trật
tự quốc tế hiện hành, sẽ khó có thể tạo ra tính vững chắc trong lập luận của
các lý thuyết này khi áp dụng chúng trong những trường hợp đặc biệt như sự trỗi
dậy của Trung Quốc.
Thứ hai, lợi ích và chi phí của xung
đột mà các lý thuyết cạnh tranh nhau này nêu lên chưa được đánh giá một cách có
hệ thống. Việc áp dụng lý thuyết chuyển giao quyền lực và Chủ nghĩa Hiện thực
tấn công giải thích sự trỗi dậy của Trung Quốc rất hiếm khi so sánh ích lợi mà
nước này đạt được thông qua xung đột với các chi phí cơ hội và chi phí trực
tiếp mà những hành vi gây hấn như vậy có thể gây ra. Tương tự, các học giả nhấn
mạnh vào tác động của sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế cũng không cân nhắc
những chi phí xung đột mà họ đã nêu ra trong so sánh với các lợi ích tiềm năng.
Nói một cách khác, các dự đoán bi quan về sự trỗi dậy của Trung Quốc ám chỉ
rằng lợi ích của xung đột sẽ vượt trội hơn so với bất cứ chi phí nào có thể có,
trong khi các dự đoán lạc quan thì cho rằng các chi phí sẽ lớn hơn nhiều so với
lợi ích. Tuy nhiên, trong một mô hình đơn giản và chính xác hơn, một quốc gia
sẽ theo đuổi các chính sách xâm lấn chỉ khi lợi ích đạt được vượt trội hơn chi
phí mà nước này có thể phải trả.
Để phân tích được tiềm năng xung đột vũ
trang của Trung Quốc và những thách thức mà nó mang lại cho hệ thống quốc tế,
tôi phân tích một trong những nguyên nhân có thể gây ra xung đột, đó là kiểm
soát lãnh thổ. Tôi phân tích nguyên nhân này mà không phải là các nguyên nhân
khác như thiết lập vùng ảnh hưởng, cạnh tranh vị thế hay tài nguyên là vì ba lý
do.
Thứ nhất, về mặt lịch sử, các quốc gia
chia rẽ nhau vì tranh giành lãnh thổ nhiều hơn hết thảy các nguyên nhân khác (Vasquez
1993).[2]
Với lý do này, rất nhiều lo ngại về sự trỗi dậy của Trung Quốc xoay quanh niềm
năng của nước này trong việc sử dụng vũ lực trong các tranh chấp lãnh thổ
(Friedberg 2005).[3]
Những cường quốc đang nổi trong quá khứ như Hoa Kỳ, Đức, Nhật Bản và Liên Xô
cũng đều theo đuổi việc bành trướng lãnh thổ.
Thứ hai, phân tích xung đột lãnh thổ
đưa ra được một lợi ích mang tính hữu hình, vốn có thể dễ dàng tiếp cận hơn
thông qua phân tích thực nghiệm nếu so sánh với những lợi ích khác mà các cường
quốc đang trỗi dậy theo đuổi.
Lý do thứ ba để tập trung vào xung đột
lãnh thổ chính là việc nó đóng một vai trò quan trọng trong các lý thuyết dự
đoán về một tương lai đầy bạo lực của Trung Quốc. Các nghiên cứu về chuyển giao
quyền lực nhấn mạnh xung đột lãnh thổ như là nguồn gốc của bất mãn và các đánh
giá mang tính tiêu cực về hiện trạng (Lemke 2002). Như Robert Gilpin (1981:106)
đã viết, ví dụ như, “khi quyền lực của quốc gia tăng lên, quốc gia đó sẽ tìm
cách mở rộng phạm vi kiểm soát lãnh thổ của mình.” Tương tự, khi áp dụng lý
thuyết chuyển giao quyền lực với Trung Quốc, các tranh chấp lãnh thổ được nhấn
mạnh như là nguồn gốc của bất mãn và chiến tranh (Tammen et al. 2000; Efird et
al. 2003; Rapkin và Thompson 2003, 2006; Kugler 2006; Tammen và Kugler 2006;
Goldstein 2007). Một Trung Quốc sử dụng vũ lực vì lãnh thổ sẽ gây áp lực lên
Hoa Kỳ, với vai trò như một cường quốc thống trị trong hệ thống, trong việc
chia sẻ và thực thi các chuẩn tắc chống lại sự bành trướng đó, đặc biệt khi
Trung Quốc tấn công một đồng minh của Hoa Kỳ hay một quốc gia dân chủ trong khu
vực.
Cũng giống như vậy, sức hấp dẫn của vị
trí bá quyền khu vực trong Chủ nghĩa Hiện thực tấn công khiến cho xung đột tại
các lãnh thổ tranh chấp nổ ra một khi Trung Quốc mong muốn đạt được địa vị
thống trị. Theo quan điểm của học giả hiện thực tấn công nổi tiếng nhất, John
Mearsheimer (2001:402), “một nước Trung Quốc giàu mạnh sẽ không thể nào là một
cường quốc chấp nhận vị thế hiện tại của mình, mà sẽ là một Trung Quốc kiên
quyết giành được vị trí bá quyền khu vực”.
Tuy nhiên, dựa trên kinh nghiệm, chúng
ta có thể cho rằng việc phân tích về tiềm năng xung đột lãnh thổ của Trung Quốc
là không cần thiết. Rốt cục, các hành vi trong quá khứ của Trung Quốc tại các
tranh chấp lãnh thổ gần đây cho thấy bành trướng lãnh thổ trong tương lai có
thể khó xảy ra. Mặc dù Trung Quốc vướng vào nhiều tranh chấp lãnh thổ hơn bất
cứ các nước nào khác kể từ sau Chiến tranh Thế giới lần thứ hai (23), nước này
đã giải quyết hấu hết các tranh chấp đó thông qua các thỏa thuận song phương,
thông thường là bằng thỏa hiệp chủ quyền trên các vùng đất tranh chấp. Trung
Quốc cũng đã sử dụng vũ lực trong một vài tranh chấp, nhưng nhìn chung nước này
không chiếm đóng hay chinh phục bất cứ một vùng đất nào mà bản thân mình không
kiểm soát trước khi xung đột xảy ra (Fravel 2008a). Những học giả khác cho rằng
Trung Quốc sẽ tránh bành trướng lãnh thổ bởi vì nước Trung Hoa đế quốc tìm kiếm
bá quyền về văn hóa trong khu vực, chứ không phải kiểm soát về mặt địa lý (Kang
2007).
Tuy nhiên, cũng giống như các quỹ tương
hỗ, các hành vi ở quá khứ trong quan hệ quốc tế không phải là đảm bảo cho các
hành vi tương tự trong tương lai. Thật vậy, các nhà hoạch định chính sách và
học giả ở Trung Quốc tiếp tục thể hiện mối quan ngại của mình về tính sẵn sàng
của Trung Quốc trong việc sử dụng vũ lực liên quan tới các vấn đề lãnh thổ, và
tham vọng lãnh thổ của nước này (ví dụ, Chang 2001; Ministry of National
Defense 2009:19; Office of the Secretary of Defense 2010:23; Shirk 2007). Một
Trung Quốc mạnh hơn có thể hành xử khác nhau trong cùng một vấn đề nếu so sánh
với quá khứ. Điều này là đúng do quá khứ thỏa hiệp trong các vấn đề lãnh thổ
của nước này chỉ ra rằng Trung Quốc có thể sẽ ít quan tâm tới bành trướng lãnh
thổ mà thay vào đó ưa thích lựa chọn những cách tiếp cận thay thế khác, đặc
biệt khi các cách tiếp cận này được dự đoán bởi các lý thuyết quan hệ quốc tế
quan trọng như các biến thể của lý thuyết chuyển giao quyền lực hay Chủ nghĩa
Hiện thực tấn công.
Thêm vào đó, các học giả quan hệ quốc
tế nhấn mạnh vào chi phí của xung đột nên đánh giá lại các lý lẽ bi quan một
cách nghiêm túc. Nếu lý thuyết chuyển giao quyền lực hay Chủ nghĩa Hiện thực
tấn công là đúng, việc hiểu rõ xung đột sẽ xảy ra dưới những điều kiện như thế
nào là hết sức cần thiết và, cụ thể hơn, những lợi ích nào thúc đẩy một cách
mạnh mẽ ý định bành trướng lãnh thổ. Nếu những lý thuyết này có ít cơ sở thực
nghiệm và lợi ích của bành trướng lãnh thổ là hạn chế, thì lập luận rằng sự
trỗi dậy của Trung Quốc không dẫn tới xung đột lãnh thổ sẽ trở nên vững chắc
hơn – và được củng cố bởi một cơ sở thực nghiệm hoàn chỉnh hơn.
Phần còn lại của bài viết này sẽ phân
tích những lợi ích mong đợi của Trung Quốc trong tranh chấp lãnh thổ và bành
trướng lãnh thổ. Tôi định nghĩa bành trướng lãnh thổ ở đây là đe dọa hay sử
dụng vũ lực để chiếm một phần hay toàn bộ lãnh thổ của một quốc gia khác.[4]
Đối với Trung Quốc, bành trướng lãnh thổ sẽ bao gồm đưa ra các tuyên bố lãnh
thổ mới và sử dụng vũ lực để theo đuổi các tuyên bố này cũng như tại các tranh
chấp lãnh thổ hiện có. Như đã thể hiện trong Bảng 1, Trung Quốc hiện tại vẫn
tham gia vào sáu tranh chấp lãnh thổ cũng như xung đột có liên quan tới chủ
quyền biển ở Hoàng Hải, biển Hoa Đông và biển Đông. Tôi đã sử dụng cách tiếp
cận không chính thức phân tích lợi ích kỳ vọng, nhằm làm rõ những lợi ích mà
Trung Quốc và các lãnh đạo của nước này có thể đạt được thông qua bành trướng
lãnh thổ và khả năng Trung Quốc sẽ đạt được những lợi ích đó bằng lực lượng
quân sự.[5]
Khung thời gian mà tôi sử dụng cho các phân tích của mình là trong hai thập kỷ
tiếp theo, khoảng thời gian hợp lý để giả định rằng Trung Quốc sẽ tiếp tục là
một cường quốc đang trỗi dậy một cách tương đối ở khu vực nếu so sánh với các
cường quốc khác, và là khoảng thời gian khi Trung Quốc sẽ tiệm cận gần hơn với
Mỹ – cường quốc thống trị trong hệ thống quốc tế – xét trên tổng sản phẩm quốc
nội (GDP).[6]
Việc Trung Quốc sẽ hành xử như thế nào nếu nước này trở thành quốc gia thống
trị hay bá chủ ở khu vực Đông Á nằm ngoài phạm vi của bài viết này.
Trong kỷ nguyên toàn cầu hóa mới,
nghiên cứu về khả năng bành trướng lãnh thổ của Trung Quốc có thể bị xem là lỗi
thời, thậm chí không phù hợp. Ví dụ, các học giả đã nhấn mạnh về quá trình thay
đổi từ một “quốc gia chiến lược” (strategic state) sang một “quốc gia thương
mại” (trading state) và sự suy giảm một cách rõ nét tầm quan trọng của lãnh thổ
như là một thành tố của quyền lực và sự thịnh vượng của quốc gia (Rosecrance
1986), những thay đổi vốn làm suy giảm những lợi ích tiềm năng của việc bành
trướng lãnh thổ đối với tất cả các quốc gia, bao gồm cả Trung Quốc. Quá trình
toàn cầu hóa chuỗi cung ứng đã tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau về mặt sản xuất,
trong khi sự phát triển của thị trường đã tạo ra một nền hòa bình tư bản trong
đó vốn con người và công nghệ, chứ không phải đất đai, là những nhân tố quyết
định tới thịnh vượng của một quốc gia (Brooks 2005; Gartzke 2007).[7]
Quá trình quốc tế hóa hệ thống tài chính tạo ra thêm các rào cản nhắm vào việc
cung cấp tài chính để tiến hành chiến tranh ở quy mô lớn (Kirshner 2007). Tuy
nhiên, các học giả khác đã lập luận một cách thuyết phục rằng các cuộc chinh
phạt có thể được chi trả theo một nghĩa hẹp hơn, bởi vì các quốc gia có thể
khai thác hiệu quả xã hội công nghiệp (Liberman 1996) và một vài nguồn lực đã
được tích lũy (Van Evera 2009).[8]
Thêm vào đó, sự trỗi dậy của Trung Quốc báo hiệu sự quay trở lại của quá trình
phân chia quyền lực mang tính đa cực và một dạng thức cạnh tranh chính trị nước
lớn vốn đã không xuất hiện từ hơn nửa thế kỷ qua, các lợi ích tiềm năng của
việc xâm chiếm lãnh thổ cần được nghiên cứu kỹ càng hơn.
Trước khi tiếp tục, một số lưu ý cần
phải được làm rõ.
Thứ nhất, phân tích dưới đây chỉ xem
xét một trong số rất nhiều nguồn gốc tiềm năng của xung đột có liên quan tới
Trung Quốc, cụ thể là xung đột liên quan tới lãnh thổ. Các kết quả rút ra từ
bài phân tích này không thể được khái quát hóa vượt quá phạm vi của xung đột
lãnh thổ. Nghiên cứu trong tương lai nên tìm hiểu các nguồn gốc gây xung đột
tiềm tàng khác có liên quan tới Trung Quốc, ví dụ như vùng ảnh hưởng, vị thế và
uy tín quốc gia, tranh chấp tài nguyên, hay những bất đồng căn bản về các quy
tắc vận hành của hệ thống quốc tế.
Thứ hai, tôi chỉ tìm hiểu vấn đề lợi
ích lãnh thổ của Trung Quốc sẽ thay đổi như thế nào trong tương lai với việc
Trung Quốc là một cường quốc đang trỗi dậy. Và như vậy, tôi không nghiên cứu
bản chất các mối tương tác của xung đột lãnh thổ hay khả năng mà Trung Quốc,
giống như trong lịch sử của mình, sử dụng vũ lực để đáp trả hành động của các
quốc gia đối địch liên quan tới một tranh chấp lãnh thổ cụ thể (Fravel 2007-08,
2008a). Thay vào đó bài viết này sẽ cố gắng tách rời ảnh hưởng của việc thay
đổi lợi ích quốc gia lên ích lợi thực tế mà Trung Quốc có thể đạt được thông
qua xung đột lãnh thổ, đặc biệt nếu xét tới khoảng cách chênh lệch sức mạnh
quân sự ngày càng tăng giữa Trung Quốc và các nước láng giềng của mình.
Thứ ba, tôi không nghiên cứu các nguyên
nhân mà qua đó Trung Quốc có thể sử dụng vũ lực trong cuộc tranh chấp lãnh thổ
quan trọng nhất của mình với Đài Loan. Mặc dù quan trọng, phân tích về tranh
chấp đối với Đài Loan sẽ có ít tác dụng trong việc tìm hiểu tham vọng lãnh thổ
của Trung Quốc ở những nơi khác. Xung đột với Đài Loan là độc nhất bởi nguồn
gốc xung đột xuất phát từ cuộc nội chiến tại Trung Quốc và những nỗ lực của đại
lục nhằm theo đuổi thống nhất quốc gia từ năm 1949. Không một tranh chấp hiện
tại nào khác của Trung Quốc, hoặc các tranh chấp tiềm năng có liên quan tới các
quốc gia láng giềng, là tương đồng với tranh chấp Đài Loan nếu so sánh với các
đặc điểm trên.
Quả thực, xung đột với Đài Loan là xung
đột duy nhất được đưa vào Hiến pháp của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (PRC),
kết nối phần nào tính chính danh của Đảng Cộng sản Trung Quốc (CCP) với số phận
của xung đột này.[9]
Thêm vào đó, những nhân tố chính quyết định tới khả năng sẵn sàng sử dụng vũ
lực của Trung Quốc dựa trên đánh giá của nước này về viễn cảnh thống nhất trong
tương lai cũng như mối quan hệ hai bờ eo biển, chứ không phải là những lợi ích
mới mà Trung Quốc có thể đạt được nếu như nước này tập trung phát triển sức
mạnh cứng, vốn sẽ được tập trung đề cập trong bài viết này. Các học giả chuyên
nghiên cứu về quan hệ quốc tế của Trung Quốc đã tập trung phân tích sâu xung
lực của tranh chấp và các viễn cảnh mà trong đó vũ lực được sử dụng, vốn chắc
chắn không thể không cân nhắc bất chấp sự ấm lên trong quan hệ giữa hai bờ eo
biển sau khi Mã Anh Cửu được bầu làm người đứng đầu Đài Loan vào năm 2008 (ví
dụ, Ross 2000, 2002; Christensen 2002, 2006; Wachman 2007; Fravel 2008a;
Kastner 2009). Tuy nhiên, mặc dù việc loại bỏ Đài Loan trong quá trình phân
tích sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới tính toàn diện của nghiên cứu liên quan tới
tiềm năng xung đột của Trung Quốc trong tranh chấp lãnh thổ, nó cho phép đưa ra
những cân nhắc chi tiết hơn về những nguồn gốc khả dĩ khác liên quan tới tranh
chấp lãnh thổ trong những thập kỷ tiếp theo vốn không nhận được nhiều sự chú ý
trong hiện tại.
Trong hai thập kỷ tiếp theo, xung đột
lãnh thổ đối với Trung Quốc sẽ không mang lại nhiều lợi ích. Chắc chắn rằng chi
phí cho việc bành trướng lãnh thổ sẽ rất lớn. Tuy nhiên, quan trọng hơn, lợi
ích tiềm năng của bành trướng lãnh thổ – không tính tới Đài Loan – không lớn
như những gì mà thuyết chuyển giao quyền lực hay Chủ nghĩa Hiện thực tấn công
đã dự đoán. Khả năng của Trung Quốc trong việc chiếm giữ và kiểm soát lãnh thổ
từ các quốc gia khác vẫn còn hạn chế, chủ yếu là do những khó khăn trong khả
năng vận tải chiến lược thông qua triển khai và duy trì quân đội bên ngoài biên
giới quốc gia. Mặc dù bài viết này đưa ra thái độ lạc quan hơn về tiềm năng của
một Trung Quốc đang trỗi dậy đối với vấn đề xung đột vũ trang, nhưng một thái
độ như vậy chỉ được đưa ra bằng những nhận xét và đánh giá toàn diện về lợi ích
mà Trung Quốc có thể đạt được thông qua bành trướng lãnh thổ, và việc so sánh
các lợi ích đó với những chi phí quá lớn mà các học giả khác đã đưa ra. Mặc cho
những mối bất an về một Trung Quốc đang trỗi dậy, một trong những con đường
truyền thống có thể dẫn tới chiến tranh dường như khó xảy ra.
Các lập luận của tôi sẽ được trình bày
sau đây. Phần tiếp theo sẽ mô tả một cách ngắn gọn một số chi phí nhất định mà
Trung Quốc sẽ phải gánh chịu khi theo đuổi bành trướng. Tiếp theo, bài viết sẽ
nghiên cứu những lợi ích tiềm năng của quá trình này. Bài phân tích này sẽ bắt
đầu bằng một nghiên cứu chi tiết về lợi ích của quá trình bành trướng lãnh thổ
xuất phát từ nhiều lý thuyết khác nhau. Bài viết sau đó sẽ xem xét xu hướng
hiện đại hóa quân đội của Trung Quốc và khả năng Trung Quốc có thể tận dụng
được những lợi ích này thông qua việc sử dụng vũ lực. Bài viết kết thúc bằng
việc thảo luận những gợi ý chính sách có liên quan tới quá trình trỗi dậy của
Trung Quốc thông qua các phân tích đã được đưa ra.
Những chi phí chắc
chắn của bành trướng lãnh thổ
Chắc chắn rằng bành trướng lãnh thổ sẽ
là một cố gắng đầy tốn kém nếu như Trung Quốc muốn theo đuổi chính sách này.
Trong nghiên cứu quan hệ quốc tế, các lý thuyết khác nhau nêu lên những chi phí
khác nhau mà Trung Quốc sẽ phải bỏ ra nếu theo đuổi bành trướng. Thêm vào đó,
những chi phí này chắc chắn sẽ rất cao, và sẽ tạo ra lý do để Trung Quốc không
sử dụng cách tiếp cận này và theo đuổi lợi ích thông qua những phương pháp
khác. Trong phân tích dưới đây, tôi giả định rằng Trung Quốc vẫn sẽ tiếp tục
thực hiện chiến lược tổng thể tái cam kết của nước này, vốn là chìa khóa trong
việc tham gia vào trật tự quốc tế hiện hữu và ngăn chặn việc hình thành những
liên minh đối lập có khả năng ngăn cản và hạn chế quá trình phát triển kinh tế
của Trung Quốc.
Những chi phí chính trị
và ngoại giao
Trong quan hệ quốc tế, một số lý thuyết
đã nhấn mạnh những chi phí chính trị và ngoại giao mà các quốc gia phải gánh
chịu nếu theo đuổi bành trướng. Nếu xem xét tới tính chất dễ dự đoán của Trung
Quốc, thì chi phí ngoại giao đầu tiên của bành trướng chính là tạo ra một dạng
cường quốc mới nổi hung hăng “kiểu Trung Quốc”. Dấu hiệu này sẽ đặc biệt mạnh
mẽ vì nó đánh dấu sự thay đổi từ cách hành xử hợp tác và thỏa hiệp trong quá
khứ của Trung Quốc đối với các tranh chấp lãnh thổ. Trong quá trình giải quyết
các tranh chấp lãnh thổ trên đất liền, Trung Quốc đã không chỉ đồng ý nhượng bộ
tại các khu vực tranh chấp, mà còn từ bỏ những tuyên bố cho rằng nước này sẽ
thu hồi lại các vùng lãnh thổ đã mất do nhà Thanh trước đây nhượng cho các nước
xung quanh vào thế kỷ 19. Ví dụ vào những năm 1990, Trung Quốc đã nhượng bộ 11
lần trong các tranh chấp lãnh thổ với các nước láng giềng, ví dụ như Hiệp định
biên giới năm 1994 với Kazakhstan (Fravel 2005, 2008a). Trung Quốc do vậy tái
đảm bảo với các nước láng giềng nhỏ hơn về tham vọng lãnh thổ tương lai của
mình bằng cách cam kết tuân thủ các hiệp định và hiệp ước song phương vốn không
bao gồm các lãnh thổ trước đây của nhà Thanh. Việc loại bỏ các hiệp định này sẽ
đưa ra một thông điệp hết sức rõ ràng về tham vọng lãnh thổ.
Một thông điệp mang tính khiêu khích
liên quan tới bành trướng lãnh thổ sẽ trở nên tốn kém theo hai cách. Thứ nhất,
thông điệp đó sẽ tạo ra quan ngại trong khu vực về những toan tính của Trung
Quốc nói chung và những chi phí tiềm tàng trong tương lai khi đối đầu với Trung
Quốc. Nếu như một trong những mục tiêu đại chiến lược của Trung Quốc trong hiện
tại là ngăn chặn Hoa Kỳ thông qua tăng cường quan hệ với các chủ thể ở khu vực,
thì việc vi phạm dù chỉ một hiệp định lãnh thổ, chứ chưa nói tới việc đưa ra
những tuyên bố lãnh thổ mới, sẽ tạo cơ hội cho Hoa Kỳ tăng cường quan hệ với
các nước nhỏ hơn. Thứ hai, tiến hành bành trướng lãnh thổ chống lại một quốc
gia nào đó sẽ gia tăng khả năng các chủ thể khu vực phối hợp với nhau nhằm hạn
chế quyền lực của Trung Quốc và ngăn chặn những khiêu khích trong tương lai. Vì
vậy, một trong những chi phí chủ đạo của hành vi bành trướng chính là tạo ra
một loại phản ứng mà đại chiến lược hiện tại của Trung Quốc mong muốn né tránh:
một liên minh đối đầu. Chi phí này hạn chế rất lớn việc sử dụng vũ lực tại các
tranh chấp đang diễn ra, chưa kể tới các tuyên bố lãnh thổ mới.
Chi phí ngoại giao thứ hai liên quan
tới bành trướng xuất phát từ sự phát triển và củng cố của “quy chuẩn chống xâm
lược” vốn thúc đẩy quá trình tạo nên các liên minh để trừng phạt các quốc gia
vi phạm quy chuẩn này. Theo Tanisha Fazal (2007), quy chuẩn này xuất hiện vào
những năm 1920 và được củng cố trong suốt thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Mark Zacher
(2001) đã xác định một quy chuẩn tương tự gọi là “nguyên tắc toàn vẹn lãnh
thổ.” Trong điều kiện các yếu tố khác không thay đổi, sự tồn tại của một quy
chuẩn như vậy gia tăng khả năng vốn đã rất cao rằng cộng đồng quốc tế sẽ hành
động để trừng phạt những quốc gia vi phạm các nguyên tắc kể trên, đặc biệt là
những nước lớn (Hironaka 2005). Mặc dù tồn tại xu hướng đùn đẩy trách nhiệm cho
nước khác (buck-passing), nhưng những quy chuẩn này góp phần tạo ra một điểm
tập trung quan trọng cho các quốc gia trong việc tập hợp phản ứng của họ chống
lại hành vi xâm lấn lãnh thổ, bằng chứng là phản ứng nhanh chóng của cộng đồng
quốc tế trước việc Iraq chiếm đóng Kuwait vào năm 1990. Với việc đại chiến lược
của Trung Quốc mong muốn ngăn chặn sự hình thành của những liên minh nhằm vào
Trung Quốc, sự tồn tại của các nguyên tắc này sẽ gia tăng chi phí liên quan tới
bành trướng lãnh thổ, đặc biệt nếu xét tới mối đe dọa mà các liên minh như vậy
có thể tạo ra cho tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc.
Các chi phí về kinh
tế
Những tác phẩm viết về sự phụ thuộc lẫn
nhau về kinh tế đã đưa ra những chi phí khác mà Trung Quốc sẽ phải đối mặt nếu
bành trướng lãnh thổ. Mặc dù những tác phẩm này quá rộng để có thể tiến hành
tóm tắt một cách ngắn gọn, cốt lõi chính là nhận định cho rằng phụ thuộc lẫn
nhau sẽ gia tăng chi phí cơ hội của xung đột vũ trang và vì vậy tạo ra hành vi
kiềm chế và hòa bình giữa các quốc gia. Mặc dù các học giả vẫn đang tiếp tục
tìm hiểu những cơ chế thông thường vốn có khả năng kết nối sự phụ thuộc lẫn
nhau với hòa bình thì một sự phụ thuộc lớn hơn, trong khi các yếu tố khác không
thay đổi, sẽ gia tăng chi phí của xung đột quân sự, đặc biệt là của quá trình
bành trướng (McMillian 1997; Gartzke, Li, and Boehmer 2001; Russett and Oneal
2001; Gartzke and Li 2003; Mansfield and Pollins 2003).
Trung Quốc đã hưởng lợi cực kỳ lớn từ
quá trình tham dự của nước này vào trật tự kinh tế toàn cầu hiện tại. Trung
Quốc thực sự đã phát triển thông qua việc tham gia sâu rộng hơn vào các thể
kinh tế chứ không phải là chống lại chúng (Ikenberry 2008). Cho tới thời điểm
hiện nay, sự phát triển kinh tế của Trung Quốc đã được thúc đẩy bởi một nền
kinh tế mở cửa tương đối với thương mại và đầu tư nước ngoài. Ngược lại, Trung
Quốc đã trở nên ngày càng phụ thuộc lớn vào độ mở như thế của nền kinh tế để có
thể duy trì được tốc độ tăng trưởng ở mức cao. Tính mở của nền kinh tế Trung
Quốc cho thấy chi phí hữu hình của ý định bành trướng, vốn có thể khiến nền
kinh tế tăng trưởng chậm lại, sẽ là rất lớn (Moore and Yang 2001; Chambers
2006; Moore 2008).
Lấy ví dụ, thương mại chiếm 65% tổng
GDP của Trung Quốc vào năm 2008 và vượt 70% GDP trước khủng hoàng tài chính
toàn cầu (World Bank 2010). Tiếp theo, tới năm 2006, các công ty đầu tư nước
ngoài chiếm gần một nửa tổng xuất khẩu của Trung Quốc. Trong một vài lĩnh vực,
ví dụ như các sản phẩm công nghệ cao, con số này lên tới 88%. Trong cùng thời
gian đó, Trung Quốc có độ mở đối với đầu tư nước ngoài lớn hơn tất cả các nền
kinh tế đang phát triển khác. Trong vòng 10 năm qua, đa số các dự án đầu tư
được cấp phép đều đến từ các công ty 100% vốn nước ngoài, các khoản đầu tư này
có thể bị suy giảm hay bị rút khỏi Trung Quốc nếu như nước này theo đuổi các
chính sách bành trướng hay bất cứ một dạng chính sách gây hấn nào khác ở nước
ngoài (Naughton 2007:388-412). Do các lãnh đạo hàng đầu Trung Quốc hiện nay có
xu hướng thể hiện mình như là những nhà lãnh đạo theo chủ nghĩa quốc tế, họ sẽ
rất nhạy cảm với những chi phí như vậy (Papayoanou and Kastner 1999).
Quan trọng hơn, các nguồn thông tin
chính thống của Trung Quốc đều nhận thấy các chi phí tiềm tàng mà quá trình phụ
thuộc lẫn nhau về kinh tế tạo ra. Vào đầu những năm 2000, giới tinh hoa chính
trị Trung Quốc đã bắt đầu định hình chính sách đối ngoại xung quanh khái niệm
“trỗi dậy hòa bình” (Zheng 2005a). Mặc dù tên gọi đã được đổi thành “phát triển
hòa bình”, nhưng khái niệm này đã thể hiện được nhận thức rõ ràng về các chi
phí kinh tế mà Trung Quốc sẽ phải trả nếu như tiếp tục theo đuổi chính sách đối
ngoại đối đầu và mang tính gây hấn, về tác động tiêu cực của các chính sách đó
đến sự phát triển kinh tế của Trung Quốc cũng như tính chính danh của đảng cầm
quyền (Glaser and Medeiros 2007). Khái niệm này cũng đã thể hiện được nhận thức
của người Trung Quốc về lợi ích mà đất nước nhận được khi tham gia vào trật tự
quốc tế hiện tại. Đây được coi là một chiến lược, được tạo nên nhằm thể hiện
hình ảnh một nước Trung Quốc ôn hòa và không mang tính đe dọa tới các quốc gia
khác, tái đảm bảo với các quốc gia khác về khả năng phát triển của Trung Quốc.
Thậm chí các bài viết của quân đội
Trung Quốc cũng nhận thức được chi phí ngày càng gia tăng của xung đột mà sự
phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế tạo ra. Vào năm 2001, Học viện Khoa học Quân sự,
một tổ chức nghiên cứu quan trọng trực thuộc Quân ủy Trung ương của Đảng Cộng
sản Trung Quốc, đã phát hành cuốn sách với tựa đề Zhanlue Xue [Khoa
học Chiến lược quân sự] (Peng and Yao 2001). Trong cuốn sách này, các chiến
lược gia quân sự đã đưa ra hai tác động quan trọng của sự phụ thuộc lẫn nhau về
kinh tế. Thứ nhất là sự cần thiết của việc chỉ nên theo đuổi những mục tiêu
giới hạn trong chiến tranh, chứ không phải những mục tiêu rộng hơn vốn có thể
liên quan tới bành trướng lãnh thổ. Thứ hai là sự cần thiết của các cuộc chiến
tranh ngắn ngày nhằm giới hạn những chi phí kinh tế đã được mô tả ở đoạn trước.
Những tuyên bố như vậy chỉ mang tính chất khuyến nghị, nhưng chúng cũng là
những chỉ dấu cho thấy trong nội bộ Quân đội Trung Quốc cũng đã xuất hiện nhận
thức về những chi phí của bành trướng. Hơn nữa, do độc giả của cuốn sách này
chủ yếu đến từ bên trong nội bộ giới lãnh đạo chính trị và quân sự, những chỉ
dấu như trên ít có khả năng phản ánh một chiến lược đơn thuần với mục tiêu trấn
an các quốc gia khác về sự trỗi dậy của sức mạnh quân sự Trung Quốc.
Chi phí kinh tế cuối cùng sẽ là chi phí
được sử dụng để chiếm đóng phần lãnh thổ giành được vốn cần thiết để thu hoạch
các lợi ích từ việc bành trướng. Mặc dù Liberman (1996) cho rằng việc chinh
phục các xã hội công nghiệp hóa có thể “có lợi” về kinh tế nếu hiểu theo nghĩa
hẹp, nhưng vẫn không rõ lập luận này có chính xác hay không nếu áp dụng với các
xã hội bán công nghiệp ở xung quanh khu vực ngoại vi của Trung Quốc, khi mà dân
số phân tán và cơ sở hạ tầng yếu kém sẽ làm gia tăng chi phí giám sát và bóc
lột. Một cách rõ ràng hơn, sự khó khăn của Trung Quốc trong việc kiểm soát các khu
vực dân tộc thiểu số của chính quốc gia này như tại Tân Cương hay Tây Tạng đã
cho thấy những chi phí mà Trung Quốc sẽ phải trả nếu như muốn mở rộng phạm vi
lãnh thổ ở các khu vực mà người Hán không chiếm đa số (Fravel 2008a).
Những lợi ích không
chắc chắn của bành trướng
Dĩ nhiên, thậm chí nếu chi phí của bành
trướng quá cao, các quốc gia vẫn sẽ tiến hành tham vọng này một khi lợi ích thu
lại được là đủ lớn. Tai sao các quốc gia lại muốn bành trướng? Trong các nghiên
cứu về quan hệ quốc tế, các lý thuyết và các chương trình nghiên cứu khác nhau
đưa ra những cách trả lời khác nhau cho câu hỏi này thông qua việc xác định
những lợi ích khác nhau mà một quốc gia có thể nhận được thông qua bành trướng
lãnh thổ.[10]
Một số lập luận nhấn mạnh vào những lợi ích vốn giúp quốc gia có thể tăng cường
vị trí quyền lực tương đối của mình trong hệ thống quốc tế. Các lập luận khác
chỉ ra những lợi ích giúp củng cố quyền lực của các nhà lãnh đạo chính trị
trong nước hay khả năng kiểm soát của một chế độ đối với xã hội mà mình đang
cai trị. Tương tự, một số lý thuyết là độc nhất vô nhị khi đề cập tới động cơ
mà các cường quốc đang nổi phải đối mặt, trong khi một số khác lại đưa ra nguồn
gốc tổng thể của xung đột bất chấp vị trí của một quốc gia thay đổi như thế nào
trong hệ thống quốc tế.[11]
Tuy nhiên, tựu chung lại, các lý thuyết và lập luận phong phú kể trên cho thấy
lợi ích mà Trung Quốc có thể đạt được qua bành trướng là hạn chế, và qua đó cho
thấy khả năng nước này tiến hành bành trướng là không cao.
Nguồn gốc mang tính
hệ thống của bành trướng
Một nhóm các lập luận nghiên cứu những
nguồn gốc của hành vi bành trướng xuất phát từ tính chất vô chính phủ của hệ
thống quốc tế, vốn tạo ra động cơ để các quốc gia có thể tối đa hóa quyền lực
tương đối của mình. Những lập luận này gắn liền với các lý thuyết thể chế ví dụ
như Chủ nghĩa Hiện thực mới (Waltz 1979) hay Chủ nghĩa Hiện thực tấn công
(Mearsheimer 2001). Những nguồn gốc mang tính hệ thống của bành trướng bao gồm
áp lực biên (lateral pressure), áp lực dân số (population pressure), và các
xung lực của tình trạng lưỡng nan an ninh.
Áp lực biên
Áp lực về dân số
Thế lưỡng nan về an
ninh
Những nguyên nhân
trong nước của bành trướng
Chủ nghĩa dân tộc
Đánh lạc hướng
Tạo lập các liên minh
lợi ích cục bộ
Chủ nghĩa quân phiệt
Những phương thức
bành trướng hạn chế
Cường quốc lục địa
Cường quốc biển
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Download phần còn lại
của văn bản tại đây: Kha nang banh truong lanh tho cua TQ duoi
goc do ly thuyet QHQT.pdf
———————–
[1] Chan (2008) và Levy (2008) cũng áp dụng lý thuyết chuyển
giao quyền lực với Trung Quốc, nhưng đưa ra các kết luận ít bi quan hơn. Bài
viết này đã bổ sung thêm các ý kiến hoài nghi của Chan và Levy, nhưng tập trung
vào nêu rõ các lợi ích có thể đạt được thông qua các hành vi gây hấn.
[2] Về xung lực của các tranh chấp lãnh thổ, xem Hensel (2001),
Huth (1996), và Huth và Allee (2002)
[3] Về các tuyên bố trước đó trong cùng một vấn đề, xem Betts
(1993), Friedberg (1993-94), và Roy (1994)
[4] Trong trường hợp này, tôi sử dụng các khái niệm “bành
trướng” (lãnh thổ) – expansion và “xung đột lãnh thổ” – territorial conflict –
thay thế cho nhau.
[5] Với cách tiếp phân tích lợi ích mong muốn chính thức, xem
Bueno de Mesquita (1989: 143-169). Một cách logic, ta có thể chỉ ra rằng bành
trướng lãnh thổ sẽ không mang lại lợi ích gì nếu chứng minh được rằng sẽ không
có bất cứ một ích lợi gì nếu bành trướng lãnh thổ hay, nếu có lợi ích, thì một
quốc gia không sở hữu bất kỳ khả năng nào để chiếm giữ thông qua lực lượng quân
sự. Trong bài viết này, tôi sẽ phân tích cả hai khía cạnh trên.
[6] Keidel (2008) kết luận rằng Trung Quốc sẽ không thể đuổi
kịp Mỹ về mặt kinh tế trong vài thập kỷ tới
[7] Brooks (1999) cũng đã lập luận rằng chuỗi cung ứng được
toàn cầu hóa sẽ hạn chế sự phát triển của các ngành công nghiệp quốc
phòng quốc gia độc lập.
[8] Cụ thể hơn, Liberman lập luận rằng các cuộc chinh phạt tạo
ra lợi ích thông qua một phương thức hạn chế hơn, rằng tài nguyên thu lại được
thông qua chinh phạt lớn hơn rất nhiều so với lượng tài nguyên cần dùng để
chiếm giữ. Liberman không đưa ra lập luận rằng các cuộc chinh phạt về mặt tổng
thể sẽ tạo ra lợi ích nhiều hơn khi cân đo đong đếm với những chi phí khác, ví
dụ như chi phí chiến tranh để giành lấy vùng lãnh thổ nào đó, các lệnh cấm vận
và các chi phí khác mà các quốc gia khác có thể đưa ra nhằm phản ứng lại việc
xâm lấn đó, hay khả năng sử dụng nguồn nhân lực dành cho hành vi chinh phục.
Như Liberman đã chỉ ra, “Chinh phạt thông thường sẽ không tạo ra nhiều lợi ích
trong một tính toán rộng lớn hơn” (1996:x). Tôi sẽ đưa ra những lập luận ủng hộ
xa hơn cho kết luận này.
[9] Dựa trên lời mở đầu của bản Hiến pháp năm 1982, “Đài Loan
là một phần lãnh thổ thiêng liêng của Trung Quốc, nhiệm vụ cao cả của toàn bộ
người dân Trung Quốc, và cả những đồng bào ở Đài Loan, là hoàn thành được nhiệm
vụ vĩ đại thống nhất tổ quốc.”
[10] Để làm rõ hơn, tôi sẽ không đưa ra một lý thuyết chung liên
quan tới bành trướng lãnh thổ. Thay vào đó, tôi xem xét tính liên quan cũng như
khả năng áp dụng của các lý thuyết và lập luận mà các học giả đã phát triển
nhằm giải thích hành vi bành trướng lãnh thổ đẻ có thể xem xét lý thuyết hay
lập luận nào có thể làm sáng tỏ các hành vi trong tương lai của Trung Quốc. Một
cách khá tự nhiên, không phải tất cả các lý thuyết đều phù hợp với nhau, tuy
nhiên sự phát triển của một lý thuyết thống nhất liên quan đến bành trướng có
khả năng điều hòa những khác biệt trên nằm ngoài phạm vi của bài viết này.
[11] Tôi không xem xét tới các công cụ khác ngoài bành trướng
lãnh thổ như thị trường vốn có thể được sử dụng để đạt được những lợi ích tương
tự. Thay vào đó, mục tiêu của tôi đơn giản là xem xét lợi ích nào có thể tồn
tại nếu bành trướng và chinh phục là những công cụ được sử dụng.
- See more at:
http://nghiencuuquocte.net/2014/12/01/banh-truong-lanh-tho-trung-quoc/#sthash.xuYcK76C.dpuf
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét