Tiến sĩ Đinh Hoàng Thắng vừa có chuyến sang Nhật tham dự Hội thảo tháng 9 trước. Anh có viết và đăng bài dưới đây trên báo Văn Nghệ ngày 17/10/2015 với đầu đề "Một cách tiếp cận mới về thách thức trên Biển Đông".
Mới đây tác giả chuyển cho chủ blog tôi bài viết trên cùng với các tấm ảnh về Hội thảo mà anh nói rằng vì "lý do kỹ thuật" các báo khác họ không đăng được nên gợi ý cho tôi nếu đăng lại bài thì đăng những tấm ảnh này với lời chú thích mà anh chuyển cùng bài cho blog tôi.
Xin mời bà con, bạn bè của trang Nguyễn Vĩnh blog cùng chia sẻ bài & ảnh trước nhiệt tình của tác giả...
Vệ Nhi g-th
---- .
Thách thức mới ở Biển Đông, qua kỳ hội thảo
“Mùa Xuân sang có hoa Anh Đào,
Màu hoa tôi trót yêu từ lâu…”
Đinh Hoàng Thắng (Tokyo—Hà Nội, Thu 2015)
Chuyến bay VN0384 chở chúng tôi đáp xuống phi trường
Haneda, Tokyo chính xác từng phút như ghi trong lịch trình. Trên đường về Khách
sạn, người của Ban Tổ chức tranh thủ thông báo chi tiết hơn về Hội thảo kỳ này
(so với kế hoạch đã gửi qua mail). Vẫn biết từ trước là Hội thảo 2 ngày, nhưng
2 ngày mà đến 6 buổi thì thật đúng là một “phong
cách rất Nhật Bản”. Quá nghiêm cẩn, quá chỉnh chu và chương trình làm việc
như vậy là cũng khá độ sộ! “Mưa rả rích mấy ngày nay, anh ạ…” Onuki Kamu nói tiếng
Việt giọng nửa Nam nửa Bắc. “Tiếc là không được đón các anh vào mùa Anh Đào, phải
chờ đến tháng Tư cơ, hy vọng các anh sẽ có dịp quay lại đúng vào kỳ hoa nở”. Thật
thú vị khi bí mật đầu tiên được khai mở. Hóa ra bài ca trữ tình năm nào lại đến
từ một tác giả Việt. Cứ ngỡ là của người Nhật. “Mùa Xuân sang có hoa Anh Đào, Màu
hoa tôi trót yêu từ lâu…”. Mấy ai biết, đằng sau bản tình ca anh hát bằng cả lời
Nhật là một “núi Phú Sỹ” về những vấn đề liên quan đến Biển Đông và quan hệ Việt-Nhật
trong những ngày tới.
Ảnh trên (từ phải sang trái): Giảng viên Odoka, Giáo sư Imai, Giáo sư Nakano, Tiến sĩ Tanaka cùng tác giả.
Ảnh bên: Trong số báo phát hành sáng ngày 20/9/2015, tờ Yomiuri Shimbun (tirrage đạt tới 12.774.000 bản mỗi ngày) và Sekai Nippon (phát hành ở Tokyo) đã dành phần lớn trong mục Thời sự Quốc tế đăng tin về Hội thảo Biển Đông tổ chức tại Đại học Takushoku.
Ảnh trên: Tiến sĩ Đinh Hoàng Thắng, thành viên của Viện các Vấn đề Phát triển tại Hội trường Shintobe của Đại học Takushoku đang thu hút sự chú ý của giới trí thức Nhật Bản.
Ảnh dưới: Đây là tấm áp-phích lớn treo trước cổng trường Đại học Takushoku (Tokyo) trước hôm diễn ra Hội thảo chừng 10 ngày. Nhưng...có một câu chuyện "bi-hài" đã xảy ra mà những người kể lại không khỏi "tức cười" về một hành động lạ! Đó là tấm áp-phích tự dưng bị bóc gỡ, lấy đi mất khiến Ban Giám hiệu phải ra một Thông báo, viết rằng "...đây là tấm áp-phích đẹp, nếu bạn sinh viên nào thích thì có thể đến Văn phòng xin, Nhà trường phát không phí, chứ đừng nên tự ý bóc ra lấy làm của riêng...Người ta truyền tai nhau, nhiều khả năng cô cậu sinh viên bóc áp-phích kia là sinh viên Trung Quốc?! Người Nhật đúng là đại hài hước (họ có "great sense of humor").
Ảnh trên: Hội trường Shintobe với hơn 300 thính giả đến từ Đại học Takushoku.
Nhật-Việt cần kết nối…
Trong quá trình hội luận, tôi may mắn được trao đổi
nhiều lần với các GS. Kojima Takayuki và GS. Araki Kazuhiro đều là “những cây
đa cây đề” về các vấn đề an ninh Đông Á. Câu chuyện xoay quanh nhiều “nút thắt”
nóng bỏng. Các bạn nói, từ nay, chúng tôi quan tâm đến cả hai “Biển Đông”. Tới
đây, Trung Quốc sẽ làm gì tiếp theo ở cả Hoa Đông lẫn Biển Đông? Bạn cho rằng,
Nhật Bản và Việt Nam cần khẩn trương làm sâu sắc hơn nữa mối bang giao vừa được
nâng cấp lên tầm mức quan hệ “đối tác chiến lược sâu rộng” để có thể ứng phó kịp
thời với những diễn biến ngày càng căng thẳng do các bước leo thang ngày càng
nguy hiểm của Trung Quốc. Các diễn giả đều nhận thức rằng, quan hệ Việt – Nhật
đã trở nên bền vững hơn trong những năm qua, một phần chủ yếu là do hai bên có
chung các mối quan ngại trước sự gây hấn ngày càng gia tăng của Trung Quốc.
Trong khi đó, ở một số phương diện, quan hệ Việt – Mỹ vẫn còn đang phát triển tiệm
tiến, chưa có đột phá như quan hệ Việt – Nhật nên có thể khiến Trung Quốc tin rằng
họ có thể “tiếp tục bắt nạt Việt Nam và các nước Đông Nam Á khác”. Thái độ quyết
đoán này của Bắc Kinh một phần nằm trong chiến dịch tiếm quyền kiểm soát khu vực,
nhưng họ tiến hành một cách ma mãnh, không ồn ào, để không dẫn đến phản ứng quá
mạnh của các nước lớn trong vùng.
Các bạn Nhật cũng nhắc lại thời điểm tháng 5/2014,
chỉ 3 ngày sau khi Tổng thống Obama kết thúc chuyến công du châu Á để trấn an
các đồng minh thì Bắc Kinh đã gây ra cuộc khủng hoảng HD981, hạ đặt giàn khoan khủng
bất hợp pháp trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam. Vấn đề đặt
lên bàn là, sau các chuyến thăm sắp diễn ra của Chủ tịch Tập Cận Bình và của Tổng
thống Obama, lần lượt dự kiến sẽ đến Hà Nội vào tháng 11 tới, và đặc biệt là
sau Đại hội 12 của Đảng CSVN, liệu Trung Quốc có gây hấn đối với Việt Nam hay
không? Nếu có thì sẽ tấn công trên bộ hay trên biển? Thật ra, chẳng ai có thẩm
quyền để trả lời câu hỏi này, ngoài Bắc Kinh, nhất là khi các bạn Nhật lại đọc
thấy những lời đe nẹt trực tiếp Việt Nam ngay trên chính các trang báo đảng của
Trung Quốc! Một nguy cơ khác, bạn không phát biểu công khai, nhưng luôn ẩn hiện
trong các câu hỏi, các lời bình, đó là việc Trung Quốc đang cố “khua chiêng gõ
mõ” về một mô hình “quan hệ cường quốc kiểu mới” với Hoa Kỳ. Cái gọi là mô hình
mới này, theo các diễn giả Nhật, thực chất là việc Trung Quốc muốn thỏa hiệp với
Mỹ trong một số vấn đề lớn, để “nuốt trọn Biển Đông”. Bằng cách nào? Trung Quốc
muốn Mỹ đừng dính dáng gì đến đường lưỡi bò hay còn gọi là đường “đứt khúc 9 đoạn”,
mà hãy để mặc cho Trung Quốc múa gậy vườn hoang, xử lý các nước nhỏ và yếu
trong khu vực. Vậy liệu cái “tinh thần Thượng Hải” quyết “bán đứng Việt Nam” như
năm nào sẽ được lặp lại theo gợi ý của chiến lược gia Bresinsky? Người Nhật
không mấy tin vào cái giả thuyết sặc mùi con buôn này.
Và cái chính là, với lý trí lành mạnh, Hoa Kỳ khó có
thể chấp nhận cái chính sách sẽ làm tổn hại đến vị thế cường quốc số một của
mình; quan trọng hơn, làm mất đi một trong những đòn trục để “tái cân bằng”, đó
là hệ thống các đối tác truyền thống (gồm các liên minh xưa nay) và cả những đối
tác mới nổi (như Việt Nam). Dù bị cuốn hút vào các hồ sơ khác như Syria hay
Ukraina, chính quyền Obama vẫn không quên thúc đẩy chính sách “xoay trục” qua
vùng châu Á-Thái Bình Dương, một trong những hướng chủ yếu trong nền chính trị đối
ngoại của Hoa Kỳ hiện nay. Các hoạt động ngoại giao ráo riết bên lề khóa họp Đại
hội đồng Liên Hiệp Quốc đã diễn ra cuối tháng 9 vừa qua cho thấy, Hoa Kỳ đang
tăng cường quan hệ kinh tế và chiến lược với Nhật Bản, Hàn Quốc và Ấn Độ. Hai sự
kiện hiếm hoi liên quan đến bang giao giữa Mỹ với Á châu diễn ra gần như đồng
thời vào ngày 29/9 tại New York. Ngoại trưởng Mỹ John Kerry, đã siết chặt hàng
ngũ cùng hai đồng nhiệm Nhật Bản Fumio Kishida và Hàn Quốc Yun Byung Se, trong
một cuộc họp tay ba hy hữu giữa các đồng minh quân sự này. Ông Kerry còn có một
cuộc họp khác với hai Ngoại trưởng Nhật Bản và Ấn Độ; cuộc bắt tay ấy cũng chưa
từng có, được giới thiệu như là “những cuộc hội ngộ giữa các nền dân chủ lớn của
thế giới”. Và đến giờ này, sau khi phối hợp hoạt động giữa Hạm đội 3 với Hạm đội
7, triển khai thêm 30.000 thủy quân lục chiến đến Hawaii, thông báo cho đồng
minh về kế hoạch tuần tra hải quân ở Trường Sa, có thể thấy rằng các bạn Nhật
nói đúng, người Mỹ không hề tuyên bố suông!
Nghe cả tiếng nức nở
Hội trường Shintobe của Đại học Takushoku quy tụ hơn
300 khách mời, bao gồm các giáo sư, giảng viên và phần lớn là sinh viên các
khóa master của Học viện Quốc tế từ Đại học Takushoku và các trường đại học bạn.
Các sinh viên quốc tế học Nhật Bản rất coi trọng đến an ninh “phi truyền thống”
trong nghiên cứu về khu vực và nhân tố con người trong nghiên cứu về phát triển
toàn cầu. “Đằng sau các vận động chính trị lớn không bao giờ được quên nhân tố
con người”. Lão Giáo sư Hasegawa Michiko từ Đại học Saitama nói với tôi sau khi
ông hoàn thành xuất sắc bản báo cáo dẫn đề tại Hội thảo. Nói đến con người Nhật
Bản thì không thể không nói đến văn hóa và giáo dục, mà tôi chú ý nhất là văn
hóa chính trị và giáo dục quốc tế học. Buổi gặp gỡ các nghị sỹ và dân biểu từ
Thủ đô Tokyo và hàng chục đơn vị bầu cử từ các địa phương lên nghe chúng tôi nói
chuyện là một bài học nhớ đời đối với bản thân. Ngày 18/9, khi chúng tôi đang ở
trong Tòa nhà Quốc hội, ước tính hơn cả ngàn người đang thực sự “bao vây” tòa
nhà vừa cổ kính vừa hiện đại ấy, dưới trời mưa tầm tã. Những người biểu tình phản
đối dự luật cho phép Lực lượng Phòng vệ (SDF) tham chiến khi có xung đột đe dọa
đến an ninh của cả Nhật lẫn Mỹ. Mấy mươi năm trước đây, ông ngoại của Thủ tướng
Abe bây giờ cũng đã muốn sửa đổi điều 9 của Hiến pháp Nhật liên quan đến vấn đề
này, nhưng ngày ấy, cử tri Nhật không đồng ý. Bây giờ số người phản đối dự luật
vẫn còn đông, nhưng ông Abe đã thành công. Ông thành công không chỉ bằng lá phiếu
ở Quốc hội, vì Liên minh cầm quyền chiếm đa số ở cả Hạ viện lẫn Thượng viện. Dự
Luật đã biến thành Luật, ông Abe vẫn không ngơi nghỉ các nỗ lực thuyết phục những
người chống đối bằng nền văn hóa dân chủ. Chính ông cũng thừa nhận, chính quyền
ngay từ đầu, thực sự chưa giải thích thấu đáo dự luật này cho người dân.
Trở lại với các khảo luận của Giáo sư Ari Nakano, dường
như các bài viết ấy của chị chỉ được đăng tải trên báo chí Nhật Bản và nước
ngoài. Tôi tìm trong Google, tuyệt nhiên không thấy có bài “Những câu hỏi về quan hệ Việt-Nhật”
trên truyền thông Việt Nam. Có lẽ nền “ngoại giao văn hóa” của ta còn phải phấn
đấu nhiều hơn nữa. Phải chăng đã đến lúc nên giã từ cái thời ngoại giao thiên về
ngợi ca một chiều, nặng về sáo rỗng bề ngoài, thiếu chiều sâu cần có? Dân gian ta
từng truyền khẩu “Mồm tuyên giáo, áo ngoại giao” có sai không nhỉ? Thật nguy hiểm,
nếu ta cứ hành xử mà thiếu nghiên cứu một cách rốt ráo văn hóa sở tại; nhất là ở
miền đất mà tinh thần “võ sỹ đạo” vốn là một giá trị cốt lõi từ bao đời nay, đã
bồi đắp, vun xới và làm nên một nước Nhật huy hoàng khiến cả thế giới từ Âu
sang Á đều phải ngưỡng mộ, đều phải kính nể. Tiến sĩ Ari Nakano là Giáo sư của
Trường Đại học Daito Bunka, từng là nghiên cứu sinh tại Đại học Keio và đoạt bằng
Tiến sĩ tại đấy. Các lĩnh vực chuyên sâu của chị là Chính trị, Ngoại giao và
Nhân quyền ở Việt Nam. Năm nào chị cũng xuống tận các tỉnh thành để trao đổi với
chuyên gia của ta về các vấn đề liên quan đến Việt Nam. Chị đã đi nhiều nơi, phỏng
vấn nhiều người ở các làng làm nông nghiệp tại các tỉnh Đắc Nông và Lâm Đồng,
nơi các nguồn bô xít đang được khai thác, nhưng chị không thấy những người cư
dân nơi đây đã được giải thích rõ ràng về khai thác bô xít, hay xây dựng và mở
rộng các nhà máy tinh luyện alumina. Chị ghi lại một sự thật mà chị cho là đau
lòng, chẳng mấy ai biết gì hơn về các kế hoạch “giải phóng” đất, chuyện đền bù,
v.v… Mặc dù những người dân các làng ấy đều đã gửi đơn tới các công ty và các
cơ quan công quyền nói về những thiệt hại về môi trường mà họ phải gánh chịu. Xin
được nói thêm, GS-TS. Ari Nakano cũng chính là dịch giả “Nỗi buồn Chiến tranh” của Bảo Ninh.
Phải động viên được dân
Giảng viên Odoka Tai còn khá trẻ, anh từng 15 lần bỏ
tiền túi đi lại giữa Tokyo—Hà Nội—Lạng Sơn, phỏng vấn trực tiếp các nhân chứng
sống còn sót lại từ cuộc chiến tranh biên giới năm 1979. Sỡ dĩ anh đi liên tục
trong vội vàng, vì theo anh, các nhân chứng sống ấy ngày càng ít đi. Anh lo với
thời gian và cung cách ở Việt Nam hiện nay, mọi chuyện dễ rơi vào quên lãng. “Quên
sự đóng góp của người dân, sau này động viên họ sẽ rất khó”. Anh chia sẻ với
chúng tôi các ưu tư đối với thân phận những người gắn đời mình với cả một giai
đoạn bi tráng của lịch sử Việt-Trung, anh quan tâm nhiều đến việc làm thế nào để
khi hữu sự phải động viên được người dân. Liên quan đến chủ đề thảo luận, anh
tìm hiểu khá kỹ tương quan giữa P&D, tức là tương quan giữa nỗ lực kiến tạo
hệ thống các đối tác chiến lược của
Việt Nam (Partnership) với việc thúc
đẩy tiến trình dân chủ hóa bên trong
đất nước (Democratization). Vâng, tại
Quốc hội cũng như ở hội trường lớn, chúng tôi đã giải thích rất rõ ràng, để quản
trị được các căng thẳng trên Biển Đông, đối với Việt Nam, ngoài khâu chuẩn bị
“sức mạnh cứng”, việc xây dựng “sức mạnh mềm” là hết sức cần thiết. Mô hình
“P&DOWN” ra đời từ bối cảnh ấy. Hẳn nhiên, P&D cần được đặt trên nền tảng của ba trụ cột “tương sinh,
tương hỗ” khác là Luật pháp – Truyền
thông – Kết nối (O—W—N). Đúng là
cuộc chiến luật pháp và truyền thông giờ đây đã trở nên thời sự hơn bao giờ hết,
khi mà cả hai nguyên thủ Việt Nam và Trung Quốc, tại Liên Hợp Quốc đã công khai
“phản đòn” nhau trước công luận quốc tế. Lần đầu tiên ông Tập tuyên bố: “Quần đảo
Tây Sa và Nam Sa (chỉ Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam) là thuộc chủ quyền của
Trung Quốc từ thời cổ đại xa xưa”!? Chủ tịch Trương Tấn Sang đã thay mặt triệu
triệu con tim người Việt ở trong nước và khắp mọi góc bể chân trời, kịp đáp trả:
“Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thực sự thuộc về Tổ quốc Việt Nam chúng tôi”.
Chủ tịch Trương Tấn Sang nói tiếp: “Phía Trung Quốc trong những lần gặp gỡ phía
Việt Nam thường nói rằng Hoàng Sa và Trường Sa là của họ, không có gì phải
tranh cãi. Phía Việt Nam cũng khẳng định lại rằng Hoàng Sa và Trường Sa là của
tổ tiên Việt Nam chúng tôi, không thể tranh cãi”.
Tại những buổi tiếp xúc với các nghị sỹ, dân biểu Nhật
Bản trong Tòa nhà Quốc hội (Diet), các khía cạnh luật pháp quốc tế đã được nhiều
diễn giả mổ sẻ kỹ lưỡng. Không ít nghị sỹ và dân biểu nêu câu hỏi, tại sao đến
giờ này, Việt Nam vẫn chưa đưa Trung Quốc ra Tòa án Quốc tế, trong khi các chứng
cứ về pháp lý ủng hộ các bạn? Có nghị sỹ còn so sánh Nhật Bản, Philipinnes với
Việt Nam, tìm nguồn gốc chung gây ra những căng thẳng trên cả Hoa Đông lẫn Biển
Đông. Các bạn Nhật khá tâm đắc với mô hình có cách phát âm na ná như hai từ “Bí
Đao” trong tiếng Việt, để chỉ “P&DOWN” là 5 chữ cái trong tiếng Anh. Lúc đầu
bạn nhầm tưởng là một pe-rơ-đam từ Hoa Kỳ hay của ASEAN. Đến khi biết đấy là
sáng kiến do nhóm chúng tôi đưa ra, bạn chủ động đề xuất, tới đây nên tiếp tục
hợp tác nghiên cứu giữa Viện Quốc tế Takoshoku với Viện Văn hóa Biển hay với Viện
các Vấn đề Phát triển. Bạn có ý tưởng muốn mở rộng pe-rơ-đam này thành một mô
thức có thể áp dụng để góp thêm phần quản lý căng thẳng trên cả Hoa Đông lẫn Biển
Đông (ECS và SCS). Bạn cũng rất quan tâm đến các dự án “Chương trình minh triết
bảo vệ Biển Đông”, “SEA-SEA-FORUM” (Diễn đàn Biển Đông Nam Á). Biết là để Liên Hợp
Quốc chấp thuận đổi tên Nam Hải thành Biển Đông Nam Á còn mất thời gian dài
dài. Nhưng để lãnh đạo Trung Quốc khỏi ngộ nhận Biển Đông (Nam Trung Hoa) thuộc
chủ quyền của Trung Quốc vì có chữ “Hoa” trong đó (!), trước mắt, nên đẩy mạnh
dự án này ra toàn khu vực và thế giới…
Đinh Hoàng Thắng (Tokyo—Hà Nội, Thu 2015)