Cây bút chuyên về các vấn đề đối ngoại và quan hệ quốc tế Nguyễn Quang Dy (suốt thời gian đi làm anh Dy công tác ở ngành ngoại giao) nhắn tin cho tôi, báo rằng bài viết dưới đây anh đã gửi và trang viet-studies đã đăng.
Sau đó anh đọc lại và thấy cần sửa chữa một số ý đoạn cùng một số chi tiết cho rõ hơn và gửi bài đã chữa cho blog của tôi. Anh nhắn thêm rằng blog tôi thường ưu tiên đề tài đối ngoại nói chung nên nếu đăng lên thì tốt cho đối tượng bạn đọc này được theo dõi liên tục...
Xin đăng bài dưới đây để bà con trên Blog nói chung cùng bạn bè đã và đang làm trong ngành đối ngoại, ngoại giao nói riêng đọc tham khảo và chia sẻ.
Vệ Nhi/Nguyễn Vĩnh
---------
Chính
sách Đối ngoại Việt Nam Giai đoạn Mới
Nguyễn
Quang Dy
Trước cơn địa chấn chính trị với hệ quả khôn lường đang
diễn ra tại Mỹ và toàn cầu, trước đám mây đen và sóng dữ tại Biển Đông, con tàu
Việt Nam phải làm thế nào để thoát hiểm và vượt ra biển lớn? Đây là thách thức
to lớn và cơ hội mong manh đối với Việt Nam, tại bước ngoặt lịch sử khi thế giới
đang bước sang một giai đoạn mới.
Bước
ngoặt lịch sử
Tuy đã hơn bẩy thập kỷ sau ngày độc lập (2/9/1945)
và hơn bốn thập kỷ sau ngày kết thúc chiến tranh Việt Nam (30/4/1975), nhưng đất
nước dường như vẫn còn luẩn quẩn tại ngã ba đường của lịch sử. Việt Nam có quyết
tâm đổi mới thể chế toàn diện hay không? Có thực sự đi theo con đường kinh tế
thị trường và dân chủ hóa hay không? Liệu tranh luận về “hai con đường” đã đến
lúc ngã ngũ, hay Việt Nam vẫn tiếp tục “đu dây”?
Một yếu tố mới xuất hiện, như một cơn địa chấn chính
trị đang xô đẩy Việt Nam phải chọn một con đường. Ngày 8/11/2016 là “ngày định
mệnh” đối với nước Mỹ (cũng như nhiều nước khác), khi Donald Trump bất ngờ thắng
cử, trở thành tổng thống thứ 45 của Mỹ. Đó là một chính biến làm thay đổi cuộc
chơi (game changer), khiến nước Mỹ (và phần lớn thế giới) ngỡ ngàng, bối rối và
lo sợ.
Đó không phải chỉ là sự kiện thay đổi tổng thống Mỹ như “đến hẹn lại lên”, mà là một bước ngoặt lịch sử, mở ra một giai đoạn mới bất định. Khủng hoảng chính trị Mỹ có thể làm đảo lộn trật tự thế giới, “như khi Liên Xô sụp đổ” (năm 1991). (“America: the Failed State”, Francis Fukuyama, Prospect, December 13, 2016).
Đó không phải chỉ là sự kiện thay đổi tổng thống Mỹ như “đến hẹn lại lên”, mà là một bước ngoặt lịch sử, mở ra một giai đoạn mới bất định. Khủng hoảng chính trị Mỹ có thể làm đảo lộn trật tự thế giới, “như khi Liên Xô sụp đổ” (năm 1991). (“America: the Failed State”, Francis Fukuyama, Prospect, December 13, 2016).
Cơn địa chấn chính trị bất ngờ và bất định này đang
làm nước Mỹ chia rẽ sâu sắc, đe dọa trật tự thế giới cũ và quan hệ quốc tế.
Trong cuốn sách mới xuất bản, Richard Haass (president of the Council on Foreign Relations) nhận xét rằng từ
đầu năm 2017, chúng ta đang chứng kiến “sự
đảo lộn có tính hệ thống” (systemic disorder) và “mất phương hướng chiến lược” (strategic disorientation). (“A World
in Disarray: American foreign Policy and the Crisis of the Old Order”, Richard
Haass, Penguin Press, January 2017).
Nếu Donald Trump chơi lá bài Nga để chống Tàu (khác
với Nixon-Kissinger chơi lá bài Tàu để chống Nga trước đây) thì ông ta có thể
làm đảo lộn bàn cờ chiến lược Biển Đông, cũng như chính sách đối ngoại của các
nước Đông Á và ASEAN (trong đó có Việt Nam). Học thuyết Kissinger về tam giác
chiến lược Mỹ-Nga-Trung có thể bị đảo ngược (“Reverse Kissinger”, Blake Franko,
American Conservative, January 10, 2017).
Nghịch lý Donald Trump là một hiện tượng lạ, nhưng
đã có tiền lệ trong lịch sử. Thời xưa tại Trung Quốc, Lã Bất Vi ngộ ra rằng
“buôn vua” lãi hơn tất cả, nên đã bỏ kinh doanh đi “buôn vua” và dựng lên Tần
Thủy Hoàng. Lã bất Vi còn đúc kết kinh nghiệm viết “Lã Thị Xuân Thu”. Nay tại Mỹ,
Donald Trump cũng bỏ kinh doanh bất động sản, nhưng không “buôn vua” mà làm vua
luôn. Donald Trump là Lã Bất Vi của nước Mỹ!
Trump vốn là con người thất thường, nên chính sách của
Trump cũng bất thường. Đặc điểm chính sách của Trump là hành động ngay (không cần
nghĩ trước), vì vậy mọi chính sách của chính quyền Trump có thể là “lâm thời”
(ad hoc). Chính vì Trump thiếu nhất quán nên làm thiên hạ khó đoán. Lệnh cấm nhập
cảnh (travel ban) đối với 7 nước Hồi giáo là một ví dụ, đang gây tranh cãi và
phản ứng làm náo loạn cả nước Mỹ.
Trong khi Trump quyết định rút khỏi TPP (bỏ ngỏ khu
vực này cho Trung Quốc thao túng) thì ông ấy lại bổ nhiệm những nhân vật “diều
hâu” chống Trung Quốc (như Peter Navarro và Rex Tillerson) vào những vị trí
then chốt. Trước đây, Nixon-Kissinger đã “vô tình” tạo ra con quái vật
Frankenstein và dung dưỡng nó lớn mạnh bằng kế sách “Constructive Engagement”, nay
Trump lại “vô ý” rút khỏi TPP vì “America First”, mà hệ quả là bỏ rơi khu vực này
để nó tha hồ lũng đoạn. Trung Quốc có thể thay thế TPP (do Mỹ đứng đầu) bằng
RCEP (do TQ cầm cái), phân hóa và làm đảo lộn trật tự của Mỹ tại khu vực này.
Sắp
xếp nhân sự
Sắp xếp nhân sự chủ chốt của Trump chính là dấu hiệu
về đường lối chính sách (đối nội cũng như đối ngoại). Không chờ nhậm chức
(20/1/2017) Trump đã bất ngờ ra tay trước bằng mấy nước cờ táo bạo, làm đảo lộn
bàn cờ quốc gia lẫn quốc tế, đe dọa xóa sổ di sản của Tổng thống Obama và các đời
tổng thống trước đó. Theo Newt Gingrich, “khoảng
60% hoặc 70% sắc lệnh của Obama sẽ bị Trump hủy bỏ” (Fox News,
26/12/2016).
Thứ nhất, Trump không đợi Trung Quốc nắn
gân mà đã phá lệ, thách thức Trung Quốc trước bằng cuộc điện đàm với tổng thống
Đài Loan Thái Anh Văn (2/12/2016). Sự kiện đó không phải ngẫu nhiên, mà là kết
quả chuẩn bị nhiều tuần trước đó, giữa các quan chức hàng đầu hai bên (Bob
Dole, Reince Priebus, Edwin Feulner). Bằng 10 phút điện đàm, Trump đe dọa làm sụp
đổ chính sách “Một Trung Quốc” đã tồn tại hơn 4 thập kỷ. Tiếp theo điện đàm,
Trump còn khẳng định, “Tôi quá hiểu chính
sách ‘Một Trung Quốc’, nhưng tôi không hiểu tại sao chúng ta bị ràng buộc bởi
chính sách đó” (Fox News, 11/12/2016).
Thứ hai, Trump bổ nhiệm Peter Navaro đứng
đầu Hội đồng Thương mại Quốc gia, có văn phòng ngay trong Nhà Trắng, có nhiệm vụ
phối hợp chính sách kinh tế để đối phó với sự trỗi dậy của Trung Quốc. Navarro
là nhân vật chống Tàu, tác giả cuốn sách (và bộ phim) “Chết Bởi Trung Quốc”,
nay trở thành nhà kinh tế quyền lực nhất. Bắc Kinh bị sốc trước quyết định bổ
nhiệm Peter Navarro, cũng như Wilbur Ross (Bộ trưởng Thương mại), Robert
Lighthier (Đại diện Thương mại). Sau cuộc điện đàm với Thái Anh Văn, việc bổ
nhiệm ba nhân vật “diều hâu” chống Tàu là tín hiệu rõ ràng về ưu tiên của
Trump. Chiến tranh thương mại và chạy đua vũ trang với Trung Quốc chỉ là vấn đề
thời gian. Có nhiều
lý do để Trung quốc lo ngại vì kinh tế đang xuống dốc và chính trị bất ổn. (“Peter Navarro is about to become
one of the world’s most powerful economists”, Economist, Jan 21, 2017).
Thứ ba, Trump bổ nhiệm Rex Tillerson làm
Ngoại Trưởng, một quyết định gây tranh cãi, không phải chỉ vì Tillerson là CEO
của Exxon-Mobil, mà còn là nhân vật thân với Putin. Phát biểu của Tillerson
trong buổi điều trần tại Thượng Viện (12/1/2017) càng làm lãnh đạo Trung Quốc bị
sốc. Tillerson đã nói thẳng thừng rằng chiến dịch Trung Quốc xây đảo nhân tạo
trị giá hàng tỷ đô-la tại Biển Đông (với tài nguyên dầu khí) là “bất hợp pháp và giống Nga chiếm Crimea…”
và “Chúng ta sẽ nói rõ với Trung Quốc rằng
trước hết, họ phải chấm dứt xây dựng đảo và thứ hai, chúng ta sẽ không cho phép
họ tiếp cận các đảo này…”
Đó là một tín hiệu thay đổi lớn trong
quan điểm của Mỹ về Biển Đông, với hàm ý là Mỹ sẽ dùng sức mạnh quân sự để ngăn
chặn Trung Quốc bành trướng. Phát biểu của Tillerson đã làm chính giới và dư luận
Trung Quốc bất ngờ và tức giận. Thực ra, Tillerson từ lâu đã
lo ngại về Trung Quốc và thấy phải chống lại ý đồ quân sự hóa và bành trướng
của Trung Quốc tại Biển Đông, sau vụ Exxon-Mobil (và các công ty khác) bị Trung
Quốc ngăn cấm hợp tác dầu khí với Việt Nam. (“Rex Tillerson’s South China
Sea Remarks Foreshadow Possible Foreign Policy Crisis”, Michael Forsythe, New
York Times, Jan 12, 2017).
Stephen Bannon (chiến lược
gia của Trump tại Nhà Trắng) cũng quan tâm đến chiến lược Châu Á và cho rằng
chủ trương “xoay trục” sang Châu Á của Obama thất bại vì thiếu ngân sách quốc
phòng nên yếu thế. Trump cũng bổ nhiệm nhiều tướng “diều hâu” và chuyên gia về
Trung Quốc vào các vị trí chủ chốt như Bộ trưởng Quốc phòng (James Mattis), Cố
vấn An ninh Quốc gia (Michael Flynn), Bộ trưởng Hải Quân (Randy Forbes), Giám
đốc Châu Á tại Hội đồng An ninh Quốc gia (Matt Pottinger), Trợ lý Bộ trưởng về
Châu Á tại Bộ Ngoại Giao và Bộ Quốc Phòng (Randall Schiver và Victor Cha). Đại
sứ Mỹ tại Trung Quốc là Terry Branstad, tại Nhật là William Hagerty, tại Ấn Độ là
Ashley Tellis. (“Trump could make Obama’s pivot to Asia a reality”, Josh Rogin,
Washington Post, Jan 8, 2017).
Bối
cảnh quốc tế
Có
thể nói, chính sách đối ngoại của chính quyền mới hình thành ngay trong giai
đoạn chuyển giao quyền lực, trước khi Donald Trump nhậm chức. Diễn văn nhậm
chức của Trump sặc mùi dân túy, chẳng khác diễn văn tranh cử trước đó, khẳng định
quan điểm đối ngoại cứng rắn của Trump, và phủ nhận gần hết các di sản của
Obama. Nó không chỉ làm người Mỹ chia rẽ mà còn làm thế giới hoang mang lo
ngại, nhất là Trung Quốc.
Một
số nhà phân tích cho rằng Trump sẽ chơi trò “ngoại giao tay ba” (Triangular
Diplomacy) với Nga và Trung Quốc, nhưng “tinh tế hơn” (Alexander Vuving). Thay
vì dùng lá bài Trung Quốc để chống Nga (thời Nixon-Kissinger), Trump sẽ dùng lá
bài Nga để chống Trung Quốc. Lãnh đạo Trung Quốc tỏ ra lúng túng và bị động
(như bị “phục kích”), chưa biết nên phản ứng và đối phó thế nào. Họ chưa gặp
một Tổng thống Mỹ nào lại ăn nói và hành xử như vậy. Đối với một người không
biết sợ như Trump, Trung Quốc rất khó nắn gân và hù dọa. Khó đoán được ý đồ
thực của Trump là một thách thức lớn đối với Trung Quốc (“Trump Tweets China
Retreats”, Gordon Chang, National Interest, Jan 6, 2017).
Trong khi Trung Quốc trỗi dậy “không hòa bình”, bắt
nạt các nước khu vực và thách thức vai trò của Mỹ, thì Mỹ vẫn “chiều” họ bằng
chính sách “Một Trung Quốc” (như chiều “Frankenstein”). Tuy Nixon đã qua đời, nhưng Kissinger, là tác
giả của chính sách “Một Trung Quốc” (theo “Shanghai Communique”), vẫn còn nhiều
ảnh hưởng như một cây cổ thụ về chính sách đối ngoại từ thập niên 1970 (dù nay
đã 93 tuổi). Tính đến nay, Kissinger đã đến thăm Trung Quốc tới 80 lần, và quen
biết hầu hết lãnh đạo nước này.
Gần đây nhất, sau khi Trump đắc cử, Kissinger đã đến
Bắc Kinh gặp Tập Cận Bình và Vương Kỳ Sơn (1/12/2016), trong khi Trump điện đàm
với Thái Anh Văn (3/12/2016). Không biết là Kissinger đã nói gì với Trump khi họ
gặp nhau bàn về Trung Quốc, nhưng sau đó khi được hỏi ông nghĩ gì về cựu ngoại trưởng
Kissinger, Trump đã Twitted, “Một cây cổ
thụ đã mục ruỗng, thì không nên tưới bón làm gì, chỉ tốn thời gian”.
Không phải Kissinger chỉ quan hệ chặt chẽ với Bắc
Kinh, mà còn quan hệ chặt chẽ với Nga. Gần đây nhất, Kissinger đã đến Moscow
đàm phán (bí mật) với Putin (3/2/2016). Ông cho rằng Mỹ sai lầm lớn nếu để Nga
và Trung Quốc hình thành một liên minh kinh tế và chính trị. Vì vậy, Mỹ phải hợp
tác với Nga để “cân bằng lực lượng toàn cầu”. Nhưng tại sao Trump lại thân thiện với Nga mà
không thân thiện với Trung Quốc, trong khi cả Nga và Trung Quốc đều tìm cách
thách thức lợi ích và vai trò toàn cầu của Mỹ?
Theo các cơ quan tình báo Mỹ (CIA và FBI), Nga đã
can thiệp vào chính trị Mỹ bằng hacking (qua tin đồn giả) không phải chỉ làm
Hillary Clonton thất cử, mà còn làm Donald Trump đắc cử, nhưng trở thành tổng
thống “vịt què”, vì có tin đồn là Trump đã quan hệ với gái điếm Nga tại Moscow.
Nói cách khác Trump đã từng bị tình báo Nga theo dõi và khống chế. Việc rò rỉ
tin xấu vào đúng lúc Trump sắp nhậm chức có thể là đòn gió của Putin, muốn tác
động vào sắp xếp nhân sự và chính sách của Trump (đối với Nga).
Dưới chính quyền Obama, chủ trương xoay trục sang
Châu Á là một tầm nhìn đúng, nhưng thực hiện lại yếu vì Obama thiếu quyết đoán.
Nay dưới chính quyền Trump, triển vọng có thể ngược lại, vì Trump là một tổng
thống “con buôn” (dealer). Theo John Hudak (Brookings), có nhiều khả năng Trump
sẽ điều hành Nhà Trắng như CEO của một tập đoàn kinh doanh. Có người còn cho rằng
lãnh đạo thực sự của nước Mỹ không phải là Donald Trump mà là Rex Tillerson, vì
“nước Mỹ không còn là một chế độ dân chủ,
mà là một chế độ tài phiệt”. (Jimmy Carter interviewed by Oprah Winfrey,
September 27, 2015).
Bối
cảnh khu vực
Tuy ASEAN đã trở thành “cộng đồng kinh tế” (AEC),
nhưng đoàn kết ASEAN ngày càng yếu, vì bị Trung Quốc thao túng. Không chỉ có
Campuchea và Thailand, mà cả Philippines và Malaysia cũng “xoay trục” sang Trung
Quốc. Nếu không sớm cải tổ cơ chế thì ASEAN có thể mất vai trò và “Đoàn kết
ASEAN” chỉ còn là khẩu hiệu.
Nếu vai trò lãnh đạo của Mỹ về kinh tế và an ninh
khu vực giảm đi, với tương lai bất định của TPP và chính sách “xoay trục” dưới
chính quyền mới, thì vai trò kinh tế và an ninh của Nhật tại khu vực phải mạnh
lên tương ứng. Bất ổn trong “tam giác Mỹ-Trung-Việt” cần được hóa giải bằng “tứ
giác Nhật-Úc-Ấn-Việt” trên cơ sở đối tác chiến lược toàn diện, với vai trò đầu
tàu của Nhật, thay thế một phần vai trò lãnh đạo của Mỹ.
Quan điểm cứng rắn của Rex Tillerson về Biển Đông là
một dấu hiệu đáng mừng, xuất phát từ kinh nghiệm của ông ấy tại khu vực này,
khi Exxon-Mobil có
quan hệ hợp tác tốt về dầu khí với PetroVietnam (năm 2009) để khoan thăm dò hai
vị trí tại Biển Đông. Khi bị Trung Quốc phản đối, các công ty khác buộc phải
rút, nhưng Exxon-Mobil
không bỏ cuộc, mà vẫn lặng lẽ theo đuổi dự án khai thác dầu khí tại Biển Đông.
Vai trò của Exxon-Mobil (như một cường quốc) không chỉ có hợp tác dầu khí, mà
còn vì địa chính trị.
Đáng
chú ý là quan điểm cứng rắn của Rex Tillerson lại trùng hợp với quan điểm cứng
rắn của TNS John McCain (và một số người khác). McCain cho rằng không quốc gia nào ủng hộ cho sự thành công của Trung Quốc
nhiều hơn là Mỹ… nhưng Trung Quốc lại chọn cách sử dụng sức mạnh và vị thế đang
lớn lên của họ để phá vỡ trật tự đó. Trung quốc đã từng bước triển khai chính
sách dọa dẫm và cưỡng bức để hỗ trợ cho mục tiêu bành trướng, một tiến trình
được tăng tốc quyết liệt dưới sự lãnh đạo của Tập Cận Bình.
McCain còn cho rằng Mỹ và Việt Nam
chia sẻ một loạt những quyền lợi kinh tế và chiến lược, và tin rằng đã đến lúc
hai quốc gia cần triển khai “Sáng kiến Hàng hải Việt-Mỹ” (US-Vietnam Maritime
Initiative). Sáng kiến này có thể bao gồm việc mở rộng các cuộc tập trận hỗn
hợp trên biển. McCain hoan nghênh Việt Nam tham gia cuộc tập trận “Pacific Rim”
và cho rằng Hải quân Hoa Kỳ cần tăng cường thăm Việt Nam…
TNS John Mccain và TNS Jack Reed đã
cộng tác để bảo trợ “Sáng kiến An ninh Hàng hải” (Maritime Security Initiative),
với kinh phí 1/2 tỉ USD, cho phép Bộ Quốc phòng Mỹ nâng cao năng lực hàng hải
cho các đối tác của Mỹ tại Đông Nam Á…Năm nay, Ủy ban hành động lưỡng đảng sẽ nâng
cấp sáng kiến này và cung cấp thêm nhiều nguồn lực mới. McCain cũng ủng hộ TPP,
và cho rằng “Nếu TPP thất bại thì sự lãnh
đạo của Mỹ tại Châu Á-Thái Bình Dương có thể thất bại theo…” (“The Need for
Renewed American Leadership in Asia-Pacific”, John McCain, the Herritage
Foundation, December 29, 2016).
Bối
cảnh Việt Nam
Trong giai đoạn mới, ngoại giao Việt Nam lại đứng trước
ngã ba đường. Việt Nam phải định hướng lại mục tiêu chiến lược (vì lợi ích dân
tộc) và điều chỉnh chính sách kịp thời. Chính sách “đu dây” của Việt Nam nhằm
giữ thăng bằng với hai nước lớn (Trung Quốc và Mỹ) là một đặc thù lâu nay gây nhiều
tranh cãi. Đây là một dịp tốt để lý giải nhằm làm rõ và điều chỉnh chính sách “đu
dây” này trong bối cảnh quốc tế mới.
Trong lịch sử, Việt Nam đã từng phải “đu dây” giữa
hai cường quốc cộng sản “thân hữu” nhưng “đồng sàng dị mộng” là Liên Xô và
Trung Quốc. Muốn hay không, đó là định mệnh (hay nghịch lý) đối với Việt Nam, một
nước nhỏ phải dựa vào hai nước lớn “thân hữu” để “chống Mỹ cứu nước”. Thật trớ trêu, Việt Nam nay lại phải “đu dây”
giữa Mỹ và Trung Quốc, như sự kế thừa và tiếp nối một định mệnh (hay một nghịch
lý).
Trong khi Trung Quốc là nước láng giềng khổng lồ mà
Việt Nam không được lựa chọn nhưng phải chung sống suốt đời, thì Liên Xô và Mỹ
(cũng như Pháp) là những đế quốc “ngoại bang” mà Trung Quốc luôn ôm mối hận để phục
thù. Điều đó lý giải tại sao Việt Nam phải “đu dây”. Vấn đề không phải chỉ là hành động “đu dây”
mà là lý do “đu dây”, và cách thức “đu dây”, liên quan đến bối cảnh lịch sử, lợi
ích dân tộc, ràng buộc ý thức hệ, có thể làm người ta lẫn lộn về thái độ chính
trị và ngộ nhận về bạn/thù. Đừng quên rằng, “không có đồng minh và kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có lợi ích dân tộc vĩnh viễn”
(Palmerston).
Chủ nghĩa “tiệm tiến”
(gradualism) và quan niệm “đặc thù” (exceptionalism) trong chính sách của Việt
Nam, phản ánh tư tưởng bảo thủ (vì ý thức hệ), tư duy truyền thống (theo quy
trình), và tâm trạng lo sợ hoặc nghi ngại (do tâm lý). Tâm trạng này có thể trở
thành rào cản đối với tư duy đổi mới sáng tạo trong một cục diện mới. Theo
Alexander Vuving, “Việt
Nam tiếp tục tách xa dần (nhưng không quá xa) Trung Quốc, và tiếp
tục xích lại gần (nhưng không quá gần) Mỹ, sợ làm Trung Quốc tức giận”. (“Cops, Robbers and the South China Sea’s New
Normal”, Alexander Vuving, National Interest, Dec 23, 2016).
Đến
lúc phải xoay trục
Đã đến lúc phải “kiểm toán” chính sách đối ngoại Việt
Nam trong thời kỳ “Hậu Thành Đô” (1990-2016), trên cơ sở thành công hay thất bại.
Qua mấy thập kỷ, Việt Nam đã bị lệ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc, cả về kinh tế,
chính trị, và đối ngoại, vì mắc phải cái vòng “kim cô”. Muốn khắc phục những hệ
lụy to lớn và lâu dài đó, Việt Nam phải đổi mới thể chế toàn diện, cả về kinh tế
lẫn chính trị, cả về đối nội lẫn đối ngoại.
Quan hệ “4 tốt” và “16 chữ vàng” chính là cái vòng
“kim cô” để Trung Quốc thực hiện tham vọng bành trướng bá quyền ở Biển Đông (như
“Đường 9 đoạn”). Nó làm Việt Nam lệ thuộc và mất dần chủ quyền lãnh thổ. Sau
khi Việt Nam mất Hoàng Sa (1974) và một phần Trường Sa (1988), sự kiện dàn
khoan HD981 tại Biển Đông là một bước ngoặt bộc lộ bộ mặt thật của Trung Quốc,
làm lãnh đạo Việt Nam giật mình tỉnh ngộ.
Chính sách đối ngoại của Việt Nam giai đoạn trước dựa
trên bốn trụ cột: (1) độc lập tự chủ (trong đó có chính sách “3 không”), (2) đa
phương đa dạng hóa (trong đó có chủ trương “thêm bạn bớt thù”), (3) vừa hợp tác
vừa đấu tranh (trong đó có “đối tác hợp tác” và “đối tượng đấu tranh”), (4) chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế (để trở thành “đối tác tin cậy” của cộng đồng
quốc tế). Các trụ cột đó về cơ bản là đúng (như khẩu hiệu), nhưng không ổn (về
thực chất) vì sự bất cập giữa tuyên bố chính sách (declared policy) và thực tiễn
(reality), do thể chế lỗi thời và cái “vòng kim cô” làm lệ thuộc quá nhiều vào
Trung Quốc.
Chính sách đối ngoại giai đoạn mới phải giúp Việt
Nam thoát khỏi lệ thuộc vào Trung Quốc, để quan hệ dựa trên “tái cân bằng tích
cực” (active rebalance). Tái cân bằng tích cực không phải là “đu dây”, và
“thoát Trung” không có nghĩa là quay lưng lại với Trung Quốc. Sau sự kiện dàn
khoan HD 981 và chiến dịch quân sự hóa các đảo mà Trung Quốc chiếm giữ tại Biển
Đông, Việt Nam đã xích lại gần Mỹ. Chuyến thăm Mỹ chính thức của CTN Trương Tấn
Sang (7/2013) và TBT Nguyễn Phú trọng (7/2015) là một bước ngoặt cho “đối tác
toàn diện” và tầm nhìn chung Mỹ-Việt về an ninh quốc phòng, làm tam giác Mỹ-Trung-Việt
thay đổi, nhưng vẫn chưa đủ trở thành “đối tác chiến lược” (vì cái “vòng kim
cô”).
Chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Obama (23/5/2016)
với tuyên bố bỏ cấm vận vũ khí, đã kết thúc quá trình bình thường hóa hơn 2 thập
kỷ. Nhưng đáng tiếc, Việt Nam đã “đu dây” quá lâu (suốt 8 năm) không tranh thủ
được cơ hội “xoay trục” của Mỹ dưới thời Obama để nâng cấp quan hệ thành “đối
tác chiến lược” (như với 10 nước khác). Cơ hội đó đã bị tuột mất vì dưới chính
quyền Donald Trump, TPP đã bị gác lại, chủ trương “xoay trục” cũng bị xem xét lại,
và di sản của Tổng thống Obama có thể bị xóa sổ.
Những
giá trị cốt lõi
Thực chất quan hệ Trung-Việt (thời kỳ “Hậu Thành
Đô”) là bất bình đẳng và lệ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc. Đã đến lúc Việt Nam
phải “xoay trục” để thoát khỏi tình trạng “cân bằng tiêu cực”, thể hiện qua
chính sách “3 không” và “đu dây” với các nước lớn để tồn tại. Chính sách đối
ngoại trong giai đoạn mới (đổi mới vòng 2) cần dựa trên ba tiêu chí cơ bản, như
giá trị cốt lõi: (1) độc lập trưởng thành (mature independence), (2) tái cân bằng
tích cực (active rebalance), và (3) hội nhập tích cực (proactive integration).
Một chính sách đối ngoại “độc lập trưởng thành” phải
nhất quán về tư duy chiến lược, lấy lợi ích dân tộc làm mục tiêu tối hậu, không
lệ thuộc vào ý thức hệ đã lỗi thời. Đã đến
lúc người Việt phải đổi mới tư duy triệt để, không thể tiếp tục “đu dây” cả về đối
nội và đối ngoại tại ngã ba đường, như mấy thập kỷ qua. Cái giá phải trả về lợi
ích lâu dài (do sự trì trệ) lớn hơn nhiều so với cái lợi trước mắt (vì “hoàng
hôn nhiệm kỳ”).
Một chính sách đối ngoại “tái cân bằng tích cực” phải
dựa trên sự cân đối và tương hỗ giữa đối nội và đối ngoại, giữa lợi ích quốc
gia và hội nhập quốc tế, giữa cải cách thể chế kinh tế và đổi mới thể chế chính
trị, để phát triển bền vững và dân chủ hóa. Để khai phóng năng lượng sáng tạo của
người dân, phải xóa bỏ cơ chế lỗi thời về quyền sở hữu ruộng đất và độc quyền cho
doanh nghiệp nhà nước theo “định hướng XHCN”.
Một chính sách đối ngoại “hội nhập tích cực” phải
giúp các doanh nghiệp có điều kiện và cơ hội để hội nhập quốc tế, tham gia chuỗi
giá trị và cung ứng toàn cầu. Dù tương lai TPP ra sao, thì Việt Nam vẫn phải sẵn
sàng tham gia các thể chế tự do mậu dịch quốc tế (thế hệ mới). Việt Nam đã đi
được một quãng đường dài từ WTO đến TPP, nhưng nhiều doanh nghiệp Việt Nam vẫn
chưa quen với sân chơi toàn cầu hóa. Cần giúp họ phát huy các lợi thế tương đối
của mình, để tăng cường năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Trong bối cảnh Tổng thống đắc cử Donald Trump điện
đàm với bà Thái Anh Văn, bổ nhiệm Peter Navarro làm chủ tịch Hội đồng Thương mại
Quốc gia, và cử Rex Tillerson làm Ngoại trưởng (với những phát biểu cứng rắn chống
Trung Quốc), thì TBT Nguyễn Phú Trọng lại vội vàng sang thăm Trung Quốc (từ
12/1/2017). Ngay hôm sau, ngoại trưởng Mỹ John Kerry tới thăm Việt Nam lần cuối
(13/1/2017). Thời điểm hai chuyến thăm bộc lộ sự bất cập chứng tỏ Việt Nam vẫn
đang “đu dây” (vì sức ép của Trung Quốc).
Trong khi đó, PetroVietnam và Exxon-Mobil ký hai hợp
đồng về khí tại mỏ “Cá voi xanh” (Blue Whale). Điều đáng lưu ý là thời điểm ký
kết trùng với chuyến thăm của TBT Nguyễn Phú Trọng và ngoại trưởng John Kerry, điều
trần tại Thượng Viện của Rex Tillerson (ngoại trưởng mới được đề cử) với những
phát biểu cứng rắn chống Trung Quốc. Trong bối cảnh Trump quyết định rút khỏi
TPP, thì hợp đồng hợp tác dầu khí với Exxon-Mobil tại Biển Đông không chỉ quan
trọng về kinh tế, mà còn có ý nghĩa lớn về địa chiến lược.
Ngay sau đó, thủ tướng Nhật Shinzo Abe đã đến thăm
Việt Nam (16/1/2017) nhằm tăng cường hợp tác tại Biển Đông. Nhật muốn cải thiện
năng lực tuần duyên của Việt nam, nên đã quyết định viện trợ cho Việt Nam thêm
6 tầu tuần duyên mới. Một quan chức Bộ Ngoại Giao Việt Nam phát biểu “hy vọng Nhật có vai trò lớn hơn về hợp tác
an ninh quốc phòng”. Quan hệ Nhật-Việt cần phát triển theo hướng xây dựng nền
tảng cho một tứ giác chiến lược mới do Nhật làm đầu tầu (“Japan-Australia-India-Vietnam
Partnership”).
Thay
lời kết
Khi môi trường quốc tế và khu vực có nhiều biến động
khó lường, và tình hình kinh tế, chính trị trong nước có nhiều bất ổn, đòi hỏi
phải cải cách thể chế toàn diện (cả kinh tế và chính trị), thì chính sách đối
ngoại cũng phải đổi mới theo tương ứng. Chính sách đối ngoại tuy là cánh tay
kéo dài của chính sách đối nội, nhưng có nhiệm vụ làm đòn bẩy, hỗ trợ quá trình
“đổi mới vòng 2” để phát triển bền vững. Đề cương đổi mới chính sách đối ngoại
cần dựa trên đề cương đổi mới toàn diện của chiến lược phát triển quốc gia.
“Báo cáo Việt Nam 2035” chính là đề cương đổi mới,
làm cơ sở xây dựng chính sách đối ngoại thời kỳ mới. Muốn thay đổi, phải gắn kết
được trên với dưới, trong với ngoài, để huy động tối đa nguồn lực của dân tộc,
nhằm kiến tạo một quốc gia giàu mạnh và văn minh. Đến lúc người Việt phải chứng
minh Việt Nam không phải là một quốc gia hèn kém và lệ thuộc, quen dựa vào viện
trợ nước ngoài, rằng người Việt Nam có thể hòa giải dân tộc, đứng dậy từ đổ nát
và li tán, để tái tạo một quốc gia độc lập và dân chủ. Chỉ có độc lập và dân chủ
mới thu phục được nhân tâm để kiến tạo một quốc gia giàu mạnh và văn minh.
NQD.
1/2/2017 (5 Tết Đinh Dậu)