Những
Nghịch lý và Ngộ nhận về Viêt Nam
Nguyễn
Quang Dy
“Chúng
ta không thể thay đổi được quá khứ, nhưng chúng ta có thể sắp xếp lại tương
lai” “We cannot change the past, but we can
reshape the future” (Dalai Lama)
Chiến tranh Viêt Nam đã đi vào lịch sử lâu rồi. Đã
42 năm kể từ khi cuộc chiến đó chấm dứt, nhưng người ta vẫn còn tranh luận về
Chiến Tranh Việt Nam (hay còn gọi là cuộc “Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai”).
Tại sao “bóng ma Việt Nam” đến giờ vẫn còn ám ảnh người Mỹ và người Việt, nhất
là thế hệ những người đã trực tiếp dính líu vào Việt Nam, dù là quân nhân hay dân
sự và nhà báo. Tại sao người ta vẫn tiếp tục viết sách và làm phim về Việt Nam?
Phải chăng vì Chiến tranh Việt Nam có quá nhiều nghịch lý và ngộ nhận?
Hệ
quả chiến tranh
Chiến tranh Việt Nam đã làm 58.000 người Mỹ và hàng triệu người Viêt (cả hai phía) bị thiệt mạng, và làm cho hai quốc gia bị tổn thất nặng nề và chia rẽ sâu sắc. Sau chiến tranh, hầu hết các trường hợp người Mỹ mất tích (MIA) đã được kiểm chứng, nhưng hàng vạn người Việt mất tích (cả hai phía) vẫn chưa được kiểm chứng. Ngay lúc này, tại khu vực sân bay Tân Sơn Nhất, người ta vẫn đang tìm kiếm mộ tập thể của hàng trăm liệt sỹ thiệt mạng trong “Tết Mậu Thân” (1968) mà đến nay vẫn coi như “mất tích”. Người ta vẫn đang phải chi nhiều triệu USD để rà soát bom mìn và tẩy độc dioxin tại nhiều nơi ở Việt Nam.
Ngoài 257 nhà báo quốc tế sống sót sau Chiến tranh
Viêt Nam, tham gia câu lạc bộ “Vietnam Old Hacks”, 73 đồng nghiệp xấu số của họ
bị mất tích trong chiến tranh, đến nay vẫn chưa được kiểm chứng. Sau nhiều năm tìm
kiếm vô vọng, phóng viên ảnh Tim Page và thân hữu vẫn chưa chịu bỏ cuộc, tuy Chính
phủ Mỹ và Chính phủ Việt Nam vẫn chưa làm gì để giúp họ tìm kiếm. Trong khi những
người Mỹ mất tích trong chiến tranh đã được kiểm chứng, tại sao các nhà báo quốc
tế mất tích trong chiến tranh lại bị Mỹ và Việt Nam “bỏ quên”? Thật là bất công
và bất nhẫn khi số phận người sống lẫn người chết vẫn chưa hóa giải.
Trong bộ phim tài liệu mới “The Vietnam War” (gồm 10
tập, dài 18 giờ, sẽ chiếu trên PBS từ 17/9/2017) Ken Burns và Lynn Novick đã chọn
cựu binh Mỹ John Musgrave để nói lên một sự thật đau lòng (ngay từ đầu bộ phim):
“Có lẽ chúng tôi là những đứa trẻ cuối cùng của một thế hệ tin rằng chính phủ của
mình không bao giờ nói dối chúng tôi” (We were probably the last kids of
any generation that actually believed our government would never lie to us). Câu nói đó chắc sẽ ám ảnh khán
giả, và tiếp tục ám ảnh người Mỹ và Việt Nam.
Bộ phim “The Vietnam War” làm tôi nhớ lại một kỷ niệm
vào năm 1985 khi chúng tôi đứng trên đỉnh đèo Hải Vân nhìn xuống bãi biển Non
Nước (còn gọi là “China Beach”). Thomas Vallely (một cựu binh ở Massachusetts)
đứng trước ống kính máy quay phim để làm một “stand-up” giữa trời nắng chang
chang, đã phải lặp lại nhiều lần một câu nói làm tôi bị ám ảnh, nên đã thuộc đến
tận bây giờ: “Hai mươi năm trước tôi đã đổ bộ vào Đà Nẵng khi còn là một thanh
niên 19 tuổi. Chính tại Việt Nam tôi đã hiểu về cuộc chiến tranh, về bản thân,
và về đất nước của mình… Chúng ta không nên đưa thanh niên vào chỗ chết, chỉ vì
lòng tự hào của mấy ông già”. (Twenty
years ago, I landed here in Da Nang as a nineteen years old. It was here in
Vietnam that I had learned about the War, about myself and about my country… We
should not be in the businees of sending young men to die for the old men’s
pride).
Lịch sử thường
lặp lại với nhiều nghịch lý. Nước Mỹ đã lặp lại một sai lầm mà tướng Omar
Bradley đã từng cảnh báo (15/5/1951): Chiến tranh Việt Nam
đã trở thành “một cuộc chiến sai lầm, tại một địa điểm sai, vào một thời điểm
sai, và chống một kẻ thù sai” (The wrong war, in the wrong place, at the wrong
time, and with the wrong enemy). Tại
sao một chính quyền có nhiều người tài giỏi như vậy, mà vẫn mắc sai lầm? Phải chăng là do “ngạo mạn về quyền lực”, nên họ
đã ngộ nhận về “quyền năng tuyệt đối”? Phải chăng do cực đoan và tự phụ nên họ không
chịu lắng nghe lời khuyên, mà còn lừa dối Quốc hội và Nhân dân.
Tại
sao Việt Nam
Năm 1990, tôi có dịp gặp ông Archimedes Patti tại
Bangkok trong khi ông ấy chờ máy bay đi Việt Nam để dự kỷ niệm sinh nhật cụ Hồ.
Ông đã ký tặng tôi cuốn sách “Tại sao Việt Nam” (“Why Vietnam: Prelude to America’s Albatross”, University of
California Press, 1980) và kể lại nhiều kỷ niệm với cụ Hồ và OSS. Tuy ông Patti
và cuốn sách đã đi vào lịch sử, nhưng câu hỏi Why Vietnam vẫn còn ám ảnh nhiều người Mỹ và người Việt Nam.
Khi tôi hỏi ông Patti là người Mỹ có đọc cuốn sách của
ông không, ông buồn rầu trả lời là rất ít người đọc. Mãi sau này người ta mới
đưa nó vào danh mục sách tham khảo của các trường đại học. Trong một lần trả lời
phỏng vấn (1981), ông Patti nói:“Theo
tôi, chiến tranh Viêt Nam là một sự lãng phí khồng lồ. Trước hết, nó không cần
phải xảy ra. Hoàn toàn không. Không đáng tí nào cả. Trong suốt những năm chiến
tranh Việt Nam, không ai đến gặp tôi để tìm hiểu xem điều gì đã xảy ra năm 1945
hoặc 1944. Trong suốt những năm tôi làm việc ở Lầu Năm Góc, Bộ Ngoại giao và
Nhà Trắng, không một ai có quyền hành đến gặp tôi cả…”
Năm 1995, nhân kỷ niệm 20 năm kết thúc chiến tranh, ông Robert McNamara đã viêt cuốn sách “Hồi tưởng: Bi kịch và Bài học Việt Nam” (Robert McNamara, “In Retrospect: The Tragedy and Lessons of Vietnam”, Vintage books, 1995). Cuối cùng ông McNamara đã thừa nhận sai lầm. Nhiều người đặt câu hỏi tại sao một người thông minh tài giỏi như vậy, phải mất tới 20 năm mới nhận ra hay thừa nhận sai lầm. Phải chăng nghịch lý quá khó để nhận ra, hay sai lầm quá lớn để thừa nhận? Trong khi sử gia Arthur Schlesinger khen ngợi ông McNamara là dũng cảm và chân thành thừa nhận sai lầm, thì nhiều người khác lại cho rằng ông McNamara thừa nhận sai lầm quá chậm trễ như vậy là thiếu tử tế (indecent). Những người trong cuộc phải hiểu cái giá của sự chậm trễ trước mỗi bước ngoặt của lịch sử. Theo Đại tá Andre Sauvageot, “Đáng lẽ Tổng thống Nixon phải rút quân khỏi Việt Nam sớm hơn…”
Năm 1997, ông H.R. McMaster đã viết cuốn “Bỏ rơi Nhiệm
vụ” (H.R. McMaster, “Dereliction of Duty:
Lyndon Johnson, Robert McNamara, the Joint Chiefs, and the Lies that led to the
War”, Harper, 1997). Đó là nhận xét thẳng thắn của một sỹ quan dũng cảm dám
nói ra sự thật, dù là sự thật đau lòng. Chắc lúc đó ông McMaster không biết rằng
sau này mình sẽ trở thành Chủ tịch Hội đồng An Ninh Quốc gia. Liệu ông có thể
làm gì để sửa chữa sai lầm khi có cơ hội, vì sau Việt Nam, Chính quyền Mỹ tiếp
tục nói dối và mắc sai lầm tại Iraq.
Trong cuốn sách đó, McMaster đã nói rõ không chỉ có
Chính quyền Johnson đã lừa dối Quốc Hội trong sự kiện Vịnh Bắc Bộ, mà các tướng
lĩnh cầm đầu cũng tham gia sự “đồng thuận dối trá” (Contriving consensus). Tướng Earle Wheeler và các tham mưu trưởng
liên quân, được gọi là “năm người đàn ông im lặng” (five silent men) đã tiếp tay cho Tổng thống lừa dối Quốc Hội leo
thang chiến tranh tại Việt Nam, như gia tăng quân Mỹ để gây sức ép (graduated pressure). McMaster gọi đó là “bãi
lầy dối trá” (quicksand of lies).
Nhà báo Peter Arnett (CNN) gọi đó là“sự bất tài, dối trá, và ngạo mạn của những
quan chức Mỹ cao cấp nhất” (the
ineptness, duplicity and arrogance among the most senior officials of the US). Còn
nhà báo Joe Galloway (US News & World Reports) đã nhận xét:“Những người có quyền lực và trách nhiệm
đã gây ra thảm họa chiến tranh và để lại dấu vết khắp nơi…McMaster đã làm sáng
tỏ hơn và biết rõ hơn về ‘những người tài giỏi và thông minh nhất’ đã dùng dối
trá và bí mật để che đậy cho họ như thế nào, nhằm khuynh đảo và thao túng đất
nước, xô đẩy Mỹ trượt theo con đường chiến tranh và thất bại cay đắng” (men of power and responsibility caused
that disastrous war and left their fingerprints all over it. He sheds fresh
light and understanding on how ‘the best and the brightest’ shielded by lies
and top secret, maneuvered and manipulated our country down the road to war and
bitter defeat).
Bất
đồng chính kiến
Khác với Robert McNamara (cựu Bộ trưởng Quốc phòng) và McGeorge Bundy (cựu Cố vấn An ninh Quốc gia), George Ball (cựu Thứ trưởng Ngoại giao, 1961-1966) lúc đó đã nhận ra sai lầm và cố khuyên can Tổng thống Kennedy và Johnson đừng can thiệp vào Việt Nam: “Tôi nhìn thấy trước một cuộc phiêu lưu rất nguy hiểm…Chúng ta sẽ sa vào một cuộc xung đột kéo dài, còn nguy hiểm hơn cả Triều Tiên”. Trong số những nhân vật mà David Hamberstam gọi là the Best and the Brightest trong Chính quyền Kennedy, George Ball là thiểu số đơn độc giữa sự đồng thuận dối trá và ngạo mạn về quyền lực. Tuy lập luận của George Ball rất thuyết phục, nhưng họ không buồn nghe, nên ông đã từ chức (năm 1966).
George Ball là một nhân vật đóng vai phản biện (devil’s advocate) có uy tín trong việc hoạch định chính sách đối ngoại của Mỹ trong thập niên 1960. Ông đã cố thuyết phục Tổng thống Kennedy đừng gửi quân sang Việt Nam và đã cảnh báo từ rất sớm là cuối cùng Mỹ phải đưa tới đó hàng trăm ngàn quân: “Việt Nam như một cái vòng luẩn quẩn với những khe sâu và bãi lầy khó thoát” (Vietnamese detour with its deep ruts and treacherous quicksands). Ông dự đoán chiến tranh sẽ kéo dài, quân Mỹ sẽ mắc kẹt vào một cuộc chiến tranh trong rừng rậm, Trung Cộng sẽ can thiệp, sự ủng hộ của dân chúng Mỹ sẽ mất dần khi thương vong tăng lên, dư luận quốc tế sẽ phản đối chiến tranh, và cuối cùng Mỹ sẽ thất bại.Ngay từ đầu thập niên 1960, George Ball đã nhấn mạnh giá trị của ngoại giao, và khuyến nghị “rút quân chiến thuật” để tránh thảm họa. Ông kêu gọi ngừng bắn, có ủy ban quốc tế giám sát, tiếp theo là bầu cử tại Miền Nam, cho Việt Cộng tham gia, tiến tới thống nhất Việt Nam. Ông khuyến nghị tìm kiếm một giải pháp ngoại giao, vì nếu thiếu thì Mỹ sẽ khó tránh được thảm họa, dẫn tới thất bại nhục nhã. Lịch sử đã chứng minh George Ball có tầm nhìn sáng suốt, tuy lúc đầu ông không phản đối quyết liệt. Chính ông George Ball và TNS William Fulbright đã ủng hộ “Nghị quyết vịnh Bắc Bộ” (mà George Ball cùng soạn thảo).
Nhưng có lẽ chính họ cũng bị lừa dối, vì sau đó, George Ball ngày càng bất đồng chính kiến, với những khuyến nghị quyết liệt hơn. TNS Fulbright đã viết cuốn “Sự Ngạo mạn của Quyền lực” (William Fulbright, “The Arrogance of Power”, Random House, 1966). Ông cho rằng “quyền lực bị lẫn lộn với đạo đức thì nó thường bị ngộ ngận là quyền năng tuyệt đối” (omnipotence). Ông lập luận “trong một nền dân chủ, bất đồng chính kiến là từ lòng tin, giống như tin vào thuốc chữa bệnh, mà giá trị của nó không phải vị đắng ta nếm, mà là công hiệu của thuốc”. Không phải chỉ có George Ball và William Fulbright bất đồng chính kiến, mà còn một số người khác như TNS Earnest Gruening và TNS Wayne Morse, là hai người dũng cảm trong Thượng viện đã bỏ phiếu chống “Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ” (1964). Sau cuốn sách của Fulbright, Gruening đã viết cuốn Vietnam Folly, góp phần làm thay đổi nhận thức nhiều người Mỹ về Chiến tranh Việt Nam (Earnest Gruening, “Vietnam Folly”, National Press, 1968).
Sự
kiện Vịnh Bắc Bộ
Ngày 2/8/1964, ba tàu phóng ngư lôi
của Bắc Việt Nam đã tấn công tàu khu trục USS
Maddox trong vịnh Bắc Bộ (cuộc “tấn công lần thứ nhất”). Hai ngày sau (4/8/1964)
tàu USS Maddox và USS Tuner Joy tiếp tục tuần tra trinh
sát tại vịnh Bắc Bộ. Trong đêm tối mịt mù, sóng to gió lớn làm mất tầm nhìn,
thủy thủ hai tàu phát hiện trên màn hình radar những đốm sáng và hơn 20 vật thể
di chuyển giống ngư lôi của đối phương, nên tàu phải tăng tốc để tránh, thả
thủy lôi và bắn trả 650 quả pháo xuống biển (tưởng là cuộc “tấn công lần thứ
hai”).
Nhưng sau đó, họ không tìm thấy dấu
vết ngư lôi hay tàu của đối phương bị phá hủy hay tháo chạy trước hỏa lực cực
mạnh của hai tàu Mỹ. Trong vòng mấy giờ sau đó, thuyền trưởng tàu USS Maddox John Herrick đã gửi điện khẩn
về Honolulu báo cáo không phát hiện thấy địch bằng mắt thường, và báo động bị địch
tấn công bằng ngư lôi có thể là do thời tiết xấu và phản ứng hồ đồ của các kỹ
sư sonar. Ông khuyến nghị “cần đánh giá lại toàn bộ trước khi có hành động tiếp
theo” (complete evaluation before any
further action taken). Nhưng Bộ trưởng Quốc phòng McNamara đã lập tức
khuyến nghị ném bom Bắc Việt Nam, và Tổng thống Johnson đã nghe lời khuyên của
McNamara, vội vã tuyên bố Mỹ bị “tấn công vô cớ” (unprovoked attack) trên hải
phận quốc tế. Ba ngày sau, hai viện Quốc Hội thông qua “Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ”
cho phép Tổng thống toàn quyền hành động, triển khai quân đội Mỹ tại Đông Nam
Á. Đó là bước ngoặt để Chính quyền Johnson quyết định leo thang chiến tranh.
Năm 2003, trong bộ phim tài liệu
“Sương mù Chiến tranh” (Fog of War)
ông McNamara đã thừa nhận “không có cuộc tấn công lần thứ hai, ngày 4/8/1964”.
Tổng thống Johnson cũng nói “Theo tôi biết, hải quân của chúng ta đã bắn cá voi
ở đó” (For all I know, our navy was
shooting at whales out there). Phi công James Stockdale, lúc đó đang lái
máy bay hải quân F-8 Crusader bay
trên vùng “có chiến sự” đã báo cáo về như sau: “Tôi đang ngồi ở vị trí tốt nhất
để quan sát “các tàu khu trục của chúng ta đang bắn vào các mục tiêu bóng ma…Chẳng
có cái gì ở đó ngoài nước biển tối đen và hỏa lực của Mỹ” (our destroyers were shooting at phantom targets ... There was nothing
there but black water and American firepower).
Năm 2005, Cục An ninh Quốc gia (NSA)
đã giải mật nhiều tài liệu bao gồm các bức điện trao đổi xung quanh “Sự kiện
Vịnh Bắc Bộ”, nên các sử gia có cơ sở để kết luận là “không có cuộc tấn công
lần thứ hai” (ngày 4/8/1964). Sử gia Edwin Moise tin rằng do thời tiết xấu, các
đàn cá bơi gần mặt nước, hoặc sự cố cảm biến của radar đã làm các kỹ sư sonar
hiểu lầm các tín hiệu trên màn hình. Biển cả đầy rẫy các hiện tượng lạ mà thủy
thủ có thể hiểu lầm là mối đe dọa. Các
nhà khoa học đã nghiên cứu và chứng minh thủ phạm trong “sự kiện Vịnh Bắc Bộ”
là một loài cá họ mực có tên là pyrosomes, thường đi ăn ban đêm hàng đàn gần mặt nước, với đội
hình trông giống quả ngư lôi, tuy tốc độ di chuyển chậm hơn, nhưng cũng phát
sáng và tạo vệt sóng, nên hình ảnh trên màn hình radar trông giống ngư lôi.
Giáo sư Todd Newberry (University of
California, Santa Cruz) cho rằng hình ảnh và tập quán di chuyển của loài cá pyrosomes khớp với sự cố xảy ra.
Newberry cho biết vào mùa hè 1966 ông đã gặp một kỹ sư sonar của tàu USS Turner Joy tại Monterey Bay. Anh ta
kể lại sự cố đêm hôm đó với ông Newberry (một giáo sư sinh vật biển). Theo lời
anh ta, trên màn hình radar của tàu USS
Turner Joy xuất hiện những vật thể trông giống ngư lôi, nhưng cách nó di
chuyển không giống những quả ngư lôi mà từ trước tới nay anh ta đã thấy. Câu
chuyện của Newberry về loài cá pyrosomes
phát sáng là một ví dụ về những ngộ nhận cực đoan của con người về thế giới tự
nhiên đa dạng, nhưng có thể làm thay đổi cục diện chiến tranh.
Thực ra hơn
nửa thế kỷ qua, các nhà hải dương học đã nghiên cứu và kể lại nhiều mẩu chuyện
về loài cá pyrosomes trong các bài giảng ở trường đại học, nhưng ít người để ý
(ví dụ trong sự cố Vịnh Bắc Bộ). Trong bộ phim the Fog of War, ông McNamara nói “Chiến tranh quá phức tạp để đầu
óc con người có thể hiểu được tất cả các biến số. Nhận định và hiểu biết của
chúng ta không đủ, và chúng ta giết người một cách không cần thiết” (War is so complex it’s beyond the ability of
the human mind to comprehend all the variables. Our judgment, our
understanding, are not adequate. And we kill people unnecessarily).
Bóng
ma Việt Nam và Iraq
Sau Việt Nam, người ta tưởng Mỹ sẽ không bao giờ mắc
lại sai lầm nữa. Nhưng Iraq đã làm sống lại bóng ma Việt Nam. Chính quyền Bush đã
mắc lại sai lầm cũ, làm mất lòng dân, không chỉ người Mỹ mà còn nhiều dân tộc khác
trên thế giới. Tuy Mỹ chống chủ nghĩa khủng bố là đúng, nhưng đã sai khi ngộ nhận
và ngạo mạn về quyền lực. Mỹ đã sai khi Washington đi theo chủ nghĩa đơn phương
(unilateralism), chỉ dựa vào sức mạnh cứng (hard power) mà quên mất sức mạnh mềm
(soft power) làm vũ khí chống khủng bố. Mỹ đã sai lầm khi Chính quyền Bush đã nói
dối Quốc hội và nhân dân Mỹ về lý do tấn công Iraq.
Hình như người ta không chịu học bài học Việt Nam: Bắt đầu một cuộc chiến mà không có tầm nhìn rõ ràng, không biết giới hạn của quyền lực, nên cuối cùng không thắng được và không thu phục được lòng dân địa phương. Iraq một lần nữa lại chia rẽ nước Mỹ khi chiến tranh kéo dài với tổn thất lớn, nhưng không có lối thoát. Có thể nói, bóng ma Việt Nam được phục sinh bởi Iraq, và lịch sử đã lặp lại một lần nữa. Mỹ lại đứng trước thế “tiến thoái lưỡng nan” (như Catch-22): hoặc mất Iraq hoặc phải “Iraq hóa” chiến tranh để Mỹ có thể rút quân nhằm tránh những rắc rối lớn hơn trong nước. Đó không chỉ là thất bại của bộ máy chiến tranh với “sự ngạo mạn của quyền lực”, mà còn là thất bại của một triết lý chiến tranh dược dẫn dắt bởi một tầm nhìn thiển cận, dựa trên chủ nghĩa đơn phương và sức mạnh cứng.
Bài học Việt Nam là một trường hợp điển hình về sức mạnh cứng được sử dụng tối đa, nhưng cuối cùng vẫn thất bại. Ông McNamara đã mất hơn 2 thập kỷ mới nhận ra sai lầm chết người đã xô đẩy nước Mỹ vào một cuộc chiến tàn khốc, không chỉ đem lại thương vong và tổn thất to lớn cho nước Mỹ, mà còn tàn phá Việt Nam “trở về thời kỳ đồ đá” (lời tướng Curtis LeMay), khó tái thiết sau chiến tranh. Kết cục cả Mỹ và Việt Nam đều bị tổn thương và chia rẽ nghiêm trọng, cả về vật chất lẫn tinh thần, đến tận bây giờ vẫn chưa lành vết thương.
Vì vậy mà hai thập kỷ sau chiến tranh, cuốn sách “Hồi tưởng” của ông McNamara lại mở ra vết thương lòng với vết sẹo Chiến tranh Việt Nam vẫn chưa lành. Ba thập kỷ sau chiến tranh, bóng ma Việt Nam vẫn ám ảnh John Kerry và George Bush trong cuộc vận động tranh cử tổng thống (2004). Đến tận bây giờ, bóng ma Việt Nam vẫn tiếp tục ám ảnh hai quốc gia và và chia rẽ hai cộng đồng người Việt, làm cho hòa giải vẫn vô cùng khó khăn. Nhiều người Việt và người Mỹ vẫn như là “tù binh của quá khứ”, không thể kiến tạo được tương lai.
Hình như có một nghịch lý “yêu-ghét” (love-hate paradox) giữa hai quốc gia, do ám ảnh của quá khứ với mặc cảm tội lỗi (như trường hợp ông Bob Kerrey). Nó nuôi dưỡng những ẩn ức và ngộ nhận do “tư duy cũ” (mindset) bị “bất cập” trước thực tế mới với “khác biệt lớn” (big gaps). Chỉ khi nào những “bất cập” đó được tháo gỡ, mở đường cho thiện chí hợp tác dựa trên những giá trị nhân bản của con người, thì mới có thể hàn gắn được vết thương lòng và vết sẹo chiến tranh. Quá trình này chỉ có thể thực hiện được khi quan hệ con người được xây dựng trên nền tảng “sức mạnh mềm” để khai thác được tiềm năng con người qua giao lưu và kết nối, như “hệ quả không định trước” của chiến tranh, với một tầm nhìn mới về tương lai.
Nhà báo David Lamb (Nieman Fellow, LA Times, mất năm 2016) nhận xét: “Một trong những sai lầm lớn nhất của chúng ta là không hiểu người Việt Nam, không hiểu lòng kiên nhẫn, sự ngoan cường, chủ nghĩa dân tộc, khả năng chiến đấu, lịch sử, văn hóa, và ngôn ngữ của họ. Đối với thắng thua trong chiến tranh thì đó là sự thiếu hiểu biết chết người. Tôi ước rằng Mỹ đã có thể rút ra được bài học kinh nghiệm từ Việt Nam, nhưng đáng tiếc là chúng ta lại sa vào cuộc chiến tại Iraq, một thảm họa không khác cuộc chiến tranh Việt Nam”.
Thoát
Trung và Biển Đông
Trong Chiến tranh Việt Nam, Mỹ đã từng đánh Bắc Việt
Nam để bảo vệ Nam Việt Nam nhằm ngăn chặn Trung Quốc. Nhưng sau khi Mỹ bắt tay
với Trung Quốc, họ đã bỏ rơi Nam Việt Nam (năm 1975). Trong mấy thập kỷ tiếp
theo, Mỹ đã hợp tác và giúp Trung Quốc trỗi dậy bằng chính sách “tham dự tích cực”
(Constructive Engagement), với hy vọng
Trung Quốc sẽ “trỗi dậy hòa bình”. Nhưng đáng tiếc, Trung Quốc đã bộc lộ bộ mặt
thật hung hăng như con quái vật Frankeinstein
(lời cố Tổng thống Nixon). Trung Quốc bắt nạt các nước láng giềng, quân sự
hóa Biển Đông để độc chiếm nó như cái ao riêng của mình, đồng thời thách thức
vai trò và lợi ích cơ bản của Mỹ và các đồng minh / đối tác tại Châu Á.
Năm 1964-1965, tàu chiến Mỹ thuộc Hạm đội 7 (như tàu
khu trục USS Maddox) đến Vịnh Bắc Bộ
để chống Việt Nam. Còn bây giờ tàu khu trục USS
John McCain đến Cam Ranh để hợp tác với Việt Nam nhằm ngăn chặn Trung Quốc
bành trướng tại Biển Đông. Lịch sử đang lặp lại “Trò chơi Vương quyền” (Game of Thrones), nhưng đổi chỗ diễn
viên theo luật chơi mới với kịch bản mới. Lịch sử Việt Nam có nhiều nghịch lý và
uẩn khúc bất thường. Làm thế nào người Việt Nam có thể bảo vệ được chủ quyền quốc
gia và lợi ích dân tộc, mà không để các nước lớn lợi dụng biến mình thành quân
cờ của họ trong bàn cờ nước lớn?
Bàn cờ Biển Đông đầy cạm bẫy, nhất là từ khi Trung
Quốc đưa giàn khoan HD981vào Biển Đông, như một bước ngoặt bất ngờ gây ra cuộc
khủng hoảng Viêt-Trung (5/2014). Việt Nam đã phải trả giá quá nhiều và quá lâu,
bởi những sai lầm của kẻ khác, cũng như của chính mình, trong cuộc Chiến tranh Việt
Nam, cũng như suốt thời hậu chiến (sau 1975), với cuộc chiến “bạn thù” với Campuchia
và Trung Quốc. Sau bài học đẫm máu xung đột Viêt-Trung (2/1979), là bài học
xương máu Thành Đô (9/1990). Đã đến lúc người Việt phải quyết tâm đổi mới tư
duy, vượt qua ý thức hệ đã lỗi thời, để đổi mới thể chế và kiến tạo lại tương lai.
Có thể nói “thoát Trung” không phải là “bài Trung”
(chống Trung Quốc) mà thực chất là đổi mới tư duy và ý thức hệ đã lỗi thời để đổi
mới thể chế, nhằm kiến tạo một nước Việt Nam độc lập và tự cường, có thể bảo vệ
được chủ quyền quốc gia và lợi ích dân tộc của mình. Nói cách khác, muốn “tái
cân bằng tích cực” (active rebalance)
với Trung Quốc, Việt Nam cần phải hợp tác chặt chẽ với các nước lớn (như Mỹ, Nhật,
Ấn) trong khuôn khổ đối tác chiến lược vì an ninh tập thể, nhưng không nên quá
phụ thuộc vào các nước lớn (như hiện nay đang phụ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc).
Đã đến lúc Việt Nam phải đổi mới thể chế toàn diện, bao gồm đổi mới những
nguyên lý cơ bản của chính sách đối ngoại, trong bối cảnh mới.
Thay
lời kết
Trong một bài diễn văn để vinh danh TNS John McCain
và TNS John Kerry vì đã đóng góp cho hòa giải Mỹ-Việt (Boston, 2001), Đại sứ Mỹ
Pete Peterson nói: “Chiến tranh không chấm dứt khi ngừng tiếng súng…Chiến tranh
chỉ thực sự chấm dứt khi hai bên hòa giải với nhau”. Nhưng hòa giải không chỉ
diễn ra trên bàn đàm phán giữa hai chính phủ, mà còn diễn ra trên chiến trường
xưa, giữa những cựu chiến binh đã từng bắn giết lẫn nhau, và trong lòng những
người thân của họ (ở cả hai phía). Nó đòi hỏi phải vươt qua thù hận và định kiến.
Cách đây không lâu, cựu ngoại trưởng John Kerry đã nói
tại một cuộc hội thảo tại California (10/10/2016): “Tôi đã từng chiến đấu tại
Việt Nam. Chúng tôi tưởng là đến đây để ngăn chặn nơi này biến thành cộng sản…
Nhưng nay chỉ có chủ nghĩa tư bản cuồng nhiệt tại Việt Nam”. Dù đúng hay sai, ông Kerry phản ánh một nghịch
lý trớ trêu tại Việt Nam. Thực ra, đó cũng là “hệ quả không định trước” (unintended consequences). Nhưng đáng buồn
là Việt Nam đang bị nhầm lẫn chạy theo những gì tồi tệ nhất của CNXH và CNTB. Đó
là “CNXH thân hữu” để bảo kê cho thế lực “Tư bản Đỏ” (còn gọi là “các nhóm lợi
ích”), lợi dụng “định hướng XHCN” để thao túng chế độ và cướp đoạt thành quả
cách mạng của thế hệ trước.
Ông Phạm Xuân Ẩn, (“Điệp viên Hoàn hảo”) có kể với
tôi một câu chuyện vui đầy nghịch lý. Khi ông đến gặp một quan chức CIA vừa mới
tới Sài Gòn (khoảng năm 1961-1962), ông bạn Mỹ đã khuyên ông Ẩn phải cẩn thận với
ông Ngô Đình Nhu. Khi ông Ẩn hỏi tại sao thì được ông ấy “bật mí” rằng ông Ngô
Đình Nhu “có thể là cộng sản”. Ông Ẩn về kể lại câu chuyện đó với ông Nhu. Sau
mấy giây ngỡ ngàng, ông Nhu phá ra cười. Khi ông Ẩn hỏi “tại sao toi lại cười?”
ông Nhu đã trả lời (không biết đùa hay thật) “có lẽ nó nói đúng đấy…”. Việt Nam
đầy nghịch lý. Nhưng có một nguyên lý cần phải nhớ là trên đời này “không có đồng
minh hay kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có lợi ích quốc gia là vĩnh viễn” (Winston
Churchill).
Tham
khảo
1. William Fulbright, “The Arrogance of Power”, Paperback, 1966)
2. Robert McNamara, “In Retrospect: The Tragedy and Lessons of Vietnam”, Vintage, 1995
3. H.R. McMaster, “Dereliction of Duty: Lyndon Johnson, Robert McNamara, the Joint Chiefs,
and the Lies that led to the War”, Harper, 1997).
4. Errol Morris, “The Fog of War:
Eleven Lessons from the Life of Robert McNamara”, Sony Pictures
Classics (documentary), May 2003.
5. Nguyen Quang Dy,
“Iraq has revived the ghosts of Vietnam,
Nieman Watchdog Discussion,
May 31, 2006
6. Chris Reeves, “Did a Glowing Sea Creature Help Push the US
Into the Vietnam War?”, Atlantic, July 11, 2017
7. Ken Burns & Lynn
Novick, “The Vietnam War”, Florentine
Films & WETA (documentary), September 2017
NQD.18/7/2017