Thứ Năm, 20 tháng 7, 2017

Những Nghịch lý và Ngộ nhận về Viêt Nam

MỘT BÀI VIẾT MỚI CỦA TÁC GIẢ NGHUYỄN QUANG DY.



Những Nghịch lý và Ngộ nhận về Viêt Nam
Nguyễn Quang Dy

“Chúng ta không thể thay đổi được quá khứ, nhưng chúng ta có thể sắp xếp lại tương lai” We cannot change the past, but we can reshape the future” (Dalai Lama)

Chiến tranh Viêt Nam đã đi vào lịch sử lâu rồi. Đã 42 năm kể từ khi cuộc chiến đó chấm dứt, nhưng người ta vẫn còn tranh luận về Chiến Tranh Việt Nam (hay còn gọi là cuộc “Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai”). Tại sao “bóng ma Việt Nam” đến giờ vẫn còn ám ảnh người Mỹ và người Việt, nhất là thế hệ những người đã trực tiếp dính líu vào Việt Nam, dù là quân nhân hay dân sự và nhà báo. Tại sao người ta vẫn tiếp tục viết sách và làm phim về Việt Nam? Phải chăng vì Chiến tranh Việt Nam có quá nhiều nghịch lý và ngộ nhận?

Hệ quả chiến tranh

Chiến tranh Việt Nam đã làm 58.000 người Mỹ và hàng triệu người Viêt (cả hai phía) bị thiệt mạng, và làm cho hai quốc gia bị tổn thất nặng nề và chia rẽ sâu sắc. Sau chiến tranh, hầu hết các trường hợp người Mỹ mất tích (MIA) đã được kiểm chứng, nhưng hàng vạn người Việt mất tích (cả hai phía) vẫn chưa được kiểm chứng. Ngay lúc này, tại khu vực sân bay Tân Sơn Nhất, người ta vẫn đang tìm kiếm mộ tập thể của hàng trăm liệt sỹ thiệt mạng trong “Tết Mậu Thân” (1968) mà đến nay vẫn coi như “mất tích”. Người ta vẫn đang phải chi nhiều triệu USD để rà soát bom mìn và tẩy độc dioxin tại nhiều nơi ở Việt Nam.   

Ngoài 257 nhà báo quốc tế sống sót sau Chiến tranh Viêt Nam, tham gia câu lạc bộ “Vietnam Old Hacks”, 73 đồng nghiệp xấu số của họ bị mất tích trong chiến tranh, đến nay vẫn chưa được kiểm chứng. Sau nhiều năm tìm kiếm vô vọng, phóng viên ảnh Tim Page và thân hữu vẫn chưa chịu bỏ cuộc, tuy Chính phủ Mỹ và Chính phủ Việt Nam vẫn chưa làm gì để giúp họ tìm kiếm. Trong khi những người Mỹ mất tích trong chiến tranh đã được kiểm chứng, tại sao các nhà báo quốc tế mất tích trong chiến tranh lại bị Mỹ và Việt Nam “bỏ quên”? Thật là bất công và bất nhẫn khi số phận người sống lẫn người chết vẫn chưa hóa giải.

Trong bộ phim tài liệu mới “The Vietnam War” (gồm 10 tập, dài 18 giờ, sẽ chiếu trên PBS từ 17/9/2017) Ken Burns và Lynn Novick đã chọn cựu binh Mỹ John Musgrave để nói lên một sự thật đau lòng (ngay từ đầu bộ phim): “Có lẽ chúng tôi là những đứa trẻ cuối cùng của một thế hệ tin rằng chính phủ của mình không bao giờ nói dối chúng tôi” (We were probably the last kids of any generation that actually believed our government would never lie to us). Câu nói đó chắc sẽ ám ảnh khán giả, và tiếp tục ám ảnh người Mỹ và Việt Nam.

Bộ phim “The Vietnam War” làm tôi nhớ lại một kỷ niệm vào năm 1985 khi chúng tôi đứng trên đỉnh đèo Hải Vân nhìn xuống bãi biển Non Nước (còn gọi là “China Beach”). Thomas Vallely (một cựu binh ở Massachusetts) đứng trước ống kính máy quay phim để làm một “stand-up” giữa trời nắng chang chang, đã phải lặp lại nhiều lần một câu nói làm tôi bị ám ảnh, nên đã thuộc đến tận bây giờ: “Hai mươi năm trước tôi đã đổ bộ vào Đà Nẵng khi còn là một thanh niên 19 tuổi. Chính tại Việt Nam tôi đã hiểu về cuộc chiến tranh, về bản thân, và về đất nước của mình… Chúng ta không nên đưa thanh niên vào chỗ chết, chỉ vì lòng tự hào của mấy ông già”. (Twenty years ago, I landed here in Da Nang as a nineteen years old. It was here in Vietnam that I had learned about the War, about myself and about my country… We should not be in the businees of sending young men to die for the old men’s pride).

Lịch sử thường lặp lại với nhiều nghịch lý. Nước Mỹ đã lặp lại một sai lầm mà tướng Omar Bradley đã từng cảnh báo (15/5/1951): Chiến tranh Việt Nam đã trở thành “một cuộc chiến sai lầm, tại một địa điểm sai, vào một thời điểm sai, và chống một kẻ thù sai” (The wrong war, in the wrong place, at the wrong time, and with the wrong enemy). Tại sao một chính quyền có nhiều người tài giỏi như vậy, mà vẫn mắc sai lầm?  Phải chăng là do “ngạo mạn về quyền lực”, nên họ đã ngộ nhận về “quyền năng tuyệt đối”? Phải chăng do cực đoan và tự phụ nên họ không chịu lắng nghe lời khuyên, mà còn lừa dối Quốc hội và Nhân dân.   

Tại sao Việt Nam

Năm 1990, tôi có dịp gặp ông Archimedes Patti tại Bangkok trong khi ông ấy chờ máy bay đi Việt Nam để dự kỷ niệm sinh nhật cụ Hồ. Ông đã ký tặng tôi cuốn sách “Tại sao Việt Nam” (“Why Vietnam: Prelude to America’s Albatross”, University of California Press, 1980) và kể lại nhiều kỷ niệm với cụ Hồ và OSS. Tuy ông Patti và cuốn sách đã đi vào lịch sử, nhưng câu hỏi Why Vietnam vẫn còn ám ảnh nhiều người Mỹ và người Việt Nam.

Khi tôi hỏi ông Patti là người Mỹ có đọc cuốn sách của ông không, ông buồn rầu trả lời là rất ít người đọc. Mãi sau này người ta mới đưa nó vào danh mục sách tham khảo của các trường đại học. Trong một lần trả lời phỏng vấn (1981), ông Patti nói:Theo tôi, chiến tranh Viêt Nam là một sự lãng phí khồng lồ. Trước hết, nó không cần phải xảy ra. Hoàn toàn không. Không đáng tí nào cả. Trong suốt những năm chiến tranh Việt Nam, không ai đến gặp tôi để tìm hiểu xem điều gì đã xảy ra năm 1945 hoặc 1944. Trong suốt những năm tôi làm việc ở Lầu Năm Góc, Bộ Ngoại giao và Nhà Trắng, không một ai có quyền hành đến gặp tôi cả…”

Năm 1995, nhân kỷ niệm 20 năm kết thúc chiến tranh, ông Robert McNamara đã viêt cuốn sách “Hồi tưởng: Bi kịch và Bài học Việt Nam” (Robert McNamara, “In Retrospect: The Tragedy and Lessons of Vietnam”, Vintage books, 1995). Cuối cùng ông McNamara đã thừa nhận sai lầm. Nhiều người đặt câu hỏi tại sao một người thông minh tài giỏi như vậy, phải mất tới 20 năm mới nhận ra hay thừa nhận sai lầm. Phải chăng nghịch lý quá khó để nhận ra, hay sai lầm quá lớn để thừa nhận? Trong khi sử gia Arthur Schlesinger khen ngợi ông McNamara là dũng cảm và chân thành thừa nhận sai lầm, thì nhiều người khác lại cho rằng ông McNamara thừa nhận sai lầm quá chậm trễ như vậy là thiếu tử tế (indecent). Những người trong cuộc phải hiểu cái giá của sự chậm trễ trước mỗi bước ngoặt của lịch sử. Theo Đại tá Andre Sauvageot, “Đáng lẽ Tổng thống Nixon phải rút quân khỏi Việt Nam sớm hơn…”

Năm 1997, ông H.R. McMaster đã viết cuốn “Bỏ rơi Nhiệm vụ” (H.R. McMaster, “Dereliction of Duty: Lyndon Johnson, Robert McNamara, the Joint Chiefs, and the Lies that led to the War”, Harper, 1997). Đó là nhận xét thẳng thắn của một sỹ quan dũng cảm dám nói ra sự thật, dù là sự thật đau lòng. Chắc lúc đó ông McMaster không biết rằng sau này mình sẽ trở thành Chủ tịch Hội đồng An Ninh Quốc gia. Liệu ông có thể làm gì để sửa chữa sai lầm khi có cơ hội, vì sau Việt Nam, Chính quyền Mỹ tiếp tục nói dối và mắc sai lầm tại Iraq.

Trong cuốn sách đó, McMaster đã nói rõ không chỉ có Chính quyền Johnson đã lừa dối Quốc Hội trong sự kiện Vịnh Bắc Bộ, mà các tướng lĩnh cầm đầu cũng tham gia sự “đồng thuận dối trá” (Contriving consensus). Tướng Earle Wheeler và các tham mưu trưởng liên quân, được gọi là “năm người đàn ông im lặng” (five silent men) đã tiếp tay cho Tổng thống lừa dối Quốc Hội leo thang chiến tranh tại Việt Nam, như gia tăng quân Mỹ để gây sức ép (graduated pressure). McMaster gọi đó là “bãi lầy dối trá” (quicksand of lies).

Nhà báo Peter Arnett (CNN) gọi đó làsự bất tài, dối trá, và ngạo mạn của những quan chức Mỹ cao cấp nhất” (the ineptness, duplicity and arrogance among the most senior officials of the US). Còn nhà báo Joe Galloway (US News & World Reports) đã nhận xét:Những người có quyền lực và trách nhiệm đã gây ra thảm họa chiến tranh và để lại dấu vết khắp nơi…McMaster đã làm sáng tỏ hơn và biết rõ hơn về ‘những người tài giỏi và thông minh nhất’ đã dùng dối trá và bí mật để che đậy cho họ như thế nào, nhằm khuynh đảo và thao túng đất nước, xô đẩy Mỹ trượt theo con đường chiến tranh và thất bại cay đắng” (men of power and responsibility caused that disastrous war and left their fingerprints all over it. He sheds fresh light and understanding on how ‘the best and the brightest’ shielded by lies and top secret, maneuvered and manipulated our country down the road to war and bitter defeat).  

Bất đồng chính kiến

Khác với Robert McNamara (cựu Bộ trưởng Quốc phòng) và McGeorge Bundy (cựu Cố vấn An ninh Quốc gia), George Ball (cựu Thứ trưởng Ngoại giao, 1961-1966) lúc đó đã nhận ra sai lầm và cố khuyên can Tổng thống Kennedy và Johnson đừng can thiệp vào Việt Nam: “Tôi nhìn thấy trước một cuộc phiêu lưu rất nguy hiểm…Chúng ta sẽ sa vào một cuộc xung đột kéo dài, còn nguy hiểm hơn cả Triều Tiên”. Trong số những nhân vật mà David Hamberstam gọi là the Best and the Brightest trong Chính quyền Kennedy, George Ball là thiểu số đơn độc giữa sự đồng thuận dối trá và ngạo mạn về quyền lực. Tuy lập luận của George Ball rất thuyết phục, nhưng họ không buồn nghe, nên ông đã từ chức (năm 1966).       

George Ball là một nhân vật đóng vai phản biện (devil’s advocate) có uy tín trong việc hoạch định chính sách đối ngoại của Mỹ trong thập niên 1960. Ông đã cố thuyết phục Tổng thống Kennedy đừng gửi quân sang Việt Nam và đã cảnh báo từ rất sớm là cuối cùng Mỹ phải đưa tới đó hàng trăm ngàn quân: “Việt Nam như một cái vòng luẩn quẩn với những khe sâu và bãi lầy khó thoát” (Vietnamese detour with its deep ruts and treacherous quicksands). Ông dự đoán chiến tranh sẽ kéo dài, quân Mỹ sẽ mắc kẹt vào một cuộc chiến tranh trong rừng rậm, Trung Cộng sẽ can thiệp, sự ủng hộ của dân chúng Mỹ sẽ mất dần khi thương vong tăng lên, dư luận quốc tế sẽ phản đối chiến tranh, và cuối cùng Mỹ sẽ thất bại.

Ngay từ đầu thập niên 1960, George Ball đã nhấn mạnh giá trị của ngoại giao, và khuyến nghị “rút quân chiến thuật” để tránh thảm họa. Ông kêu gọi ngừng bắn, có ủy ban quốc tế giám sát, tiếp theo là bầu cử tại Miền Nam, cho Việt Cộng tham gia, tiến tới thống nhất Việt Nam. Ông khuyến nghị tìm kiếm một giải pháp ngoại giao, vì nếu thiếu thì Mỹ sẽ khó tránh được thảm họa, dẫn tới thất bại nhục nhã. Lịch sử đã chứng minh George Ball có tầm nhìn sáng suốt, tuy lúc đầu ông không phản đối quyết liệt. Chính ông George Ball và TNS William Fulbright đã ủng hộ “Nghị quyết vịnh Bắc Bộ” (mà George Ball cùng soạn thảo).

Nhưng có lẽ chính họ cũng bị lừa dối, vì sau đó, George Ball ngày càng bất đồng chính kiến, với những khuyến nghị quyết liệt hơn. TNS Fulbright đã viết cuốn “Sự Ngạo mạn của Quyền lực” (William Fulbright, “The Arrogance of Power”, Random House, 1966). Ông cho rằng “quyền lực bị lẫn lộn với đạo đức thì nó thường bị ngộ ngận là quyền năng tuyệt đối” (omnipotence). Ông lập luận “trong một nền dân chủ, bất đồng chính kiến là từ lòng tin, giống như tin vào thuốc chữa bệnh, mà giá trị của nó không phải vị đắng ta nếm, mà là công hiệu của thuốc”. Không phải chỉ có George Ball và William Fulbright bất đồng chính kiến, mà còn một số người khác như TNS Earnest Gruening và TNS Wayne Morse, là hai người dũng cảm trong Thượng viện đã bỏ phiếu chống “Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ” (1964). Sau cuốn sách của Fulbright, Gruening đã viết cuốn Vietnam Folly, góp phần làm thay đổi nhận thức nhiều người Mỹ về Chiến tranh  Việt Nam (Earnest Gruening, “Vietnam Folly”, National Press, 1968).  

Sự kiện Vịnh Bắc Bộ

Ngày 2/8/1964, ba tàu phóng ngư lôi của Bắc Việt Nam đã tấn công tàu khu trục USS Maddox trong vịnh Bắc Bộ (cuộc “tấn công lần thứ nhất”). Hai ngày sau (4/8/1964) tàu USS MaddoxUSS Tuner Joy tiếp tục tuần tra trinh sát tại vịnh Bắc Bộ. Trong đêm tối mịt mù, sóng to gió lớn làm mất tầm nhìn, thủy thủ hai tàu phát hiện trên màn hình radar những đốm sáng và hơn 20 vật thể di chuyển giống ngư lôi của đối phương, nên tàu phải tăng tốc để tránh, thả thủy lôi và bắn trả 650 quả pháo xuống biển (tưởng là cuộc “tấn công lần thứ hai”).

Nhưng sau đó, họ không tìm thấy dấu vết ngư lôi hay tàu của đối phương bị phá hủy hay tháo chạy trước hỏa lực cực mạnh của hai tàu Mỹ. Trong vòng mấy giờ sau đó, thuyền trưởng tàu USS Maddox John Herrick đã gửi điện khẩn về Honolulu báo cáo không phát hiện thấy địch bằng mắt thường, và báo động bị địch tấn công bằng ngư lôi có thể là do thời tiết xấu và phản ứng hồ đồ của các kỹ sư sonar. Ông khuyến nghị “cần đánh giá lại toàn bộ trước khi có hành động tiếp theo” (complete evaluation before any further action taken). Nhưng Bộ trưởng Quốc phòng McNamara đã lập tức khuyến nghị ném bom Bắc Việt Nam, và Tổng thống Johnson đã nghe lời khuyên của McNamara, vội vã tuyên bố Mỹ bị “tấn công vô cớ” (unprovoked attack) trên hải phận quốc tế. Ba ngày sau, hai viện Quốc Hội thông qua “Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ” cho phép Tổng thống toàn quyền hành động, triển khai quân đội Mỹ tại Đông Nam Á. Đó là bước ngoặt để Chính quyền Johnson quyết định leo thang chiến tranh.

Năm 2003, trong bộ phim tài liệu “Sương mù Chiến tranh” (Fog of War) ông McNamara đã thừa nhận “không có cuộc tấn công lần thứ hai, ngày 4/8/1964”. Tổng thống Johnson cũng nói “Theo tôi biết, hải quân của chúng ta đã bắn cá voi ở đó” (For all I know, our navy was shooting at whales out there). Phi công James Stockdale, lúc đó đang lái máy bay hải quân F-8 Crusader bay trên vùng “có chiến sự” đã báo cáo về như sau: “Tôi đang ngồi ở vị trí tốt nhất để quan sát “các tàu khu trục của chúng ta đang bắn vào các mục tiêu bóng ma…Chẳng có cái gì ở đó ngoài nước biển tối đen và hỏa lực của Mỹ” (our destroyers were shooting at phantom targets ... There was nothing there but black water and American firepower).

Năm 2005, Cục An ninh Quốc gia (NSA) đã giải mật nhiều tài liệu bao gồm các bức điện trao đổi xung quanh “Sự kiện Vịnh Bắc Bộ”, nên các sử gia có cơ sở để kết luận là “không có cuộc tấn công lần thứ hai” (ngày 4/8/1964). Sử gia Edwin Moise tin rằng do thời tiết xấu, các đàn cá bơi gần mặt nước, hoặc sự cố cảm biến của radar đã làm các kỹ sư sonar hiểu lầm các tín hiệu trên màn hình. Biển cả đầy rẫy các hiện tượng lạ mà thủy thủ có thể hiểu lầm là mối đe dọa.  Các nhà khoa học đã nghiên cứu và chứng minh thủ phạm trong “sự kiện Vịnh Bắc Bộ” là một loài cá họ mực có tên là pyrosomes, thường đi ăn ban đêm hàng đàn gần mặt nước, với đội hình trông giống quả ngư lôi, tuy tốc độ di chuyển chậm hơn, nhưng cũng phát sáng và tạo vệt sóng, nên hình ảnh trên màn hình radar trông giống ngư lôi.

Giáo sư Todd Newberry (University of California, Santa Cruz) cho rằng hình ảnh và tập quán di chuyển của loài cá pyrosomes khớp với sự cố xảy ra. Newberry cho biết vào mùa hè 1966 ông đã gặp một kỹ sư sonar của tàu USS Turner Joy tại Monterey Bay. Anh ta kể lại sự cố đêm hôm đó với ông Newberry (một giáo sư sinh vật biển). Theo lời anh ta, trên màn hình radar của tàu USS Turner Joy xuất hiện những vật thể trông giống ngư lôi, nhưng cách nó di chuyển không giống những quả ngư lôi mà từ trước tới nay anh ta đã thấy. Câu chuyện của Newberry về loài cá pyrosomes phát sáng là một ví dụ về những ngộ nhận cực đoan của con người về thế giới tự nhiên đa dạng, nhưng có thể làm thay đổi cục diện chiến tranh.
Thực ra hơn nửa thế kỷ qua, các nhà hải dương học đã nghiên cứu và kể lại nhiều mẩu chuyện về loài cá pyrosomes trong các bài giảng ở trường đại học, nhưng ít người để ý (ví dụ trong sự cố Vịnh Bắc Bộ). Trong bộ phim the Fog of War, ông McNamara nói “Chiến tranh quá phức tạp để đầu óc con người có thể hiểu được tất cả các biến số. Nhận định và hiểu biết của chúng ta không đủ, và chúng ta giết người một cách không cần thiết” (War is so complex it’s beyond the ability of the human mind to comprehend all the variables. Our judgment, our understanding, are not adequate. And we kill people unnecessarily).

Bóng ma Việt Nam và Iraq 

Sau Việt Nam, người ta tưởng Mỹ sẽ không bao giờ mắc lại sai lầm nữa. Nhưng Iraq đã làm sống lại bóng ma Việt Nam. Chính quyền Bush đã mắc lại sai lầm cũ, làm mất lòng dân, không chỉ người Mỹ mà còn nhiều dân tộc khác trên thế giới. Tuy Mỹ chống chủ nghĩa khủng bố là đúng, nhưng đã sai khi ngộ nhận và ngạo mạn về quyền lực. Mỹ đã sai khi Washington đi theo chủ nghĩa đơn phương (unilateralism), chỉ dựa vào sức mạnh cứng (hard power) mà quên mất sức mạnh mềm (soft power) làm vũ khí chống khủng bố. Mỹ đã sai lầm khi Chính quyền Bush đã nói dối Quốc hội và nhân dân Mỹ về lý do tấn công Iraq.    

Hình như người ta không chịu học bài học Việt Nam: Bắt đầu một cuộc chiến mà không có tầm nhìn rõ ràng, không biết giới hạn của quyền lực, nên cuối cùng không thắng được và không thu phục được lòng dân địa phương. Iraq một lần nữa lại chia rẽ nước Mỹ khi chiến tranh kéo dài với tổn thất lớn, nhưng không có lối thoát. Có thể nói, bóng ma Việt Nam được phục sinh bởi Iraq, và lịch sử đã lặp lại một lần nữa. Mỹ lại đứng trước thế “tiến thoái lưỡng nan” (như Catch-22): hoặc mất Iraq hoặc phải “Iraq hóa” chiến tranh để Mỹ có thể rút quân nhằm tránh những rắc rối lớn hơn trong nước. Đó không chỉ là thất bại của bộ máy chiến tranh với “sự ngạo mạn của quyền lực”, mà còn là thất bại của một triết lý chiến tranh dược dẫn dắt bởi một tầm nhìn thiển cận, dựa trên chủ nghĩa đơn phương và sức mạnh cứng.

Bài học Việt Nam là một trường hợp điển hình về sức mạnh cứng được sử dụng tối đa, nhưng cuối cùng vẫn thất bại. Ông McNamara đã mất hơn 2 thập kỷ mới nhận ra sai lầm chết người đã xô đẩy nước Mỹ vào một cuộc chiến tàn khốc, không chỉ đem lại thương vong và tổn thất to lớn cho nước Mỹ, mà còn tàn phá Việt Nam “trở về thời kỳ đồ đá” (lời tướng Curtis LeMay), khó tái thiết sau chiến tranh. Kết cục cả Mỹ và Việt Nam đều bị tổn thương và chia rẽ nghiêm trọng, cả về vật chất lẫn tinh thần, đến tận bây giờ vẫn chưa lành vết thương.   

Vì vậy mà hai thập kỷ sau chiến tranh, cuốn sách “Hồi tưởng” của ông McNamara lại mở ra vết thương lòng với vết sẹo Chiến tranh Việt Nam vẫn chưa lành. Ba thập kỷ sau chiến tranh, bóng ma Việt Nam vẫn ám ảnh John Kerry và George Bush trong cuộc vận động tranh cử tổng thống (2004). Đến tận bây giờ, bóng ma Việt Nam vẫn tiếp tục ám ảnh hai quốc gia và và chia rẽ hai cộng đồng người Việt, làm cho hòa giải vẫn vô cùng khó khăn. Nhiều người Việt và người Mỹ vẫn như là “tù binh của quá khứ”, không thể kiến tạo được tương lai.

Hình như có một nghịch lý “yêu-ghét” (love-hate paradox) giữa hai quốc gia, do ám ảnh của quá khứ với mặc cảm tội lỗi (như trường hợp ông Bob Kerrey). Nó nuôi dưỡng những ẩn ức và ngộ nhận do “tư duy cũ” (mindset) bị “bất cập” trước thực tế mới với “khác biệt lớn” (big gaps). Chỉ khi nào những “bất cập” đó được tháo gỡ, mở đường cho thiện chí hợp tác dựa trên những giá trị nhân bản của con người, thì mới có thể hàn gắn được vết thương lòng và vết sẹo chiến tranh. Quá trình này chỉ có thể thực hiện được khi quan hệ con người được xây dựng trên nền tảng “sức mạnh mềm” để khai thác được tiềm năng con người qua giao lưu và kết nối, như “hệ quả không định trước” của chiến tranh, với một tầm nhìn mới về tương lai.

Nhà báo David Lamb (Nieman Fellow, LA Times, mất năm 2016) nhận xét: “Một trong những sai lầm lớn nhất của chúng ta là không hiểu người Việt Nam, không hiểu lòng kiên nhẫn, sự ngoan cường, chủ nghĩa dân tộc, khả năng chiến đấu, lịch sử, văn hóa, và ngôn ngữ của họ. Đối với thắng thua trong chiến tranh thì đó là sự thiếu hiểu biết chết người. Tôi ước rằng Mỹ đã có thể rút ra được bài học kinh nghiệm từ Việt Nam, nhưng đáng tiếc là chúng ta lại sa vào cuộc chiến tại Iraq, một thảm họa không khác cuộc chiến tranh Việt Nam”.

Thoát Trung và Biển Đông

Trong Chiến tranh Việt Nam, Mỹ đã từng đánh Bắc Việt Nam để bảo vệ Nam Việt Nam nhằm ngăn chặn Trung Quốc. Nhưng sau khi Mỹ bắt tay với Trung Quốc, họ đã bỏ rơi Nam Việt Nam (năm 1975). Trong mấy thập kỷ tiếp theo, Mỹ đã hợp tác và giúp Trung Quốc trỗi dậy bằng chính sách “tham dự tích cực” (Constructive Engagement), với hy vọng Trung Quốc sẽ “trỗi dậy hòa bình”. Nhưng đáng tiếc, Trung Quốc đã bộc lộ bộ mặt thật hung hăng như con quái vật Frankeinstein (lời cố Tổng thống Nixon). Trung Quốc bắt nạt các nước láng giềng, quân sự hóa Biển Đông để độc chiếm nó như cái ao riêng của mình, đồng thời thách thức vai trò và lợi ích cơ bản của Mỹ và các đồng minh / đối tác tại Châu Á. 

Năm 1964-1965, tàu chiến Mỹ thuộc Hạm đội 7 (như tàu khu trục USS Maddox) đến Vịnh Bắc Bộ để chống Việt Nam. Còn bây giờ tàu khu trục USS John McCain đến Cam Ranh để hợp tác với Việt Nam nhằm ngăn chặn Trung Quốc bành trướng tại Biển Đông. Lịch sử đang lặp lại “Trò chơi Vương quyền” (Game of Thrones), nhưng đổi chỗ diễn viên theo luật chơi mới với kịch bản mới. Lịch sử Việt Nam có nhiều nghịch lý và uẩn khúc bất thường. Làm thế nào người Việt Nam có thể bảo vệ được chủ quyền quốc gia và lợi ích dân tộc, mà không để các nước lớn lợi dụng biến mình thành quân cờ của họ trong bàn cờ nước lớn?

Bàn cờ Biển Đông đầy cạm bẫy, nhất là từ khi Trung Quốc đưa giàn khoan HD981vào Biển Đông, như một bước ngoặt bất ngờ gây ra cuộc khủng hoảng Viêt-Trung (5/2014). Việt Nam đã phải trả giá quá nhiều và quá lâu, bởi những sai lầm của kẻ khác, cũng như của chính mình, trong cuộc Chiến tranh Việt Nam, cũng như suốt thời hậu chiến (sau 1975), với cuộc chiến “bạn thù” với Campuchia và Trung Quốc. Sau bài học đẫm máu xung đột Viêt-Trung (2/1979), là bài học xương máu Thành Đô (9/1990). Đã đến lúc người Việt phải quyết tâm đổi mới tư duy, vượt qua ý thức hệ đã lỗi thời, để đổi mới thể chế và kiến tạo lại tương lai.  

Có thể nói “thoát Trung” không phải là “bài Trung” (chống Trung Quốc) mà thực chất là đổi mới tư duy và ý thức hệ đã lỗi thời để đổi mới thể chế, nhằm kiến tạo một nước Việt Nam độc lập và tự cường, có thể bảo vệ được chủ quyền quốc gia và lợi ích dân tộc của mình. Nói cách khác, muốn “tái cân bằng tích cực” (active rebalance) với Trung Quốc, Việt Nam cần phải hợp tác chặt chẽ với các nước lớn (như Mỹ, Nhật, Ấn) trong khuôn khổ đối tác chiến lược vì an ninh tập thể, nhưng không nên quá phụ thuộc vào các nước lớn (như hiện nay đang phụ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc). Đã đến lúc Việt Nam phải đổi mới thể chế toàn diện, bao gồm đổi mới những nguyên lý cơ bản của chính sách đối ngoại, trong bối cảnh mới.

Thay lời kết

Trong một bài diễn văn để vinh danh TNS John McCain và TNS John Kerry vì đã đóng góp cho hòa giải Mỹ-Việt (Boston, 2001), Đại sứ Mỹ Pete Peterson nói: “Chiến tranh không chấm dứt khi ngừng tiếng súng…Chiến tranh chỉ thực sự chấm dứt khi hai bên hòa giải với nhau”. Nhưng hòa giải không chỉ diễn ra trên bàn đàm phán giữa hai chính phủ, mà còn diễn ra trên chiến trường xưa, giữa những cựu chiến binh đã từng bắn giết lẫn nhau, và trong lòng những người thân của họ (ở cả hai phía). Nó đòi hỏi phải vươt qua thù hận và định kiến.

Cách đây không lâu, cựu ngoại trưởng John Kerry đã nói tại một cuộc hội thảo tại California (10/10/2016): “Tôi đã từng chiến đấu tại Việt Nam. Chúng tôi tưởng là đến đây để ngăn chặn nơi này biến thành cộng sản… Nhưng nay chỉ có chủ nghĩa tư bản cuồng nhiệt tại Việt Nam”.  Dù đúng hay sai, ông Kerry phản ánh một nghịch lý trớ trêu tại Việt Nam. Thực ra, đó cũng là “hệ quả không định trước” (unintended consequences). Nhưng đáng buồn là Việt Nam đang bị nhầm lẫn chạy theo những gì tồi tệ nhất của CNXH và CNTB. Đó là “CNXH thân hữu” để bảo kê cho thế lực “Tư bản Đỏ” (còn gọi là “các nhóm lợi ích”), lợi dụng “định hướng XHCN” để thao túng chế độ và cướp đoạt thành quả cách mạng của thế hệ trước. 

Ông Phạm Xuân Ẩn, (“Điệp viên Hoàn hảo”) có kể với tôi một câu chuyện vui đầy nghịch lý. Khi ông đến gặp một quan chức CIA vừa mới tới Sài Gòn (khoảng năm 1961-1962), ông bạn Mỹ đã khuyên ông Ẩn phải cẩn thận với ông Ngô Đình Nhu. Khi ông Ẩn hỏi tại sao thì được ông ấy “bật mí” rằng ông Ngô Đình Nhu “có thể là cộng sản”. Ông Ẩn về kể lại câu chuyện đó với ông Nhu. Sau mấy giây ngỡ ngàng, ông Nhu phá ra cười. Khi ông Ẩn hỏi “tại sao toi lại cười?” ông Nhu đã trả lời (không biết đùa hay thật) “có lẽ nó nói đúng đấy…”. Việt Nam đầy nghịch lý. Nhưng có một nguyên lý cần phải nhớ là trên đời này “không có đồng minh hay kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có lợi ích quốc gia là vĩnh viễn” (Winston Churchill).  

Tham khảo
1. William Fulbright, “The Arrogance of Power”, Paperback, 1966)
2. Robert McNamara, “In Retrospect: The Tragedy and Lessons of Vietnam”, Vintage, 1995
3. H.R. McMaster, “Dereliction of Duty: Lyndon Johnson, Robert McNamara, the Joint Chiefs, and the Lies that led to the War”, Harper, 1997).
4. Errol Morris, “The Fog of War: Eleven Lessons from the Life of Robert McNamara”, Sony Pictures Classics (documentary), May 2003.  
5. Nguyen Quang Dy,Iraq has revived the ghosts of Vietnam, Nieman Watchdog Discussion, May 31, 2006
6. Chris Reeves, “Did a Glowing Sea Creature Help Push the US Into the Vietnam War?”, Atlantic, July 11, 2017
7. Ken Burns & Lynn Novick, “The Vietnam War”, Florentine Films & WETA (documentary), September 2017

NQD.18/7/2017



Thứ Hai, 10 tháng 7, 2017

Phép thử Cam Ranh

Phép thử Cam Ranh

Cam Ranh và những câu chuyện xung quanh nó thực sự là một câu chuyện dài kỳ; và đó cũng có thể gọi là điểm nhấn lớn nhất của bàn cờ chiến lược Biển Đông với Trung Quốc và ĐNÁ, và cũng là cả châu Á nữa đối với Mỹ, Nga, Trung Quốc.

Việt Nam chúng ta sở hữu Cam Ranh đúng là một của thiên bảo với đủ nghĩa đen và nghĩa bóng. Tuy nhiên việc có Cam Ranh và việc sử dụng quân cảng quan trọng này như thế nào để phục vụ cho công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước là 2 điều "không giống nhau" (hay là sự "tỉ lệ thuận"), mà thậm chí còn là "rất khác nhau" nữa.

Trong thư email, tác giả Nguyễn Quang Dy viết rằng: "Đây là bài thứ ba trong 3 bài (trilogy) viết về chủ đề Biển Đông, theo yêu cầu của một số bạn bè". Theo anh Dy thì lúc này viết về Cam Ranh là "rất khó" vì anh cho rằng "còn nhiều ẩn số chưa biết, chưa thể nói rõ và chưa nên viết ra".

Chính vì như vậy mà bài viết dưới đây của anh chỉ mới dám "tổng hợp tư liệu cả cũ lẫn mới (như bốc thuốc bắc), hy vọng vẽ một bức tranh sáng sủa và chia sẻ vài suy nghĩ tích cực để cùng tham khảo". (NQD).

Với tinh thần Tham khảo này, blog tôi xin giới thiệu toàn văn bài viết để bạn bè chia sẻ.

Đầu đề entry là của blog; còn đầu đề bài viết từ nguyên văn của tác giả.

Vệ Nhi/NV

-------


Cam Ranh và hơn thế nữa

Nguyễn Quang Dy

Gần đây, vấn đề Cam Ranh lại nổi lên với những đồn đại (lúc thực lúc hư), như một ẩn số và biến số, trong một đất nước có quá nhiều hằng số. Quy chế Cam Ranh rất nhạy cảm, trong bối cảnh quan hệ Trung-Việt đang căng thẳng do Việt Nam xích lại gần Mỹ và Nhật (qua 2 chuyến đi gần đây của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc) và do Việt Nam tiếp tục thăm dò dầu khí tại Biển Đông (mỏ khí Cá Voi Xanh và mỏ dầu Cá Rồng Đỏ), bất chấp sức ép của Trung Quốc. Vai trò của Cam Ranh còn quan trọng hơn người ta tưởng, vì nó không chỉ là một căn cứ hải quân có vị thế chiến lược đặc biệt ở Biển Đông (và Tây Thái Bình Dương) mà còn là một ẩn số và biến số trong ván cờ Biển Đông, có thể làm thay đổi cuộc chơi (game changer). 


Quang cảnh Vịnh Cam Ranh

Lịch sử Cam Ranh

Cách đây 112 năm, trong cuộc chiến tranh Nga-Nhật (1904-1905), Hạm đội Baltic của Nga Hoàng với hơn 40 chiến hạm (do đô đốc Rodzestvenski chỉ huy) đã đến trú tại vịnh Cam Ranh gần một tháng để chờ tiếp liệu, sau hành trình vòng quanh thế giới từ Baltic. Đó là khoảng lặng trước cơn bão, khi hạm đội Baltic xấu số của Nga bị hạm đội Nhật (do đô đốc Togo chỉ huy) tiêu diệt tại eo biển Tsushima (27/5/1905). Trong trận chiến định mệnh đó, hạm đội Nga đã bị mất tới 34 chiến hạm và hơn 4.800 người. Tổn thất nặng nề tại Tsushima (tiếp theo tổn thất tại cảng Arthur) đã làm cho đế quốc Nga suy xụp, phải ký hòa ước với Nhật.

Năm 1887, một chiến hạm Nga đã được lệnh đi vòng quanh thế giới để đánh giá vai trò của các hải cảng ở vùng biển Thái Bình Dương, trong trường hợp có xung đột Nga-Nhật. Chiến hạm này đã ghé thăm khoảng 30 hải cảng trong vòng 6 tháng, trong đó có Cam Ranh (12/1887). Trước trận chiến Tsushima, 4 thiết giáp hạm và 1 tuần dương hạm thuộc Hải đoàn Thái Bình Dương số 3 của Nga (do Chuẩn đô đốc Nebogatov chỉ huy) đã tới Cam Ranh để nhập với Hạm đội Baltic của đô đốc Rodzestvensky (9/5/1905). Nhưng sau đó, trước sức ép của Nhật và Anh, Pháp đã yêu cầu hạm đội Nga phải rời Cam Ranh. Theo đánh giá của một số nhà lịch sử quân sự Nga, Hạm đội Baltic đã dừng quá lâu tại Cam Ranh nên đô đốc Togo đã có đủ thời gian để nghiên cứu kỹ đối phương và dàn trận phục kích hạm đội Nga tại Tsushima.

Năm 1935, Pháp bắt đầu xây dựng căn cứ hải quân Cam Ranh. Năm 1940, Cam Ranh rơi vào tay Nhật, trở thành bàn đạp để Nhật tiến đánh Malaysia và Indonesia. Sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời (9/1945), Cam Ranh được chọn làm nơi hội đàm giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh và Cao ủy Pháp D’Argenlieu (18/10/1946). Vì nhiều lý do, quá trình đàm phán không kết quả, nên người Pháp và người Việt đã bị xô đẩy vào cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, kéo dài đến năm 1954, và kết thúc bằng trận Điện Biên Phủ.  

Trong cuộc Chiến tranh Việt Nam, từ 1965-1972 người Mỹ đã chi hơn $300 triệu để mở rộng Cam Ranh thành một căn cứ quân sự khổng lồ “bất khả xâm phạm”, làm cứ điểm tiếp liệu cho chiến tranh. Cùng với quân cảng Subic tại Philippines, Cam Ranh có thể khống chế hành lang Tây Thái Bình Dương. Theo đánh giá của các chuyên gia quốc tế, Cam Ranh là cảng nước sâu tự nhiên tốt nhất tại khu vực Đông Nam Á, có thể đón nhiều loại tàu lớn (gồm cả tàu sân bay). Với địa thế vịnh Cam Ranh kín đáo không bị gió bão và dễ phòng thủ, Cam Ranh là quân át chủ bài có vị trí chiến lược hiểm yếu đối với bàn cờ Biển Đông. 

Cách đây gần 4 thập kỷ, trước chiến tranh biên giới Viêt-Trung, Việt Nam và Liên Xô đã ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác (3/11/1978), và Hiệp định Phòng thủ Chung (2/5/1979) cho Liên Xô sử dụng Cam Ranh 25 năm, như một căn cứ quân sự (gần như miễn phí), đến năm 2002 họ mới rút. Trong thời kỳ “Chiến tranh Lạnh”, Cam Ranh trở thành căn cứ quân sự lớn nhất của Liên Xô ở nước ngoài, và là tiền đồn để Liên Xô cạnh tranh với Mỹ và kiềm chế Trung Quốc. Mặc dù người Nga vẫn luyến tiếc, cho rằng bỏ Cam Ranh là quyết định sai lầm và muốn quay lại, nhưng khả năng đó bất khả thi, vì lý do tài chính và chiến lược. 

Tháng 3/1988, khi Trung Quốc tấn công chiếm Gac-Ma và 7 bãi đá (thuộc Trường Sa) của Việt Nam, đồng minh Liên Xô đã án binh bất động. Vào lúc đó, không quân Liên Xô tại Cam Ranh có 15 chiếc MIC-25, 4 chiếc TU-95, 4 chiếc TU-142, và 20 chiếc TU-16, và hải quân có hải đoàn cơ động số 17 đang đóng quân tại đó. Trong lịch sử gần đây, người Mỹ và người Nga đều đã từng bỏ rơi đồng minh Việt Nam (khi bị Trung Quốc tấn công). Điều đó không có gì quá ngạc nhiên, mà chỉ khẳng định “không có bạn bè hay kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có lợi ích quốc gia là vĩnh viễn”. Chỉ có những người ngây thơ và ảo tưởng mới bị mơ hồ ngộ nhận. Vì vậy, Việt Nam càng phải độc lập tự cường bằng cách phát huy nội lực dân tộc.  

Trong nhiều năm qua, Việt Nam theo đuổi chính sách “3 không” (không liên minh quân sự, không có căn cứ quân sự nước ngoài và không liên minh với một nước này để chống lại một nước kia). Nhưng chính sách “3 không” đó thiếu linh hoạt và chính sách cân bằng đó thụ động, nên Việt Nam thiếu đồng minh thực sự. Sau khi Cảng Quốc tế Cam Ranh mở cửa (3/2016), Cam Ranh đã đón 19 tàu từ 10 quốc gia, trong đó Mỹ và Trung Quốc là hai nước có nhiều tàu đến nhất. Về nguyên tắc, quân cảng Cam Ranh mở rộng cửa đón tiếp tàu chiến của bất kỳ nước nào sẵn sàng trả tiền để có được dịch vụ sửa chữa và tiếp nhiên liệu.

Quân át chủ bài Cam Ranh

Không phải vô cớ mà Mỹ đã bỏ Subic và Nga đã bỏ Cam Ranh. Chiến tranh lạnh chấm dứt đã làm cho Mỹ và Nga không còn nhu cầu thiết yếu phải duy trì các căn cứ quân sự vừa tốn kém vừa gây tranh cãi. Lúc đó dù Manila có giảm giá thuê Subic xuống còn $500 triệu thì Mỹ cũng không quay lại.  Mỹ chỉ cần quy chế sử dụng dịch vụ bến cảng cho tàu chiến của họ (port calls). Chỉ từ khi Trung Quốc trỗi dậy, bộc lộ tham vọng độc chiếm Biển Đông như cái ao của họ và thách thức vai trò của Mỹ thì Cam Ranh mới trở lại màn hình radar.   


        Tàu ngầm Kilo 636MV tại Cam Ranh

Trong khi dư luận Trung Quốc đánh giá cao Cam Ranh, “trong cả châu Á không thể tìm đâu một quân cảng nào độc đáo và nguy hiểm như Cam Ranh…”, thì dư luận Mỹ cũng nhận xét, “Ai chiếm được vịnh Cam Ranh, người đó sẽ khống chế được một nửa Trung Quốc, và có thể kiểm soát được tuyến đường giao thông biển Á-Âu…” Một chuyên gia Nhật (Hiroyuki Noguchi) cho rằng, “Cam Ranh là khắc tinh của ‘Đường Lưỡi bò’ với địa thế độc đáo trên bàn cờ khu vực Đông Nam Á.  Cam Ranh của Việt Nam có thể là ‘thanh kiếm sắc’ chặn đứng mưu đồ của Trung Quốc thò ‘Đường Lưỡi bò” ra Biển Đông”. Theo Noguchi, “Nếu kết hợp căn cứ Cam Ranh với căn cứ Sucbic của Philippines, cả hai sẽ tạo thành hai lưỡi kéo sắc có thể khống chế sự bành trướng của đường lưỡi bò”.  (Theo Đại Kỷ Nguyên, 14/3/201).

Theo Trung Tướng Nga A.V. Phêđôrôvích (đã từng có mặt tại Cam Ranh trong thập niên 1980), “Cam Ranh đã âm thầm phát triển, trở thành một tổ hợp hải quân và không quân hùng mạnh, với các trang thiết bị kỹ thuật hiện đại, có thể đánh trả mọi đe dọa chiến tranh đối với Việt Nam…”. Chuẩn đô đốc E.I. Prokôpievich, là người cuối cùng rời Việt Nam năm 2002 với vai trò là Tư lệnh căn cứ Cam Ranh, đã nhận xét, “Cam Ranh cho phép khống chế các eo biển Malaysia và Philippines, có thể tiến hành trinh sát điện tử Biển Đông, biển Philippines, biển Hoa Đông, thậm chí tới tận bắc Ấn Độ Dương và Persian Gulf”.

Bán đảo Cam Ranh chạy từ Bắc xuống Nam, được bao bọc bởi nhiều đảo to nhỏ khác nhau, có lợi thế của một cảng nước sâu kín gió. Quân cảng Cam Ranh có diện tích 60km2, nước sâu trung bình 16-25m (có nơi 32m), có thể chứa được cùng lúc 40 chiến hạm cỡ lớn (kể cả tàu sân bay). Cửa vịnh Cam Ranh rộng 4.000m, sâu hơn 30m, toàn bộ vịnh Cam Ranh nằm lọt trong những ngọn núi cao hơn 400m nên kín gió và dễ phòng thủ. Nói cách khác, Cam Ranh là một pháo đài “khó công, dễ thủ”, như quân át chủ bài trong ván cờ Biển Đông. Nếu đặt hệ thống tên lửa và radar tại những điểm cao trên núi thì có thể khống chế cả vùng biển và vùng trời Biển Đông (bao gồm Trường Sa và Hoàng Sa) tới tận eo Mallaca và Philippines.   

Cam Ranh nằm gần tuyến đường vận tải biển quốc tế, thuận tiện cho dịch vụ hậu cần trong khu vực, có thể kiểm soát được tuyến đường vận tải biển nối Ấn Độ Dương với Thái Bình Dương. Sân bay quốc tế Cam Ranh có đường băng dài 3.000m, đủ khả năng tiếp nhận các máy bay cỡ lớn (như C-5 “Galaxy”, C-141 “Star Lifter”, IL-76, B-52, Tu-95). Đối với các nước, quy chế sử dụng Cam Ranh vẫn là một vấn đề nhạy cảm, nên việc sử dụng nó như một cảng quốc tế, hay cho thuê như một căn cứ quân sự, là hai vấn đề hoàn toàn khác nhau. 
 

           Tàu USS Colorado (LCS 4) tại Cam Ranh, 5/7/2017

Cam Ranh và “tứ cường”

Trung Quốc và các nước khác đều hiểu ngầm là Mỹ không thể bỏ qua Cam Ranh trong ván cờ Biển Đông. Vấn đề Mỹ quay lại Cam Ranh chỉ là thời gian và điều kiện cụ thể (như giá cả). Chuyến thăm Cam Ranh của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta (6/1912) là dấu hiệu Mỹ muốn quay lại Cam Ranh, trong chiến lược xoay trục sang Châu Á. Tất cả các căn cứ quân sự khác trong khu vực như Changi (Singapore), Jokosuka (Nhật Bản), Busan (Hàn Quốc), Apra (Guam) đều không thể so sánh được với Cam Ranh (chỉ cách Trường Sa/Hoàng Sa khoảng 600km). Trong khi đó, căn cứ hải quân Subic đã bị núi lửa Pinatubo tàn phá nhiều. Theo một chuyên gia Trung Quốc (ông Cao Vinh Vĩ), “Cam Ranh hết sức quan trọng đối với Việt Nam, vì nó có khả năng khống chế đối với bất cứ đảo nào tại Biển Đông, cao hơn bất cứ căn cứ hải quân nào của Trung Quốc hiện nay. Vì thế, Việt Nam chắc chắn sẽ biến nó thành một căn cứ quân sự quan trọng nhằm tranh giành Biển Đông với Trung Quốc… 

Liệu Nga hay Mỹ sẽ trở lại Cam Ranh? Cam Ranh có thể là mục tiêu cạnh tranh của Nga và Mỹ trong chiến lược quay trở lại Châu Á của hai siêu cường quân sự này. Nhưng vấn đề là nước nào có tiềm năng hơn về tài chính cũng như có ưu thế hơn về chiến lược tại Biển Đông. Nhưng chắc cả Mỹ và Nga đều không muốn Cam Ranh (và Việt Nam) rơi vào tay Trung Quốc. Những bước tiến xích lại gần nhau hiện nay giữa Mỹ và Việt Nam là một chỉ dấu rõ hơn về hướng chuyển động trong tam giác chiến lược Mỹ-Trung-Nga. Quân cờ Cam Ranh đang nằm trên bàn cờ, sẽ được ngã giá để ẩn số thành biến số, trong “trò chơi vương quyền”.  

Nếu hai bên đã thỏa thuận được về nguyên tắc, thì vấn đề còn lại là giá cả. Để tham chiếu, giá Mỹ đã thuê Subic là $3 tỷ/năm, trong khi giá Liên Xô đã thuê Cam Ranh chỉ có $224 triệu/năm. Nhưng đó là giá cả thời trước, nay thực tế đã thay đổi nhiều. Về thời hạn, Hà Nội đã cho Liên Xô sử dụng 25 năm (có thể gia hạn), còn Mỹ chắc muốn lâu dài hơn (75 năm). Trong khi những vấn đề trên vẫn còn là ẩn số, thì bàn cờ Biển Đông đang biến chuyển.

Quá trình vận đông tăng cường quan hệ đối tác chiến lược song phương là để từng bước hình thành quan hệ đối tác chiến lược đa phương mới “Mỹ-Nhật-Ấn-Úc+1” (Việt Nam/ASEAN). Quan hệ đối tác chiến lược song phương Mỹ-Việt và Nhật-Việt vừa được nâng lên một bước rất quan trọng (significant) mang cả ý nghĩa chiến lược và kinh tế, qua 2 chuyến thăm Mỹ và Nhật gần đây của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, được thể hiện trong tuyên bố chung, cũng như bằng hành động thực tế đang diễn ra trên bàn cờ Biển Đông. Về lâu dài, lợi ích chiến lược của Việt Nam gắn liền với lợi ích chiến lược của “tứ cường” trong nhóm “4+1”.
Vì vậy, Việt Nam tất yếu phải giành cho các “đối tác chiến lược 4+1” một “quy chế đặc biệt” (special status) trong việc sử dụng căn cứ Cam Ranh, như một yếu tố gắn kết các đối tác chiến lược với nhau. Trước mắt, trong giai đoạn quá độ, “quy chế đặc biệt” này trên thực tế không biến Cam Ranh thành “căn cứ quân sự”, và các “đối tác chiến lược 4+1” “trên thực tế (de facto) không phải là “liên minh quân sự”. Tuy Việt Nam không liên minh với nước này để chống lại nước kia, nhưng phải có đồng minh chiến lược. Đây là một chính sách “3 không linh hoạt” trong khuôn khổ “đối tác chiến lược 4+1”. Đối tác toàn diện Mỹ-Việt có ý nghĩa hợp tác chiến lược, tuy chưa chính thức nâng lên thành “đối tác chiến lược toàn diện”.  

Chương trình Hợp tác Quốc phòng Viêt-Mỹ có thể bao gồm nhiều lĩnh vực liên quan đến hợp tác chiến lược như: anti-surface warfare (ASUW), anti-submarine warfare (ASW), maritime domain awareness (MDA), early warning, and command, control, communications, computers, intelligence, surveillance and reconnaissance (C4ISR). Sau khi ông Obama tuyên bố bỏ cấm Vận vũ khí, Việt Nam quan tâm muốn mua máy bay tuần tra biển P-3C Orion và máy bay tiêm kích F-16 (để thay thế cho thế hệ MIG-21). Viet Nam cũng muốn được hưởng quy chế giống chương trình Mỹ bán máy bay P-3C cho Đài Loan, và giống chương trình Mỹ bán máy bay F-16 EDA cho Indonesia (dưới thời chính quyền Obama). Vừa qua, Mỹ (và Nhật) đã tiến hành bàn giao cho Việt Nam một số tàu tuần duyên/tuần tra, để nâng cao năng lực cảnh sát biển Việt Nam. Hàn Quốc cũng khẳng định bàn giao cho Việt Nam 2 tàu hộ tống săn ngầm (Gimcheon PCC-761 và Chungju PCC-762) thuộc thế hệ 3 (Flight III) của lớp chiến hạm Pohang (1.300 tấn), vừa được giải ngũ (decommissioned) năm 2015 và 2016. Xu hướng này tuy đúng hướng (on track) nhưng hơi muộn, vì bàn cờ Biển Đông chuyển quá nhanh. 



       Tàu hộ tống frigate lớp Gepard

Cam Ranh và Nước Nga  

Từ 28/6 đến 1/7/2017, CTN Trần Đại Quang đã thăm chính thức Nga (lần đầu tiên). Ông Quang đã yêu cầu Nga tiếp tục ủng hộ Việt Nam trong tranh chấp tại Biển Đông, “Chúng tôi đề nghị chính phủ Nga và Quốc hội Nga tiếp tục ủng hộ lập trường của chúng tôi về vấn đề Biển Đông”. Trong dịp này, hai bên đã ký nhiều hợp đồng (trị giá $10 tỷ), trong đó chắc bao gồm các hợp đồng mua vũ khí (như 64 xe tăng T-90s, 2 tàu chiến Gepard mới, và tổ hợp tên lửa phỏng không Pantsir-ME để lắp cho các tàu chiến lớp Molniya và Gepard)

Trong bài phân tích “Kế hoạch của Putin tại Biển Đông”, Oilprice (một think tank của Nga) lập luận rằng Nga muốn quan hệ tốt với cả Trung Quốc và Việt Nam, vì Nga vừa có mục tiêu toàn cầu vừa có mục tiêu khu vực. Ván cờ ngoại giao của Nga vừa có tính toàn cầu vừa có tính khu vực, nên đôi khi hai mặt này chồng chéo lên nhau, gây khó hiểu. Đối với Nga, vấn đề Biển Đông là một phần của ván cờ lớn toàn cầù. Vấn đề Biển Đông và đối sách của Nga là biến số chứ không phải là hằng số. (Nói cách khác Nga thực dụng và cơ hội). 

Về nguyên tắc, Mátxcơva  tuyên bố “chưa bao giờ can dự vào tranh chấp ở Biển Đông” và “không đứng về bên tranh chấp nào”. Nhưng về thức tế, Matxcơva vẫn có những mục tiêu chiến lược và quyền lợi trực tiếp, như các hợp đồng nhiều tỷ USD về khai thác dầu khí và bán vũ khí cho các bên tranh chấp tại Biển Đông. Vì vậy, hành động của Nga có thể không giống với tuyên bố chính thức (nói một đằng làm một nẻo). Matxcơva muốn hợp tác tốt với cả Bắc Kinh và Hà Nội, nên ý đồ của Nga khó hiểu hơn (vì hai mặt và bắt cá hai tay).

Cả Nga và Trung Quốc đều muốn thách thức sự thống trị của Mỹ, làm hai nước xích lại gần nhau, nên Putin coi “Trung Quốc là đối tác tự nhiên và đồng minh tự nhiên”. Theo Oilprice, quan hệ đối tác chiến lược Nga-Việt (với yếu tố quân sự) còn tốt hơn triển vọng tăng cường quan hệ đối tác Mỹ-Việt. Tuy Bắc Kinh khăng khăng chống lại quốc tế hóa tranh chấp Biển Đông, nhưng họ vẫn chấp nhận quan hệ hợp tác quân sự Nga-Việt. 

Hiện nay, quan hệ Nga-Việt đã được nâng lên thành “đối tác chiến lược toàn diện”. Matxcơva muốn tăng cường hợp tác với Hà Nội về dầu khí, xuất khẩu vũ khí, công nghệ quốc phòng, và muốn trở lại Cam Ranh. Việt Nam còn là cửa ngõ để Nga thâm nhập vào cộng đồng ASEAN. Oilprice cho rằng hợp tác với Nga, Việt Nam tiếp cận được công nghệ vũ khí tiên tiến và khai thác được năng lượng, đồng thời tránh bị kẹt vào xung đột Mỹ-Trung. (Phải chăng người Nga chỉ muốn Việt Nam trở là thị trường và công cụ của họ?).

Nhưng Matxcơva giải thích thế nào khi Trung Quốc tấn công Việt Nam chiếm đảo Gac-Ma và 7 bãi đá tại Trường Sa (3/1988), thì người Nga lại án binh bất động, trong khi họ là đồng minh chiến lược, với cam kết “phỏng thủ chung”, đang sử dụng căn cứ quân sự Cam Ranh của Việt Nam. Và tại sao năm 2016 khi Việt Nam và nhiều nước khác phản đối “đường lưỡi bò” của Trung Quốc, thì Nga và Trung Quốc lại tập trận chung tại Biển Đông (Joint Sea 2016) ngay sau phán quyết của Toà trọng tài Quốc tế (PCA) phủ nhận “đường lưỡi bò”? Sau những trải nghiệm đó, liệu Nga còn là một đồng minh đáng tin cậy nữa không? 

 

                 Tàu hộ tống corvette lớp Molniya

Cam Ranh và hơn thế nữa

Quan hệ hợp tác song phương Viêt-Úc đã có từ lâu, triển vọng sắp tới chắc sẽ được tăng cường hơn nữa, đặc biệt là hợp tác về hải quân và tuần tra tại Biển Đông. Tuyên bố cứng rắn của Thủ tưởng Úc Mancolm Turnbull tại diễn đàn Đối thoại Shangi-La (Singpapore, 2/7/2017) là một dấu hiệu tích cực, tiếp theo tuyên bố cứng rắn của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ James Mattis. Việt Nam và Úc đã từng hợp tác về dầu khí tại Biển Đông (lô 136-03) qua công ty Talisman (Úc) nay nhượng lại cho công ty Repsol (Tây Ban Nha). Từ 21/6/2017, dàn khoan Deepsea Metro I của Odfjell Drilling tiếp tục khoan thăm dò tại lô 136-03.

Một diễn biến mới là Phó thủ tướng/Ngoại trưởng Phạm Bình Minh vừa đi Ấn Độ (4/7/2017) để kêu gọi Ấn Độ có vai trò lớn hơn đối với chiến lược và an ninh của ASEAN. “ASEAN ủng hộ Ấn Độ có vai trò lớn hơn về chính trị và an ninh, để kiến tạo một khu vực dựa trên luật pháp quốc tế. Chúng tôi hy vọng Ấn Độ tiếp tục là đối tác cùng nỗ lực với chúng tôi duy trì an ninh chiến lược và tự do hàng hải ở Biển Đông trên cơ sở luật pháp quốc tế”.

Theo Reuters, Việt Nam đã cho công ty dầu khí Ấn Độ ONGC Videsh tiếp tục thăm dò tại lô 128, “vì lợi ích chiến lược, chứ không hẳn vì tiềm năng thương mại”. Theo một quan chức ONGC Videsh, “Việt Nam muốn chúng tôi tới đó vì Trung Quốc can thiệp ở Biển Đông. Việt Nam vừa gia hạn 2 năm cho hợp đồng dầu khí này, sau khi Ngoại Trưởng Việt Nam thăm Ấn Độ để trao đổi về tăng cường hợp tác chiến lược và an ninh tại Biển Đông. Vietnam Goes Bold In the South China Sea”, American Interests, July 6, 2017).

Ngày 5/7/2017,  tàu tác chiến ven bờ USS Coronado (LCS-4) và USNS Salvor (T-ARS-52) của Hải quân Mỹ đã cập cảng quốc tế Cam Ranh, bắt đầu hoạt động Giao lưu Hải quân (NEA) giữa Việt Nam và Mỹ, kéo dài 4 ngày. Đáng chú ý là hoạt động giao lưu hải quân hai nước diễn ra chỉ 3 ngày sau khi chiến hạm USS Stethem tuần tra (FONOP) trong phạm vi 12 hải lý quanh đảo Tri Tôn, thuộc Hoàng Sa (2/7/2017). Có lẽ đây là dấu hiệu Washington muốn trấn an các nước đồng minh Châu Á và tỏ ý thất vọng vì Bắc Kinh không chịu gây thêm sức ép với Bắc Triều Tiên để kiểm soát chương trình hạt nhân và thử tên lửa của họ. Có lẽ xu hướng Mỹ cứng rắn lên và hỗ trợ đồng minh mạnh lên để đối phó Trung Quốc là đúng hướng (on track), vì “America first” không phải là America alone. Mỹ không nên chơi ván cờ Biển Đông một mình, vì đó là bàn cờ vây khó chơi như “trận đồ bát quái”, chứ không giống cờ vua.

Washington cho rằng Bắc Kinh đã lợi dụng nhân nhượng của Mỹ vì Triều Tiên để lấn sân tại Biển Đông. Có lẽ “tuần trăng mật” của Donald Trump và Tập Cận Bình đã hết, nên thái độ của Trump ngày càng bất bình và hết kiên nhẫn với Bắc Kinh (trong khi ông Trump vốn không phải là người kiên nhẫn và nhất quán). Washington đang gia tăng sức ép đối với Bắc Kinh trong một loạt vấn đề, làm cho quan hệ Mỹ-Trung đang căng thẳng lên. Đây là hệ quả của việc Tập Cận Bình đã đánh giá sai (misread) ông Trump và tính toán nhầm (miscalculation). (How China Misread Donald Trump”, Paul Gewirtz, Politico, July 6, 2017).

Trong cuộc điều trần tại Hạ viện Mỹ (14/6/2017), Ngoại trưởng RexTillerson tuyên bố việc Trung Quốc xây đảo nhân tạo phi pháp và mở rộng cơ sở hạ tầng tại các hòn đảo trong vùng tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông, “đang gây ra bất ổn ở khu vực Thái Bình Dương. Những bất ổn đó có thể đưa chúng ta vào một cuộc xung đột”. Theo ông, đây là một vấn đề cần giải quyết cấp bách trong quan hệ Mỹ-Trung, không thể để Bắc Kinh biến vấn đề kinh tế và thương mại thành “vũ khí” lôi kéo các đồng minh của Mỹ theo Trung Quốc. Trung Quốc không thể dùng chiến thuật đó để giải quyết những vấn đề gai góc như Triều Tiên hay Biển Đông. Bộ trưởng quốc phòng James Mattis cũng tuyên bố Mỹ sẽ tiếp tục chiến dịch khẳng định quyền tự do lưu thông hàng hải ở Biển Đông” bất chấp phản đối mạnh mẽ của Trung Quốc. Tiếp theo 2 lần tuần tra FONOP gần đây, Mỹ đã bất ngờ tập trận phối hợp tác chiến tại Biển Đông giữa các khu trục hạm và máy bay ném bom chiến lược B-1B từ Guam. Tuần tới, Mỹ, Nhật, Ấn Độ sẽ tiến hành cuộc tập trận chung lớn nhất tại Vịnh Bangal (theo Reuters, 6/7/2017).  
Trong khi đó, tại Hamburg, bên lề hội nghị G20 summit, Tổng thống Trump đã gặp Tổng thống Putin hơn 2 giờ  (7/7/2017).  Cuộc họp kéo dài “tuyệt vời” đó (theo lời ông Trump) đã phủ một bóng mây xám lên cuộc gặp giữa ông Trump và ông Tập ngày hôm sau (8/7/2017). Trước đó, ngày 4/7/2017, Bắc Triều Tiên nhằm đúng ngày độc lập của Mỹ để thử tên lửa vượt đại châu (ICBM), trong khi ông Tập đang bận tiếp xúc với các nguyên thủ quốc gia khác tại Hamburg. Liệu đây có phải là “làn ranh đỏ” buộc Bắc Kinh phải hành động quyết liệt không, và liệu ông Tập có thể làm gì? (theo yêu cầu của ông Trump). Giới nghiên cứu cho rằng ông Tập khó làm được gì, trong khi ông Trump mất hết kiên nhẫn. Chắc “Tuần trăng mật” của ông Trump và ông Tập sẽ kết thúc tại Hamburg, vì cả hai bên đều ảo tưởng về nhau. 

Thay lời kết

Trong khi Tổng thống Trump tiếp Thủ tướng Phúc trong nhà Trắng, thì CTN Trần Đại Quang tiếp TNS John McCain trong Nhà Vàng, tại Hà Nội (sáng 1/6 giờ VN, tức chiều 31/5 giờ Mỹ). Ngay hôm sau, ông McCain bay vào Cam Ranh để thăm chiến hạm USS John S. McCain đang đậu tại cảng Cam Ranh. Nếu trong chính trị, người ta hay dùng hình tượng (symbolism) thì những việc trên có ý nghĩa gì? Chắc không phải ngẫu nhiên và vô cớ. Ngay sau khi về đến Hà Nội, chưa kịp nghỉ thì Thủ tướng Phúc đã vội lên đường thăm Nhật (4/6), là một chuyến đi quan trọng không kém. Còn ông McCain vừa về đến Washington (5/6/), đã vội ra thông cáo với những lời lẽ cứng rắn đầy ẩn ý, “Chúng tôi hy vọng rằng sự hiện diện của USS John S. McCain là biểu tượng cho sự hòa giải giữa Mỹ và Việt Nam, cũng như nhắc nhở các đồng minh và kẻ thù của chúng ta về cam kết lâu dài của Hoa Kỳ tại khu vực”.

Nếu ông Trump là Tổng thống “dealer”, thì vừa rồi giữa Mỹ và Việt Nam có thỏa thuận gì là quan trọng nhất, nếu không phải là hợp tác chiến lược. Không phải ngẫu nhiên mà thái độ của Mỹ đối với Trung Quốc cứng rắn hơn (cả lời nói và hành động). Không phải vô cớ mà quan hệ Trung-Việt bỗng trở nên căng thẳng hơn, và thái độ của Hà Nội bỗng trở nên cứng rắn và tự tin hơn. Trong bối cảnh hiện nay, có lẽ Cam Ranh là quân át chủ bài trong ván cờ Biển Đông, có thể gỡ thế bí cho Hà Nội, cả về chiến lược và về tài chính. Vì người ta hay nói đến quy luật “cùng tắc biến”, có lẽ đây là thời cơ để Việt Nam “biến”. Tuy có cơ hội và át chủ bài, nhưng nếu không biết chơi và ngả bài đúng lúc thì cũng không thể “chuyển”.   
Gần đây, cụm từ được người Việt hay nhắc tới là “tự diễn biến, tự chuyển hóa” (cả nghĩa đen và nghĩa bóng, vừa tiêu cực vừa tích cực). Phải chăng Hà Nội đang “tự diễn biến, tự chuyển hóa”? Từ sợ Trung Quốc, nay người Việt không còn sợ nữa; từ không dám cãi Trung Quốc; nay họ dám cãi lại (làm Tướng Phạm Trường Long tức giận bỏ về); từ không dám làm mất lòng Trung Quốc, nay dám làm mất lòng Trung Quốc (để bảo vệ chủ quyền và lợi ích của Việt Nam). Phải chăng Việt Nam đang từng bước xoay trục để “thoát Trung”, điều chỉnh chính sách “3 không thụ động” thành “3 không linh hoạt”, chính sách “cân bằng thụ động” thành “tái cân bằng tích cực” (active rebalance). Phải chăng đó chính là quy luật “cùng tắc biến”.

NQD. 9/7/2017




  Việt Nam trước các nguy cơ tiềm ẩn khó lường Nguyễn Quang Dy Trong bối cảnh thế giới đang biến động khó lường, các nước đang chuyển đổi nh...