Có phải phim Vietnam War đặt ra một vấn đề mới và khác?
Hôm nay nhận được bài viết mới của tác giả quen thuộc trên blog này là Nguyễn Quang Dy. Hôm nay nhận được bài viết mới của tác giả quen thuộc trên blog này là Nguyễn Quang Dy.
Dịp vừa qua anh Dy ít viết hơn (chắc bận nhiều việc khác). Cuối tuần này Câu lạc bộ Cà phê thứ Bảy chỗ nhạc sĩ Dương Thụ chủ trì có xếp sắp anh Nguyễn Quang Dy và một diễn giả nữa (NNC Hồ Đăng Hòa, nhân vật mới lần đầu tiên xuất hiện ở diễn đàn này), cả hai dự định trình bày một Chủ đề có tên “CHIẾN TRANH VIỆT NAM: CÓ THỂ BẠN CHƯA HIỂU RÕ”
Ở
đây Chiến tranh Việt Nam được hiểu sẽ nói về bộ phim The Vietnam War của 2 tác
giả Mỹ mới công chiếu trên truyền hình Mỹ và một số nước khác.
Với
bài viết của anh Nguyễn Quang Dy chúng ta sẽ đọc dưới đây. Vì chủ blog tôi có
vào mạng xem được trọn bộ 10 tập phim này nên tcó ít dòng về bộ phim này như
sau:
Cũng
giống như nhiều bộ phim khác về cuộc chiến tranh khác (mà Mỹ tiến hành ở VN),
phim 10 tập The Vietnam War của Ken Burns
& Lynn Novick không thể trả lời cho rất
nhiều vấn đề đặt ra cho cuộc chiến này (ở cả 2 phía). Bở có vô số những sự kiện và tình tiết (thậm
chí quan trọng) đã không được tác giả nhắc tới ở phim này.
Dù cuộc chiến đã trôi qua được
42 năm nhưng rất nhiều khúc đoạn quanh co, phải gọi là những uẩn khúc mới đúng,
đối với cuộc chiến đẫm máu này tới nay cả hai phía (nếu tính Việt Nam Cộng hòa
và Cộng hòa Miền Nam VN của Mặt trận Dân tộc Giải phóng thì coi như 4 phía, đều
vẫn chưa có đầy đủ những lời cắt nghĩa và giải đáp cho đủ sức thuyết phục “với
lịch sử”). Ngay phía Hà Nội chúng ta nhiều tài liệu vẫn chưa được hoàn toàn giải
mật, tức các vấn đề về hậu trường, khía cạnh khuất của cuộc chiến.
Về một mặt nào đó The Vietnam War là một bộ phim mà tác giả của nó đã biết khai thác khá rộng và sâu vào kho tư liệu lịch sử của nhiều phía nên tôi nghĩ những ai nghiên cứu về cuộc chiến 20 năm này rất nên bỏ công xem phim. Phim về chính trị, về lịch sử nhưng cách dựng lại hấp dẫn và lôi cuốn người xem.
Xem phim xong một mệnh đề đặt ra như treo lơ lửng: Liệu có phải tác giả phim Vietnam War có ý muốn đặt ra một vấn đề mới và khác về cuộc chiến tranh ở Việt Nam chúng ta?
Vệ Nhi
------
Chiến
tranh Việt Nam vẫn chưa kết thúc?
Nguyễn
Quang Dy
“Chưa kết thúc” (unfinished business) không phải là chữ
của tôi mà là của đạo diễn phim này. Một số bạn bè bảo tôi bình luận về phim
“The Vietnam War” (Ken Burns & Lynn Novik, PBS, Sept 2017). Khó quá vì tôi
đã xem hết đâu mà dám bình luận. Ở Việt Nam làm sao xem được PBS. Dù có trong
tay trọn bộ 10 tập phim (dài 18 giờ) thì cũng phải mất vài ngày mới xem hết. Vì
vậy đành phải xem lướt qua một lượt (fast forward) để có khái niệm, chỉ dừng lại
xem đoạn nào cần thiết, như đọc lướt (skim-reading) một cuốn sách quá dầy. Thứ
nhất, phim này dài quá, dù có kiên trì xem hết thì cũng dễ bội thực. Thứ hai, mới
xem qua một lượt đã có cảm tưởng “Déjà Vu” nên cũng mất hứng thú. Thứ ba, tôi tò
mò muốn lắng nghe xem các bên bình luận thế nào (tuy không biết các vị đó đã
xem hết chưa). Vì vậy, bài viết này đơn giản chỉ là một số ấn tượng chung ban đầu,
chứ không phải bình luận chi tiết.
Thành
công gây tranh cãi
Ấn tượng đầu tiên là một bộ phim tài liệu làm rất công
phu (chuẩn bị 10 năm), khá tốn kém (kinh phí hơn $30 triệu) và đầy tham vọng.
Tuy nó không thua kém “Vietnam: A Television History”, Richard Ellison &
Stanley Karnov, 1983, (gồm 13 tập, dài 780 phút), nhưng Ken Burns & Lynn
Novik còn tham vọng hơn. Họ muốn dùng cái nhìn mới mẻ và “cân bằng” (balance) để
lý giải lại cuộc chiến tranh, và tìm cách “hàn gắn” vết thương (healing). Họ đã
công phu sưu tầm và sử dụng nhiều tư liệu, hình ảnh, bản nhạc đa dạng (như sử dụng
25,000
ảnh tư liệu và phỏng vấn 80 nhân chứng thuộc các bên liên quan). Kết
quả là một bộ phim lớn được dư luận đánh giá cao như một “bộ sử thi”
(Epic). Nhưng một số người khác lại cho
rằng bộ phim này chỉ đạt được “cân bằng giả tạo” (false balance), vì tìm cách
đánh đồng “hai phía đều có lỗi”, để gián tiếp thanh minh cho chính sách của Mỹ.
Nhưng có một nghịch lý là phim nào càng gây tranh cãi ồn ào thì lại càng nổi tiếng
và ăn khách.
Thứ hai, chính vì muốn “cân bằng” và “hàn gắn” mà phim
này dễ gây tranh cãi và dễ bị cả hai phía phê phán. Trong khi người Mỹ nói
chung đánh giá cao bộ phim này thì một số người khác (kể cả các cựu chiến binh)
tỏ ra thất vọng vì tác giả đã vô tình (hay cố ý) chọn các câu chuyện và nhân chứng
một cách có chủ định, nhưng bỏ qua nhiều câu chuyện và nhân chứng quan trọng
khác liên quan đến cuộc chiến. Đa số người Việt (cả hai phía) gồm cả “bên thắng
cuộc” (Chính quyền Cộng sản) và “bên thua cuộc” (những người Chống Cộng) lại tỏ
ra không hài lòng đối với bộ phim này. Có thể do lòng hận thù của những người cực
đoan (cả hai phía) vẫn chưa nguôi, nên cuộc chiến chưa thực sự chấm dứt trong tâm
thức của họ, mặc dù chiến tranh đã chấm dứt cách đây 42 năm. Có thể các nhà làm
phim sơ suất. Ví dụ trong phim không thấy bóng dáng mấy nhân vật huyền thoại gắn
liền với Chiến tranh Việt Nam như Phạm Xuân Ẩn (“Điệp viên Hoàn hảo”), Daniel
Ellsberg (đã cung cấp tài liệu mật của Lầu Năm Góc), Neil Davis (nhà báo huyền
thoại người Úc, NBC Bureau Chief, mất 1985), Tim Page (photographer), Nayan
Chanda (tác giả “Brother Enemy” và YaleGlobal Online editor).
Thứ ba, dù có nhiều cố gắng đáng kể để “cân bằng”,
nhưng bộ phim này vẫn gây ấn tượng là phim của Mỹ, nói về các vấn đề của người Mỹ
chứ chưa thực sự đề cập đến các vấn đề mà người Việt quan tâm. Điều đó cũng dễ
hiểu vì tác giả là người Mỹ. Trong số 24 cố vấn và trợ lý, có một số người Việt
tham gia, nhưng tiếng nói của họ chắc là thiểu số. Tuy có nhiều người Việt (gồm
cả hai phía) được phỏng vấn, nhưng một số người vẫn cho là “thiếu công bằng”, trong
khi cuộc chiến diễn ra tại Việt Nam (mà chủ yếu là tại Miền Nam). Tuy nói rằng chiến
tranh đã lan sang tới Mỹ (như bạo lực tại Kent State University đã làm 4 sinh
viên thiệt mạng) nhưng đó chỉ là “sideshow” khá nhỏ. Theo thống kê chính thức, “bên
thắng cuộc” có khoảng một triệu lính chết, và “bên thua cuộc” có khoảng 310.000
lính chết, trong khi cả hai bên có khoảng hai triệu thường dân bị thiệt mạng, tổng
số có 3-4 triệu người Việt bị thiệt mạng, so với 58.000 lính Mỹ bị chết (và 305.000
bị thương). Trong chiến tranh, tỷ lệ thương vong của Việt Cộng so với phía Mỹ thường
gấp mười lần (“ten to one” ratio), nhưng người Mỹ chỉ quan tâm đến số lính Mỹ bị
chết, và việc “đếm xác” (body count) là một trò chơi gian lận.
Tù
nhân của quá khứ
Trong khi hầu hết, nếu không phải tất cả (gần 2.000)
lính Mỹ bị mất tích trong chiến tranh (MIA) đã được thống kê, xác minh và tìm
kiếm hài cốt để trao trả, nhiều nhà báo quốc tế (có quốc tịch khác nhau) bị mất
tích trong chiến tranh (MIA) vẫn chưa được thống kê, xác minh để tìm kiếm hài cốt.
Các nhà báo còn sống sót trong nhóm “Vietnam Old Hack” như Tim Page (phóng viên
nhiếp ảnh) đã thống kê được một danh sách hơn 70 nhà báo bị mất tích (hầu hết
trong giai đoạn 1970-1971). Nhưng các nhà báo còn sống sót nay đã già yếu,
không có nguồn lực và thông tin cần thiết để tìm kiếm, trong khi các chính phủ
(bao gồm chính phủ Mỹ và Việt Nam) hầu như không quan tâm. Bộ phim Chiến tranh
Việt Nam cũng bỏ qua chuyện này. Đối với những người đã chết (dù của phía nào) và
gia đình hay bạn bè của họ, đây không chỉ là “Nỗi buồn Chiến tranh”, mà còn là món
nợ tâm linh và đạo lý, có thể để lại một vết đen đáng xấu hổ về nhân cách trong
lịch sử mà con cháu chúng ta sẽ truy vấn. Tại sao bóng ma Chiến tranh Việt Nam
vẫn chưa chết, vẫn ám ảnh và trỗi dậy mỗi khi có dịp?
Hệ quả thảm khốc và lâu dài của Chiến tranh Việt Nam
đối với người dân (chết/mất tích/thương tật) trong chiến tranh (trực tiếp do
bom đạn) và sau chiến tranh (gián tiếp do môi trường bị hủy diệt và nhiễm độc)
thật khủng khiếp. Theo số liệu chính thức, Mỹ đã ném xuống Việt Nam 7,8 triệu tấn
bom đạn, nhiều hơn tổng số bom đạn Mỹ đã sử dụng trong Đại chiến II. Người Việt
tiếp tục là nạn nhân của chất độc da cam (với 19 triệu gallons Agent Orange được
rải), và bom mìn chưa nổ (với hơn 40.000 người dân bị chết vì UXO). Nếu sau chiến
tranh, nhiều cựu binh Mỹ trở về nước bị “hội chứng PTSD” (Post-Traumatic Stress
Disorder) thì hầu hết người Việt sau chiến tranh cũng bị chấn thương tâm lý bởi
“hội chứng chiến tranh” (chẳng khác gì “Hội chứng Stockhom”), tuy họ là những người
dân vô tội. Cho đến nay, trong tiềm thức và ẩn ức của nhiều người Việt, dường
như họ vẫn chưa thoát khỏi cuộc chiến, như “tù nhân của quá khứ” (prisoners of
the past). Chắc nhiều người còn nhớ, năm 1964 tướng không quân Curtis LeMay đã ngạo
mạn kêu gọi ném bom Bắc Việt Nam “trở về thời kỳ đồ đá”.
Không biết Chiến tranh Việt Nam có xô đẩy đất nước
này trở về thời đồ đá hay không, nhưng hệ quả khôn lường của nó đã làm tổn
thương và ám ảnh hai quốc gia này suốt nửa thế kỷ qua như một định mệnh
(karma). Ai cũng biết không thể thay đổi được quá khứ và muốn hướng tới tương
lai, nhưng làm thế nào là chuyện không hề dễ. Ý tưởng của Ken Burns & Lynn
Novik về bộ phim “The Vietnam War” tuy tuyệt vời, nhưng rất khó làm, vì kể chuyện
gì và kể thế nào về một bi kịch đẫm máu và vô cùng phức tạp khi đã có quá nhiều
người kể rồi. Tôi nhớ lần gặp Lynn Novik tại Hà Nội (hình như năm 2013), tôi
không muốn tham gia vì nhiều lý do, nhưng chủ yếu vì lý do cá nhân. Cuối tháng
4/1995, khi nhận lời tham gia “Speaking Tour” tại Mỹ cùng một số nhà báo quốc tế
trong dịp kỷ niêm “20 năm kết thúc chiến tranh”, tôi đã trót nói rằng đây là “lần
chót” tham gia bàn về Chiến tranh Việt Nam. Kỷ niệm “10 năm” (1985) là cần thiết.
Kỷ niệm “20 năm” (1995) là quá đủ rồi. Hãy bàn về tương lai. Tại sao chúng ta
không bàn về những bài học thời hậu chiến, hay xung đột tại Biển Đông?
Quá
ít và quá muộn
Tại sao 20 năm sau chiến tranh, Robert McNamara mới
thừa nhận sai lầm? (“In Retrospect: The Tragedy and Lessons of Vietnam”, 1995).
Đối với một người “thông minh tài giỏi” như ông ấy, điều này là “quá ít và quá
muộn” (too little too late). Ngay từ đầu thập niên 1960, George Ball (thứ trưởng
ngoại giao thời Kennedy và Johnson) đã khuyên Tổng thống đừng đưa quân vào Việt
Nam, nhưng chẳng ai nghe lời khuyên của ông ấy. George Ball đã từ chức (1966). Tương
tự, Archimedes Patti (đại diện OSS tại Hà Nội, năm 1945) cũng nói rằng chẳng ai
nghe lời khuyên của ông ấy về Việt Nam (“Why Vietnam: Prelude to America’s
Albatross”, 1982). Trong phim không thấy nhắc đến Archimedes Patti và George
Ball, nhưng lại nói nhiều đến Leslie Gelb và John Negroponte. Tại sao Việt Nam?
Tại sao Iraq? Tại sao không tránh được sai lầm? TNS Fulbright gọi đó là sự “Ngạo
mạn của Quyền lực” (Arrogance of Power). Một số người khác gọi đó là vô minh vì
không hiểu kẻ thù (ignorance) hay thiếu tử tế (indecency). Nó lý giải tại sao
42 năm sau, bi kịch Việt Nam vẫn chưa kết thúc.
Người ta tiếp tục viết sách, làm phim về Chiến tranh
Việt Nam (nếu có kinh phí) để mô tả và lý giải nguyên nhân cũng như hậu quả
kinh hoàng của nó. Nhưng người ta thường dễ ngộ nhận và tiếp tục mắc sai lầm.
Sai lầm lớn nhất của người Mỹ (và cả người Việt) là đã choảng nhau chí mạng như
kẻ tử thù, tưởng là để ngăn chặn Trung Quốc bành trướng, nhưng hóa ra lại giúp
họ trỗi dậy và từng bước gạt Mỹ ra khỏi khu vực này để độc chiếm Biển Đông. Nay
khi người Mỹ và người Việt tỉnh ngộ ra, muốn bắt tay nhau làm đồng minh thì e rằng
hơi muộn. Chiến tranh Việt Nam là một nghịch lý lớn. Nhưng các sự kiện diễn ra
sau đó là một nghịch lý còn lớn hơn. Đó là những nghịch lý chết người đã xô đẩy
hai quốc gia này vào cạm bẫy ý thức hệ và bãi lầy lịch sử mà lối thoát còn chập
chờn như ảo ảnh tận cuối đường hầm.
NQD.
30/9/2017
-----
Bản tiếng Anh của tác giả:
The Vietnam War: Unfinished Business?
By Nguyen Quang Dy
The phrase “unfinished business” is not mine but
from the film directors. Friends asked
me to comment on the film, The Vietnam
War (Ken Burns and Lynn Novick, PBS, September 2017). How can I comment on something I haven’t seen it
all? PBS is not available in Vietnam. Even
if I have in my hands 10 episodes (18 hours) it may take a few days to watch
them. That is why I have to play “fast forward” to go through them quickly to get
an idea and then pause to watch some necessary parts, like skim-reading a thick
book. First, this film is too long like a marathon and even if you are patient
enough to get to the end, you cannot digest it easily. Second, as you are skimming
through quickly, having a sense of déjà
vu, you may lose your appetite. Third, you may be curious to see how other people
from different backgrounds comment (though I am not sure if they all have thoroughly
watched them). This article therefore simply offers only some general
observations, rather than specific comments.
Controversial success
My first observation is that it is a well-made documentary
film (taking almost 10 years), quite expensive (over $30 million budget) and
very ambitious. While this film is no less painstaking than Vietnam: A Television History by Richard
Ellison and Stanley Karnov, 1983 (includes 13 episodes, 780 minutes long), Ken
Burns and Lynn Novick are even more ambitious. They have taken a fresh and
balanced look in revisiting the war and trying to figure out how to heal the
wounds. They have taken pains to collect a wide range of documents,
photographs, and music (using 25,000 photographs and interviewing 80 people
involved in the War). The result is a great film being appreciated by the
general public as an Epic. But others think this film only achieves a “false
balance” as it tries to put both sides on the same boat as “equally guilty
parties,” so as to indirectly justify the war. But the paradox is that the more
controversial the film is the more it may become renowned and successful.
Secondly, precisely because they want it to be
balanced and healing, the film is controversial and vulnerable to criticism. While
the American public has largely appreciated this film, others (including war
veterans) are disappointed that the filmmakers have either unintentionally or
intentionally selected certain witnesses and their stories while ignoring others
involved in the Vietnam War. Most Vietnamese (from both sides) including the
“winning side” (the communist government) and the “losing side” (anti-communist
people) have shown displeasure at this film. It might be that the hatred
harbored by extremists (from both sides) is still boiling, thus the hostility still
rages in the back of their mind, though the war ended 42 years ago. Or the film
makers might have missed out on something. For instance, nowhere in the film
you can see such renowned witnesses identified with the Vietnam War as Phạm
Xuân Ẩn (the “Perfect Spy”), Daniel Ellsberg (who released the Pentagon
Papers), Neil Davis (the legendary Australian cameraman who died 1985 as NBC
Bureau Chief), Tim Page (photographer), Nayan Chanda (author of “Brother Enemy”
and editor of Yale Global Online).
Thirdly, while great efforts have been made to make
the film balanced, it leaves the impression that it is an American film,
talking about American problems, not really about problems that the Vietnamese
care about. It is understandable as the filmmakers are American. Yet among the 24
advisors and assistants, there are some Vietnamese, but their impact might be insignificant.
Although many Vietnamese (from both sides) were interviewed, some still believe
it was “unfair” as the War took place in Vietnam, largely in South Vietnam.
While the War was said to have moved to the US, causing violence in Kent State
University claiming the lives of four students, it was only a minor “sideshow.” According to official figures, “the winning
side” lost one million soldiers, the “losing sides” lost 310,000 soldiers, and
both sides lost two million civilian lives, making up the total losses of 3-4
million local lives, compared with 58,000 American soldiers dead and 305,000 wounded.
During the War, the casualties of the Viet Cong and American sides were a ten-to-one
ratio, but the American military only cared about American lives, even though “body
count” was a cheating game.
Prisoners of the past
While most if not all of the nearly 2,000 American
soldiers classified as MIAs were searched for and their remains accounted for to
be repatriated, many international journalists of different nationalities went
missing as MIA, still unaccounted for with no searches for their remains. The
surviving journalists known as “Vietnam Old Hacks,” like photographer Tim Page,
have drawn an incomplete list of more than 70 missing journalists (mostly
during 1970-1971). But these surviving journalists are quite old, without resources
and necessary information to search for MIA colleagues, while governments (including
American and Vietnamese) pay little attention to this issue. The Vietnam War
film has also glossed over this story. For the dead of whichever side, as well
as their family and friends, this is not only “the Sorrow of War,” but also a
spiritual and moral debt which may leave a shameful black gap of humanity in the
history of war that our children may question. Forty-two years after the War, is the ghost of
Vietnam not really dead and still haunting and waiting for a chance to rise
again?
The extensive and lasting consequences of the Vietnam
War to Vietnamese civilians dead or missing or injured, during the War (directly
from bombing) and after the War (indirectly by devastation and the contaminated
environment) are terrible. According to official figures, the US dropped 7.8 million
tons of ordnance on Vietnam, more than the total of that used by the US during
the Second World War. Vietnamese continue to be victimized by Agent Orange (19 million
gallons sprayed) and unexploded ordnance (killing 40,000 civilians by UXO since
the war ended). After the War, if American veterans returning home suffered from
PTSD (Post-Traumatic Stress Disorder), most Vietnamese as innocent civilians also
psychologically suffered from the “war syndrome” – not much different from the “Stockholm
syndrome.” Until now, in their state of
mind, many Vietnamese have failed to free themselves from the war obsession as “prisoners
of the past.” It should be remembered
that in 1964 US Air Force General Curtis LeMay arrogantly demanded to bomb North
Vietnam “back to the Stone Age.”
Although it is not really clear if the Vietnam War
has driven this nation back to the Stone Age, its huge consequences have hurt
and obsessed these two nations for half a century as karma. Everyone knows we
cannot change the past, we want to look to the future, but how to do it is not so
easy. While Ken Burns and Lynn Novick’s idea to make the Vietnam War film is
excellent, it is not easy to know what to tell and how to tell this bloody and complicated
story which so many people have already done. When I met with Lynn Novick in
Hanoi (perhaps in 2013) I did not want to join this film project for personal reasons.
At the end of April 1995, when I joined a “speaking tour” in the US with a
group of American journalists on the occasion of the 20th Anniversary
of the end of the Vietnam War, I said this was the last time I would talk about the Vietnam War. “The 10th Anniversary” in 1985 was
necessary. The 20th Anniversary, in 1995, was more than enough. We
should talk about the future, about the lessons of post-war developments and the
new conflict in the South China Sea.
Too little too late
Why did it take 20 years for Robert McNamara to
admit the folly (In Retrospect: The
Tragedy and Lessons of Vietnam”, 1995)? For such a “Best and Brightest” man, this was too little, too late. As early as
in 1961-1962, George Ball, Under Secretary of State in the Kennedy and Johnson
Administrations advised the President not to escalate US intervention in Vietnam,
but nobody listened to his advice. George Ball resigned in 1966. Similarly, Archimedes
Patti, OSS representative in Hanoi in 1945, also shared the same vision, but
nobody listened to his advice on Vietnam (Why
Vietnam: Prelude to America’s Albatross, 1982). In this documentary film,
Archimedes Patti and George Ball are not mentioned, while Leslie Gelb and John
Negroponte are widely quoted. Why Vietnam? Why Iraq? Why was the folly not
avoided? Senator William Fulbright called this the “Arrogance of Power”. Others called this “ignorance of the enemy”
and “indecency.” This explains the Vietnam tragedy even 42 years after.
People continue to write books and make films on the
Vietnam War (given enough budget) to analyze shocking reasons and consequences.
Yet, people continue to make mistakes and repeat the folly. The greatest folly
by the Americans was to fight Vietnam as a deadly enemy, believing they were containing
Chinese expansionism, but in fact they have facilitated Red China to rise and
push America out of this region in order to rule the South China Sea. Now that America
and Vietnam have awakened, trying to shake hands as new allies, it is a little
too late. The Vietnam War was a great paradox. Yet, what happened after that
was an even greater paradox. These deadly paradoxes have driven these two
nations into an ideological trap and historical quagmire, and getting out is still
uncertain as a mirage at the end of the tunnel.
Nguyễn Quang Dy studied and researched at the
Australian National University (ANU, 1976-1979), Harvard University (Nieman
Fellow, 1992-1993), and worked at Viet Nam’s Ministry of Foreign Affairs
(1971-2005). He is an expert in international research, media, and
training. He has been a senior consultant for a number of training
organizations and programs. Currently Dy
is a freelance journalist and an independent researcher and consultant.
-----
Bản tiếng Anh của tác giả:
The Vietnam War: Unfinished Business?
By Nguyen Quang Dy
The phrase “unfinished business” is not mine but
from the film directors. Friends asked
me to comment on the film, The Vietnam
War (Ken Burns and Lynn Novick, PBS, September 2017). How can I comment on something I haven’t seen it
all? PBS is not available in Vietnam. Even
if I have in my hands 10 episodes (18 hours) it may take a few days to watch
them. That is why I have to play “fast forward” to go through them quickly to get
an idea and then pause to watch some necessary parts, like skim-reading a thick
book. First, this film is too long like a marathon and even if you are patient
enough to get to the end, you cannot digest it easily. Second, as you are skimming
through quickly, having a sense of déjà
vu, you may lose your appetite. Third, you may be curious to see how other people
from different backgrounds comment (though I am not sure if they all have thoroughly
watched them). This article therefore simply offers only some general
observations, rather than specific comments.
Controversial success
My first observation is that it is a well-made documentary
film (taking almost 10 years), quite expensive (over $30 million budget) and
very ambitious. While this film is no less painstaking than Vietnam: A Television History by Richard
Ellison and Stanley Karnov, 1983 (includes 13 episodes, 780 minutes long), Ken
Burns and Lynn Novick are even more ambitious. They have taken a fresh and
balanced look in revisiting the war and trying to figure out how to heal the
wounds. They have taken pains to collect a wide range of documents,
photographs, and music (using 25,000 photographs and interviewing 80 people
involved in the War). The result is a great film being appreciated by the
general public as an Epic. But others think this film only achieves a “false
balance” as it tries to put both sides on the same boat as “equally guilty
parties,” so as to indirectly justify the war. But the paradox is that the more
controversial the film is the more it may become renowned and successful.
Secondly, precisely because they want it to be
balanced and healing, the film is controversial and vulnerable to criticism. While
the American public has largely appreciated this film, others (including war
veterans) are disappointed that the filmmakers have either unintentionally or
intentionally selected certain witnesses and their stories while ignoring others
involved in the Vietnam War. Most Vietnamese (from both sides) including the
“winning side” (the communist government) and the “losing side” (anti-communist
people) have shown displeasure at this film. It might be that the hatred
harbored by extremists (from both sides) is still boiling, thus the hostility still
rages in the back of their mind, though the war ended 42 years ago. Or the film
makers might have missed out on something. For instance, nowhere in the film
you can see such renowned witnesses identified with the Vietnam War as Phạm
Xuân Ẩn (the “Perfect Spy”), Daniel Ellsberg (who released the Pentagon
Papers), Neil Davis (the legendary Australian cameraman who died 1985 as NBC
Bureau Chief), Tim Page (photographer), Nayan Chanda (author of “Brother Enemy”
and editor of Yale Global Online).
Thirdly, while great efforts have been made to make
the film balanced, it leaves the impression that it is an American film,
talking about American problems, not really about problems that the Vietnamese
care about. It is understandable as the filmmakers are American. Yet among the 24
advisors and assistants, there are some Vietnamese, but their impact might be insignificant.
Although many Vietnamese (from both sides) were interviewed, some still believe
it was “unfair” as the War took place in Vietnam, largely in South Vietnam.
While the War was said to have moved to the US, causing violence in Kent State
University claiming the lives of four students, it was only a minor “sideshow.” According to official figures, “the winning
side” lost one million soldiers, the “losing sides” lost 310,000 soldiers, and
both sides lost two million civilian lives, making up the total losses of 3-4
million local lives, compared with 58,000 American soldiers dead and 305,000 wounded.
During the War, the casualties of the Viet Cong and American sides were a ten-to-one
ratio, but the American military only cared about American lives, even though “body
count” was a cheating game.
Prisoners of the past
While most if not all of the nearly 2,000 American
soldiers classified as MIAs were searched for and their remains accounted for to
be repatriated, many international journalists of different nationalities went
missing as MIA, still unaccounted for with no searches for their remains. The
surviving journalists known as “Vietnam Old Hacks,” like photographer Tim Page,
have drawn an incomplete list of more than 70 missing journalists (mostly
during 1970-1971). But these surviving journalists are quite old, without resources
and necessary information to search for MIA colleagues, while governments (including
American and Vietnamese) pay little attention to this issue. The Vietnam War
film has also glossed over this story. For the dead of whichever side, as well
as their family and friends, this is not only “the Sorrow of War,” but also a
spiritual and moral debt which may leave a shameful black gap of humanity in the
history of war that our children may question. Forty-two years after the War, is the ghost of
Vietnam not really dead and still haunting and waiting for a chance to rise
again?
The extensive and lasting consequences of the Vietnam
War to Vietnamese civilians dead or missing or injured, during the War (directly
from bombing) and after the War (indirectly by devastation and the contaminated
environment) are terrible. According to official figures, the US dropped 7.8 million
tons of ordnance on Vietnam, more than the total of that used by the US during
the Second World War. Vietnamese continue to be victimized by Agent Orange (19 million
gallons sprayed) and unexploded ordnance (killing 40,000 civilians by UXO since
the war ended). After the War, if American veterans returning home suffered from
PTSD (Post-Traumatic Stress Disorder), most Vietnamese as innocent civilians also
psychologically suffered from the “war syndrome” – not much different from the “Stockholm
syndrome.” Until now, in their state of
mind, many Vietnamese have failed to free themselves from the war obsession as “prisoners
of the past.” It should be remembered
that in 1964 US Air Force General Curtis LeMay arrogantly demanded to bomb North
Vietnam “back to the Stone Age.”
Although it is not really clear if the Vietnam War
has driven this nation back to the Stone Age, its huge consequences have hurt
and obsessed these two nations for half a century as karma. Everyone knows we
cannot change the past, we want to look to the future, but how to do it is not so
easy. While Ken Burns and Lynn Novick’s idea to make the Vietnam War film is
excellent, it is not easy to know what to tell and how to tell this bloody and complicated
story which so many people have already done. When I met with Lynn Novick in
Hanoi (perhaps in 2013) I did not want to join this film project for personal reasons.
At the end of April 1995, when I joined a “speaking tour” in the US with a
group of American journalists on the occasion of the 20th Anniversary
of the end of the Vietnam War, I said this was the last time I would talk about the Vietnam War. “The 10th Anniversary” in 1985 was
necessary. The 20th Anniversary, in 1995, was more than enough. We
should talk about the future, about the lessons of post-war developments and the
new conflict in the South China Sea.
Too little too late
Why did it take 20 years for Robert McNamara to
admit the folly (In Retrospect: The
Tragedy and Lessons of Vietnam”, 1995)? For such a “Best and Brightest” man, this was too little, too late. As early as
in 1961-1962, George Ball, Under Secretary of State in the Kennedy and Johnson
Administrations advised the President not to escalate US intervention in Vietnam,
but nobody listened to his advice. George Ball resigned in 1966. Similarly, Archimedes
Patti, OSS representative in Hanoi in 1945, also shared the same vision, but
nobody listened to his advice on Vietnam (Why
Vietnam: Prelude to America’s Albatross, 1982). In this documentary film,
Archimedes Patti and George Ball are not mentioned, while Leslie Gelb and John
Negroponte are widely quoted. Why Vietnam? Why Iraq? Why was the folly not
avoided? Senator William Fulbright called this the “Arrogance of Power”. Others called this “ignorance of the enemy”
and “indecency.” This explains the Vietnam tragedy even 42 years after.
People continue to write books and make films on the
Vietnam War (given enough budget) to analyze shocking reasons and consequences.
Yet, people continue to make mistakes and repeat the folly. The greatest folly
by the Americans was to fight Vietnam as a deadly enemy, believing they were containing
Chinese expansionism, but in fact they have facilitated Red China to rise and
push America out of this region in order to rule the South China Sea. Now that America
and Vietnam have awakened, trying to shake hands as new allies, it is a little
too late. The Vietnam War was a great paradox. Yet, what happened after that
was an even greater paradox. These deadly paradoxes have driven these two
nations into an ideological trap and historical quagmire, and getting out is still
uncertain as a mirage at the end of the tunnel.
Nguyễn Quang Dy studied and researched at the
Australian National University (ANU, 1976-1979), Harvard University (Nieman
Fellow, 1992-1993), and worked at Viet Nam’s Ministry of Foreign Affairs
(1971-2005). He is an expert in international research, media, and
training. He has been a senior consultant for a number of training
organizations and programs. Currently Dy
is a freelance journalist and an independent researcher and consultant.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét