Thứ Ba, 4 tháng 9, 2018

Việt Nam ở đâu trong chiến tranh thương mại Mỹ-Trung


Chiến trang thương mại Mỹ - Trung đang là câu chuyện thời sự quốc tế nổi bật nhất. Dưới đây là bài viết của Nguyễn Quang Dy gửi cho blog tôi từ ngày 12/8, nhưng lúi búi công chuện chưa đưa lên blog được.

Bài khá dài nhưng muốn "hiểu câu chuyện lớn" này trong mối quan hệ Trung Quốc - Mỹ và cũng là trong khung cảnh kinh tế và cả chính trị toàn cầu chịu ảnh hưởng ít hoặc nhiều từ cuộc đối đầu này thì nên chịu khó đọc hết bài. Nhất là điều trên được tác giả bài việt đặt nó trong khung cảnh Việt Nam chịu ảnh hưởng (tốt và không tốt/xấu).  

Vệ Nhi/Nguyễn Vĩnh

------

Việt Nam ở đâu trong chiến tranh thương mại Mỹ-Trung

Trâu bò Đánh nhau ruồi muỗi chết” (ngạn ngữ)

Tác giả: Nguyễn Quang Dy

Trong dân gian, câu ngạn ngữ này có ý cảnh báo kẻ yếu dễ bị vạ lây khi quá gần kẻ mạnh đang đánh nhau (hoặc làm tình). Trên thế gian này, Mỹ và Trung Quốc không phải là trâu bò bình thường, mà là hai siêu cường kinh tế lớn nhất nhì thế giới, đang lao vào một cuộc chiến tranh thương mại, với hệ quả khó lường, cả về kinh tế và chiến lược, đang làm đảo điên thiên hạ. Trong khi đó, Mỹ và Nga là hai siêu cường quân sự đứng đầu thế giới, đang bắt tay nhau, có thể làm đảo lộn bàn cờ chiến lược toàn cầu. Trong bối cảnh đó, Việt Nam có muốn tranh thủ cơ hội này để “tái cân bằng quan hệ nước lớn”, nhằm thoát khỏi thế tiến thoái lưỡng nan, hay càng bị mắc kẹt vào trò chơi quyền lực giữa các siêu cường. Điều đáng lo ngại là dường như Việt Nam vẫn chưa sẵn sàng đối phó với các tình huống diễn biến khó lường.   
Chiến tranh thương mại bắt đầu
Các nhà nghiên cứu có thể lấy ngày 6/7/2018 làm mốc chiến tranh thương mại Mỹ-Trung “chính thức” bắt đầu. Đó là ngày chính quyền Trump tuyên bố áp thuế nhập khẩu 25% cho hàng hóa Trung Quốc (trị giá 34 tỷ USD). Nói cách khác đó là “phát súng khởi đầu”. Tuy người ta nói chiến tranh thương mại là “cuộc chiến không có tiếng súng”, nhưng nó đang xô đẩy hai siêu cường này vào “cái bẫy Thucydides” (theo giáo sư Graham Allison).
Chiến tranh thương mại là một phần của chiến lược an ninh/quốc phòng của Mỹ (NSS/NDS). Cần xem xét nó trong bối cảnh chiến lược lớn hơn: Mỹ coi Trung Quốc là “mối đe dọa số một”, và khu vực “Indo-Pacific tự do và rộng mở” là địa bàn chiến lược để Mỹ đối phó với Trung Quốc. Đó là một mặt trận (chiến thuật) để Mỹ nhắm vào Trung Quốc (là mục tiêu chiến lược). Chiến tranh thương mại Mỹ-Trung là con đường tắt (trực tiếp) để Mỹ đối phó với Trung Quốc (có tác động tức thì), trong khi TPP là con đường vòng (gián tiếp) mà Trump đã từ bỏ, nhưng có nhiều khả năng sẽ quay lại (vì ý nghĩa lâu dài). Tuy lợi ích kinh tế của các nước đồng minh cũng bị đe dọa, nhưng chiến tranh thương mại Mỹ-Trung khác với tranh chấp thương mại Mỹ-Châu Âu hay Mỹ-Nhật. Đó là bối cảnh mà Trump triển khai chiến tranh thương mại với Trung Quốc, trong khi ông bắt tay với Putin (tuy nội bộ Mỹ còn nhiều tranh cãi).
Trump tuy không phải là chính khách, nhưng ông là tổng thống Mỹ đầu tiên (từ thời Nixon) dám đối đầu với Trung Quốc. Việc leo thang chiến tranh thương mại, từ đe dọa đến làm thật (from threat to reality) sẽ làm đảo lộn chuỗi cung ứng toàn cầu (ripple through global supply chains), tăng chi phí kinh doanh, hàng hóa tiêu dùng, và làm biến động thị trường chứng khoán (raise costs for businesses and consumers and roil global stock markets). (How the Biggest Trade War in Economic History Is Playing Out, NYT, July 6, 2018).
Theo giáo sư kinh tế Trần Hữu Dũng (Wright State University), cuộc chiến tranh thương mại lần này dường như đi ngược lại các lý thuyết kinh tế. Trump hành động có vẻ bốc đồng và tùy hứng.  Các quyết định hầu như không dựa trên một kế hoạch nào được điều tra nghiên cứu rõ ràng. Vì vậy giới nghiên cứu kinh tế rất lo lắng, vì cuộc chiến thương mại này rất khó lường, không biết quy mô thiệt hại đối với kinh tế thế giới thế nào, có dẫn đến thế chiến không. Ông Dũng chưa thấy một nghiên cứu nào có thể tin được, khi ngày càng có nhiều chuyện rắc rối xảy ra, không chỉ giữa Mỹ với Trung Quốc, mà còn giữa Mỹ với châu Âu, và châu Âu với Trung Quốc”. (Chiến tranh thương mại từng dẫn đến Thế chiến, BBC, 24/7/2018).
Tuy nhiên, Bắc Kinh dường như bị động và bất ngờ, đang đau đầu đối phó với các biện pháp trừng phạt quyết liệt của Wasington. Người Trung Quốc cứ tưởng Trump chỉ hù dọa, có thể đàm phán, nhưng Trump lại làm thật. Trước đây người Mỹ từng nhầm về Trung Quốc, nay người Trung Quốc lại đang nhầm về Trump, một người “vô chiêu” nên khó lường. Điểm yếu của Trump đang biến thành điểm mạnh. Trung Quốc đang trở thành nạn nhân của chính mình. Hay nói cách khác, “gậy ông lại đập lưng ông” (boomerang or backfire).
Theo Ely Ratner (Giám đốc Trung tâm New American Security) điều trần tại Ủy ban Đối ngoại Thượng viện (7/2018): “Mỹ không nên coi thuế quan là công cụ chính sách kinh tế chủ yếu để đối phó với Trung Quốc” (Tariffs should not be the principal economic policy tool against China). Ratner cho rằng thuế quan là cần thiết nhưng có giới hạn, nó khó làm Trung Quốc thay đổi chính sách, mà phải có một chiến lược dựa trên luật lệ để trừng phạt các công ty Trung Quốc ăn cắp công nghệ Mỹ. Ratner đưa ra nhiều khuyến nghị, gồm: (1) Mỹ cần gia nhập lại TPP (nay là CPTPP). Đây là điều quan trọng nhất mà Mỹ có thể làm để tăng cường vị thế kinh tế của mình ở Châu Á, và làm suy yếu khả năng Trung Quốc áp bức về kinh tế (economic coercion). (2) Mỹ cần cộng tác chặt chẽ, chứ đừng xa lánh đồng minh và đối tác, để đối phó với thách thức của Trung Quốc. (3) Mỹ cần có một Chiến lược mới về An ninh Kinh tế Quốc gia. (Blunting China’s Economic Coercion as Statecraft, Ely Ratner, statement before Senate Foreign Relations Committee hearing on The China Challenge, July 24, 2018).
Bàn cờ chiến lược thay đổi
Theo HSBC, Trung Quốc dự tính thương mại với các nước tham gia dự án “BRI” (Belt and Road Initiative) sẽ vượt US$ 2.5 trillion/năm trong thập kỷ tới. Tập Cận Bình đã tự tin tuyên bố đến năm 2030, hàng hóa Trung Quốc sẽ tràn ngập thế giới và kinh tế Trung Quốc sẽ vượt Mỹ (với kế hoạch đầy tham vọng “Made in China 2025”). Nhưng cuộc chiến tranh thương mại Mỹ-Trung mà Trump phát động đe dọa làm tiêu tan “Giấc Mộng Trung Hoa” (China Dream) của Tập Cận Bình, và có thể làm lung lay ngai vàng của “hoàng đế đỏ”.
Bằng cách đánh thuế cao đối với hàng hóa nhập khẩu vào Mỹ, và thắt chặt chuyển giao công nghệ cao cho Trung Quốc, có lẽ Trump và các cố vấn chủ chốt đã đánh trúng huyệt đạo dễ tổn thương của Trung Quốc. Theo New York Times (6/7/2018), Bộ Thương Mại Trung Quốc lên án “Mỹ đã khởi động cuộc chiến tranh thương mại lớn nhất trong lịch sử kinh tế từ trước tới nay” (The US has launched the biggest trade war in economic history so far).
Sau khi Mỹ áp thuế 25% đối với hàng hóa Trung Quốc (trị giá 34 tỷ USD), và Trung Quốc lập tức trả đũa bằng áp thuế tương tự (trị giá 34 tỷ USD) đối với hàng hóa Mỹ, Trump đã chỉ thị cho Robert Lighthizer (đại diện thương mại) áp thuế nhập khẩu (trị giá tới 200 tỷ USD) để trừng phạt Trung Quốc đã trả đũa “unfair”, và ăn cắp sở hữu trí tuệ của Mỹ.  
Theo Bloomberg (20/7/2018), không dừng lại đó, Trump tuyên bố sẵn sàng đánh thuế tới 500 tỷ USD (tương đương tổng giá trị nhập khẩu từ Trung Quốc năm ngoái là 506 tỷ USD) để trừng phạt Bắc Kinh. Bên cạnh chiến tranh thương mại, Mỹ có thể ép Trung Quốc chạy đua vũ trang (như với Liên Xô trước đây). Không phải ngẫu nhiêm mà ngân sách quốc phòng của Mỹ (năm 2018) là 692 tỷ USD (bằng 3,5% GDP), vượt ngân sách quốc phòng thời Obama (năm 2016) là 100 tỷ USD. Tuy chưa biết chiến tranh thương mại Mỹ-Trung sẽ leo thang đến đâu, nhưng chính quyền Trump tỏ ra khá tự tin rằng Mỹ sẽ thắng trong cuộc chiến này.
Lập luận của Trump rất đơn giản. Trong khi Mỹ xuất khẩu khoảng 200 tỷ USD hàng hóa sang Trung Quốc, thì Trung Quốc xuất khẩu khoảng 500 tỷ USD hàng hóa sang Mỹ, chênh lệch khoảng 300 tỷ USD (Mỹ nhập siêu). Nếu Mỹ áp thuế lên hàng hóa Trung Quốc trong vòng 200 tỷ USD (giai đoạn 2), thì Trung Quốc có thể trả đũa một cách tương tự. Nhưng nếu Mỹ áp thuế 500 tỷ USD (giai đoan 3) lên toàn bộ hàng hóa của Trung Quốc thì Bắc Kinh không thể leo thang tiếp.  Theo CNBC (July 20, 2018), chiến tranh thương mại sẽ kéo theo chiến tranh tiền tệ và có thể dẫn đến khủng hoảng kinh tế toàn cầu (như năm 2008).
Bàn cờ đồng minh thế nào 
Khi kinh tế rối loạn, thì tài chính có thể sụp đổ, và kéo theo khủng hoảng chính trị và xã hội. Tuy hiện nay mới là bước dạo đầu của một trò chơi lớn, nhưng đã có nhiều dấu hiệu bất ổn. Thị trường tài chính châu Á đã biến động mạnh: Shanghai Composite giảm 1.8%, Hong Kong's Hang Seng giảm 1.3%, Japan's Nikkei giảm 1.2%... Để đối phó với thuế của Mỹ, Trung Quốc buộc phải phá giá đồng Nhân Dân Tệ 8%. Chỉ cần phá giá 10% (như dự báo trong vài tuần tới) là sẽ tới giới hạn báo động về “tâm lý chính trị”. Trong vòng một tháng, Trung Quốc đã mất tới 2.000 tỷ USD (bằng một nửa dự trữ ngoại hối của Trung Quốc).
Nhưng điều đáng chú ý là trong khi sàn chứng khoán Trung Quốc tiếp tục lao dốc và đồng NDT tiếp tục phá giá, thì sàn chứng khoán Mỹ vẫn tăng điểm và đồng USD vẫn tăng giá. Đó là điều làm cho Bắc Kinh đau đầu nhất. Một khi Trump đánh thuế 200% (từ 9/2018) và 500% (như vừa dọa), thì thị trường tài chính Trung Quốc có thể vỡ trận, dẫn đến một cuộc di tản tài chính ồ ạt (massive capital flight) tới các địa chỉ an toàn (safe heavens). Trong mấy tuần tới, nếu Trung Quốc phá giá đồng NDT 10% (như dự báo) thì chắc Việt Nam sẽ phải phá giá đồng VND 5%, và tỷ giá USD sẽ tăng tiếp (vượt mức 23,600 hiện nay). Trong khi đó sàn chứng khoán Việt Nam đã giảm từ đỉnh 1200 (9/4/18) xuống dưới mức 900 (hiện nay) và có thể xuống mức 700-750 (vào cuối năm). Đó là bức tranh ảm đạm “tiền khủng hoảng”.
Theo RFI, sau khi bị “choáng váng” trước những đòn trừng phạt ngày càng mạnh của Trump, Trung Quốc đã tăng cường ve vãn các nước châu Âu, định lập trục Bắc Kinh- Bruxelles (để cô lập Mỹ). Ngày 16/07/2018, Bắc Kinh đã trải thảm đỏ đón Donald Tusk (chủ tịch Cộng đồng Châu Âu) và Jean-Claude Juncker (chủ tịch Ủy ban Châu Âu), trong bối cảnh Trump vừa tuyên bố áp thuế lên hàng hóa Trung Quốc nhập khẩu trị giá tới 200 tỷ USD. (Choáng váng vì Trump, Trung Quốc cố ve vãn châu Âu nhưng bất thành, RFI, 20/7/2018).
Nhưng Phòng Thương Mại Cộng đồng châu Âu tại Trung Quốc (EUCCC) cho là đã quá muộn (too little too late), vì châu Âu bất bình với Trung Quốc “nói một đằng làm một nẻo”.  Hầu hết các các doanh nghiệp châu Âu kinh doanh tại Trung Quốc bị phân biệt đối xử. Tuy Trung Quốc xuất khẩu sang châu Âu gần 375 tỷ Euro (2017) và mua rất nhiều doanh nghiệp của họ, nhưng Trung Quốc vẫn đóng cửa thị trường đầu tư nước ngoài. Trong khi châu Âu coi toàn cầu hóa, tự do thương mại và chủ nghĩa đa phương là nguyên tắc, thì Trung Quốc chỉ coi đó là công cụ để thống trị thế giới. Châu Âu đã áp thuế chống phá giá lên 65 sản phẩm của Trung Quốc, trong đó có thép và nhôm (được Trung Quốc xuất vòng qua các nước khác).
Tuy chính phủ các nước châu Âu bất bình với cách ứng xử của Trump, nhưng chắc họ sẽ không liên minh với Trung Quốc (để cô lập Mỹ). Trước cách ứng xử trịch thượng của Trung Quốc, các nước châu Âu về lâu dài vẫn muốn liên minh với Mỹ. Tuy Bruxelles bên ngoài lên án chủ nghĩa đơn phương của Trump, nhưng bên trong vẫn ủng hộ những biện pháp trừng phạt của Mỹ đối với Trung Quốc đang vi phạm luật chơi quốc tế. Cả Bruxelles và Washington đều phản đối Trung Quốc trợ giá cho các tập đoàn để chiếm thị trường các nước. Về chiến lược, Anh và Pháp đã tuyên bố sẽ điều tầu chiến đến Biển Đông để tuần tra (FONOP).   
Philippe Le Corre (Havard KSG professor) nói rằng “Châu Âu không nên ngây thơ trước Trung Quốc”. Trung Quốc tăng ngân sách 20% cho tuyên truyền (charm offensive) để phát huy “quyền lực mềm” (soft power) trong khi tăng cường “quyền lực cứng” (kinh tế và quân sự). An ninh kinh tế nằm trong chiến lược toàn cầu của Bắc Kinh. Theo Le Core, những tuyên bố bất cẩn của Trump tuy gây hoang mang cho đồng minh, nhưng châu Âu nên đặt lợi ích chiến lược về lâu dài lên trên tính cách cá nhân của Trump. Nói cách khác, nếu xung đột lợi ích (chiến lược) Mỹ-Trung là không thể hòa giải, thì xung đột lợi ích (kinh tế) Mỹ-châu Âu là có thể hòa giải. Kết quả cuộc gặp Trump-Juncker vừa qua (26/7/2018) là một ví dụ. 
Nội bộ Trung Quốc ra sao
Về chính trị, gần đây có những dấu hiệu bất ổn trong nội bộ lãnh đạo Trung Quốc. Nhân dân Nhật báo (20/7/2018) mới đăng một bài “báo lạ” có tựa đề: “Diễn đàn Nhân dân Nhật báo: Vui mừng khi nghe những lời chỉ trích là thể hiện đẳng cấp văn hóa”. Bài báo này trích dẫn Mao Trạch Đông và nhấn mạnh “mỗi Đảng viên phải tự rèn luyện để có thể dám tiếp nhận lời phê bình”. Thời điểm xuất hiện bài báo trùng hợp với những tin đồn về chính biến tại Bắc Kinh và biến động nhân sự cấp cao. Có tin đồn các “nguyên lão” có thể truy cứu trách nhiệm của Tập Cận Bình tại cuộc họp Bắc Đới Hà sắp tới (8/2018), liên quan đến vấn đề lãnh đạo tập thể, sửa đổi Hiến pháp, chiến tranh thương mại và bất ổn tài chính. Trong thời gian diễn ra hội nghị, lực lượng bảo vệ Bắc Kinh có thể được thay thế, và thiết quân luật.
Nhưng đây không phải lần đầu có tin chính biến. Theo truyền thông Mỹ, Tập Cận Bình đã trải qua ít nhất 10 vụ ám sát hụt. Chính Tập đã nói với Thường vụ Bộ Chính trị (5/2016); “Nếu tôi bất ngờ bị hãm hại, bầu trời sẽ không vì thế mà sụp xuống, con đường tổ quốc tiến lên sẽ không dừng lại”. Lần này tuy chưa rõ thực hư, nhưng có thể các thế lực chống đối Tập Cận Bình nhân cơ hội này đang tìm cách trỗi dậy, nên diễn biến còn phức tạp.  
Có lẽ vì vậy ngày 16/7/2018, Lật Chiến Thư (Li Zhanshu) chủ tịch Quốc Hội (NPC) đã tổ chức “học tập” để kêu gọi lãnh đạo phải đảm bảo quyền lực “hạt nhân” Tập Cận Bình theo “định tại nhất tôn” (như vua). Ngày 18/7 Bộ trưởng Công an Triệu Khắc Chí (Zhao Kezhi) họp lãnh đạo Bộ Công an để nhắc lại quan điểm của Lật Chiến Thư. Ngày 19/7, Bí thư tỉnh Quảng Đông Mã Hưng Thụy (Ma Xingrui) cũng khẳng định lại quan điểm đó.
Về biến động nhân sự, sau ngày 4/7/2018, Vương Hộ Ninh (Wang Huning) đã bất ngờ “biến mất”. Ngày 19/7, Tập Cận Bình đi thăm Emirates và bốn nước châu Phi. Cùng đi có Đinh Tiết Tường (Ding Xuexiang) nhưng không có Vương Hộ Ninh (như mọi khi). Theo nhà bình luận Trần Phá Không (Chen Pokong) Vương Hộ Ninh là “tùy tùng nòng cốt” của Tập, nên đây là dấu hiệu bất thường. Có tin “Tập vứt Vương (Hộ Ninh) bảo Lưu (Hạc)”. Vương Hỗ Ninh có thể bị thanh trừng vì lý do chiến tranh thương mại Mỹ-Trung và sẽ được thay bằng Đinh Tiết Tường (Chánh văn phòng TƯ). Có tin Hồ Xuân Hoa (Hu Chunhua, phó thủ tướng) được vào Thường vụ Bộ Chính trị để trở thành người kế nhiệm Tổng Bí thư. Nhưng Lật Chiến Thư mới là cánh tay phải được Tập tin cậy nhất, ngoài Vương Kỳ Sơn (Wang Qishan).
Xét cho cùng, Vương Hỗ Ninh dù tài giỏi đến mấy, cũng không phải là superman. Những tài sản chính trị (political assets) do công lao của Vương trước đây (qua ba đời Tổng Bí Thư) nay có thể trở thành món nợ chính trị (political liability). Những biến động trong nội bộ lãnh đạo Trung Quốc có thể phản ánh những trục trặc trong chính sách đối ngoại và quan hệ quốc tế của họ, mà chiến tranh thương mại Mỹ-Trung đang làm bộc lộ những ẩn số.  
Theo Lê Thu Hương (ANU/ASPI analyst), Trung Quốc đã trở thành một cường quốc kinh tế quái vật (a monstrous economic power) mà Richard Nixon gọi là Frankenstein, không chịu bị ràng buộc bởi luật lệ toàn cầu (như phương Tây mong đợi), mà ngược lại trở thành “một bên tham gia tàn bạo” (a ruthless stakeolder). Chiến thuật (tầm ăn dâu) của Trung Quốc tại Biển Đông có thể thành công, vì họ biết tranh thủ thời cơ để quân sự hóa và kiểm soát vùng biển này (như cái ao của mình) trong khi cộng đồng quốc tế còn đang “xem xét” (keeps pondering). Họ đã tranh thủ cơ hội để lấp lỗ hổng lãnh đạo toàn cầu (filling the void in global leadership) khi Trump đã biếu Tập Cận Bình một cơ hội chiến lược (strategic opportunity). Thông qua “bẫy nợ” (debt trap) như một quốc sách kinh tế (economic statrecraft) và dùng BRI và AIIB làm đòn bẩy, Trung Quốc đã khống chế được nhiều nước trên thế giới, kể cả các nước láng giềng có tranh chấp lãnh thổ hay lãnh hải như Malaysia, Philippines và Việt Nam. (Chinas Aggression Is Starting to Backfire, Huong Thu Le, National Interest, July 24, 2018).
Trên thực tế, “bẫy nợ” và các “tài sản quốc gia được nhượng lại” (compromised national strategic assets) là hệ quả đáng sợ nhất của đại dự án “Một Vành đai Một Con đường” (most feared outcomes of the BRI). Trung Quốc biết khai thác điểm yếu nhất của con người là “tham lam và sợ hãi” (greed and fear). Họ đã chiếm được nhiều hải cảng từ Djiboutito (sừng châu Phi) đến Hambantota (Ấn Độ Dương), từ Sihanoukvilles đến Darwin, và giành được vị thế toàn cầu một cách nhanh chóng. Nhưng “chiến lược cưỡng chế đầy tham vọng và nôn nóng của Tập Cận Bình lại tỏ ra vô cảm đối với những giá trị, lợi ích và nhu cầu của cộng đồng cùng chung vận mệnh” (Xi Jinping's ambitious and impatient strategy of assertion is insensitive to fellow common community members' values, interests and needs). Trung Quốc quyết theo đuổi một chiến lược tốn kém bằng cách “mua đứt” những ai theo mình, chứ không cần chiếm được trái tim và khối óc của bạn bè, đối tác (doubling down on a costly strategy of buying followers rather than winning the hearts and minds of friends and partners).
Theo tác giả, cách gây ảnh hưởng chính trị của Trung Quốc đã vượt quá mức chịu đựng của nhiều nước, nên dẫn đến một làn sóng phản ứng ngày càng mạnh trên thế giới (a growing wave of push-back from around the globe). Cách gây dựng quan hệ cá nhân của Trung Quốc có thể “phản tác dụng” (backfire). Malaysia là một bài học. Do tư duy “từ trên xuống” (top-down) nên Trung Quốc có chiến lược nhắm vào những cá nhân lãnh đạo mà trước mắt hiệu quả nhanh, nhưng không có cơ sở vững bền lâu dài, một khi họ bị mất chức. Thủ tướng Najib Razak của Malaysia là một ví dụ (hay thượng nghị sỹ Sam Dastyari của Úc). Sau khi đánh bại ông Razak, thủ tướng Mahathir đang đảo ngược lại bàn cờ chính trị Malaysia.             
Việt Nam là một bài học khác. Quan hệ của Trung Quốc với Việt Nam là một ví dụ về tương quan gần gũi và lâu dài, vượt qua tầm cá nhân (như quan hệ hai đảng). Hà Nội và Bắc Kinh đã phát triển mối quan hệ gắn bó qua nhiều thập kỷ. Nhưng thay vì vun đắp mối quan hệ đó, Bắc Kinh đã vội vã áp đặt tham vọng của họ tại Biển Đông, nên đã xô đẩy Việt Nam ngày càng xa và ngả vào vòng tay người khác (trước đây là Nga, và bây giờ là Mỹ). Không phải chỉ có Việt Nam muốn “thoát Trung”, mà nay Bắc Triều Tiên cũng muốn như vậy. 
Trở về tương lai thời chiến tranh lạnh
Sau khi bắt tay Kim Jong-un tại cuộc gặp cấp cao Mỹ-Trung (đầy kịch tính) tại Singapore (12/6/2018), để tháo ngòi nổ vấn đề Triều Tiên, nay Trump lại bắt tay Putin tại cuộc gặp cấp cao Mỹ-Nga (đầy tranh cãi) tại Helsinki (16/7/2018), để bình thường hóa với Nga. Cả hai nước cờ trên đều nhắm đến một cái đích chính là cô lập Trung Quốc. Dường như bóng ma Reagan lại lờ mờ hiện ra trong bức tranh thời chiến tranh lạnh (với hai cực Mỹ-Xô). Liên Xô đã sụp đổ một phần là do chạy đua vũ trang với Mỹ (đến kiệt sức và cạn máu).   
Đây là cuộc gặp thượng đỉnh có nhiều ý nghĩa chiến lược và chiến thuật, mà Trump (và các cố vấn chủ chốt) đang tạo ra một bước ngoặt mới, có thể làm thay đổi bàn cờ địa chính trị thế giới, mà trước đây đã bị Nga, Trung Quốc và Bắc Triều Tiên thao túng, trong khi Mỹ và các đồng minh dường như bị bất lực. Đó là hệ quả của thời Clinton và Obama đã để Nga lấn lướt (chiếm Crimea) trong khi để Trung Quốc qua mặt (kiểm soát Biển Đông).
Tuy dư luận Mỹ (đặc biệt là giới báo chí) đã phản ứng tiêu cực đối với cuộc gặp Trump-Putin (nhất là cuộc họp báo), nhưng giới phân tích chính trị quốc tế không thể phủ nhận ý nghĩa quan trọng của nước cờ chiến lược này của Mỹ (trong bối cảnh Trump vừa bắt tay với Kim Jong-un). Trong khi Trump và Putin bắt tay nhau (dù chưa chặt lắm), chắc Tập Cận bình rất lo ngại, vì sự kiện này đối với Bắc Kinh là tin dữ (chứ không phải tin lành).
Có những động lực nào thúc đẩy sự kiện này? Putin bắt tay với Trump để hóa giải khó khăn kinh tế vì Nga bị phương Tây cấm vận (sau khi chiếm Cremea và can thiệp vào Syria). Trump bắt tay với Putin để phân hóa Nga nhằm cô lập Trung Quốc để dễ bề đối phó, đồng thời hóa giải sức ép chính trị trong nước. Robert Mueller vẫn đang điều tra sự can thiệp của Nga vào bầu cử Mỹ, và Bộ Tư Pháp Mỹ vừa truy tố 12 nhân viên tình báo Nga. Nhưng điều đó có thể không cản được Trump mời Putin đến Washington để bình thường hóa quan hệ. 
Có thể so sánh cái bắt tay Trump-Putin (7/2018) với cái bắt tay Nixon-Mao (12/1972) trong trò chơi quyền lực giữa ba nước lớn (thời chiến tranh lạnh). Nixon và Kissinger đã từng chơi “lá bài Trung Quốc” để chống Nga. Nay Trump định chơi “lá bài Nga” để chống Trung Quốc đang trỗi dậy đe dọa lợi ích toàn cầu của Mỹ. Tập Cận Bình đã từng chơi “lá bài Nga” để chống Mỹ, thì nay Trump cũng có thể chơi “lá bài Nga” để lật lại thế cờ. Có lẽ tam giác Mỹ-Trung-Nga đang “trở về tương lại” (back to the future) như thời chiến tranh lạnh.   

Đa số dư luận Mỹ (cả Dân chủ và Cộng hòa) đều phản ứng tiêu cực trước cuộc gặp Trump-Putin vì lâu nay người Mỹ nghi ngờ Putin chơi xấu, và bất bình trước thái độ ứng xử bất cẩn của Trump. TNS John McCain đã bình luận ngay sau cuộc họp báo Trump-Putin rằng “Trump là tổng thống Mỹ đã hành xử một cách đáng xấu hổ nhất từ trước đến nay” (one of the most disgraceful performances by an American president in memory).

Giới báo chí Mỹ phản ứng càng mạnh còn vì lý do lâu nay Trump coi thường họ. Washington Post (17/7/2018) bình luận cuộc gặp thưởng đỉnh Trump-Putin tại Helsinki là “một sự kiện lịch sử - với nghĩa xấu nhất có thể” (a historic event - in the worst possible way). Một số nhà báo còn cho rằng Trump có thể “đã nháy mắt với Putin” (ám chỉ hai bên muốn thông đồng với nhau). Dư luận phản đối Trump mạnh chủ yếu vì thái độ bất cẩn của ông, như đổ thêm dầu vào lửa. Nhưng chỉ trích của báo chí có thể làm lu mờ ý nghĩa chiến lược của sự kiện này.

Theo Reuters (17/7/2018), Trump tuyên bố “Sẽ có kết quả lớn với Putin” (Big results will come with Putin). Trump còn viết trên Twitter (như khiêu khích dư luận): “Putin và tôi đã thảo luận nhiều chủ đề quan trọng khi chúng tôi gặp nhau. Chúng tôi rất hợp nhau, làm nhiều người ghét tôi vì họ chỉ muốn thấy một trận đấu quyền anh…” (Putin and I discussed many important subjects at our earlier meeting. We got along well which truly bothered many haters who wanted to see a boxing match). Theo NPR (17/7/2018) một nhà bình luận Nga nói rằng Trump-Putin saummit tại Helsinki “còn hơn cả tuyệt với” (Better Than Super).

Trò chơi quyền lực mới           
Kế hoạch “Made in China 2025” chú trọng nâng cao sức sản xuất của Trung Quốc trong 10 lĩnh vực chiến lược dựa trên công nghệ. Nhưng thay vì bỏ tiền, công sức và thời gian để nghiên cứu và phát triển, Trung Quốc bị cáo buộc đã tìm cách “đánh cắp công nghệ” của các nước khác, thông qua tin tặc, gián điệp, thôn tính và ép các công ty nước ngoài đầu tư tại Trung Quốc. Theo Reuters (17/1/2017), Trump và Cố vấn kinh tế Gary Cohn đã cáo buộc Trung Quốc ép các công ty Mỹ phải chuyển giao tài sản trí tuệ cho họ như điều kiện để được kinh doanh tại Trung Quốc, nên nhiều công ty Mỹ đang rút khỏi đây. Nay chính quyền Trump quyết định hạn chế các doanh nghiệp Trung Quốc đầu tư vào Mỹ là để “khép chặt cánh cửa” đối với Trung Quốc muốn tiếp cận hàng ngàn doanh nghiệp Mỹ. Đó là trò chơi quyền lực mới.
Theo báo WSJ (6/4/2018) kiến trúc sư của chiến lược đối đầu thương mại với Trung Quốc là Robert Lighthizer (đại diện thương mại hiện nay). Lighthizer và Trump có nhiều điểm tương đồng nên khá thân nhau (the two men are like-minded and bonded by a similar sense of humor). Lighthizer thường được đi cùng máy bay Air Force One, và hay được Trump gọi vào Oval Office để trao đổi. Theo Kevin Hassett (White House chief economist) Lighthizer được nhiều người tin tưởng, tuy quan điểm về thương mại có thể khác nhau. 
Trong khi Peter Navarro (cố vấn thương mại) có tư tưởng chống Trung Quốc, với vai trò đảm bảo Nhà Trắng thực hiện lời hứa của Tổng Thống (khi tranh cử) là không để Trung Quốc trục lợi, thì Lighthizer thuộc phái diều hâu, chống Trung Quốc bằng hành động. Lighthizer phụ trách thương mại, đề xuất chiến lược và triển khai. Cả hai nhân vật này cộng tác với nhau để xây dựng chính sách với Trung Quốc, tuy chiến thuật của họ có thể khác nhau. Trong khi đó, các nhân vật thuộc phái “toàn cầu hóa” như Gary Cohn (cựu giám đốc Hội đồng Kinh tế Quốc gia (NEC) thường lo xung đột thương mại ảnh hưởng tới thị trường. Lighthizer là một luật sư có nhiều kinh nghiệm về cách thức làm việc của Quốc Hội cũng như Chính quyền.  
Vai trò của Lighthizer khác hẳn vai trò của những chuyên gia về Trung Quốc trong các chính quyền trước như Henry Paulson (cựu bộ trưởng tài chính thời George Bush) đã từng chỉ đạo chính sách kinh tế với Trung Quốc. Paulson đã từng giúp Trung Quốc triển khai chính sách tư nhân hóa (privatizations) và tiếp tục quan hệ với lãnh đạo Trung Quốc. Nhưng thời Hồ Cẩm Đào đã qua rồi, nay Trump phải đối phó với “hoàng đế đỏ” Tập Cận Bình.
Theo giáo sư David Lampton (Johns Hopkins), quan hệ Mỹ-Trung hiện đang ở thời điểm “bùng phát” (tipping point), và quan hệ này đang được điều chỉnh để thoát khỏi tình trạng đã tồn tại 45 năm qua. Chính quyền Trump quyết đẩy lùi Trung Quốc trên các lĩnh vực như ăn cắp tài sản trí tuệ, hạn chế tiếp cận tại khu vực Biển Đông, sáng kiến Một vành đai Một con đường (BRI). (Mattis’ Visit to China: Agree to Disagree? Shannon Tiezzi, June 29, 2018).
Nói cách khác, chiến tranh thương mại Mỹ-Trung chỉ là “phần nổi của tảng băng chìm” (tip of the iceberg). Có lẽ đó chỉ là bước khởi đầu (và một phần) của ý đồ chiến lược lớn hơn, nhằm thay đổi lại trật tự thế giới mà Trump cho là “không công bằng” (unfair) và bất lợi cho Mỹ. Nếu chỉ muốn thay đổi cán cân thương mại với Trung Quốc (vì nhập siêu quá lớn) thì lẽ ra Mỹ phải lôi kéo các đồng minh (như tây Âu và Nhật) về phía mình để đối phó với Trung Quốc. Nhưng tại sao Trump lại áp thuế để trừng phạt cả đồng minh? Có lẽ Trump không chỉ muốn thay đổi luật chơi mà xóa cả bàn cờ quốc tế để làm lại (constructive destruction).
Đến đây, có lẽ người ta buộc phải đặt câu hỏi: vậy Trump là ai? Có phải là một người mắc chứng hoang tưởng hay là “một thiên tài ổn định” (stable genius)? Hay là cả hai? Dù muốn hay không Trump vẫn là tổng thống Mỹ đầy quyền lực gần 7 (hoặc ít gần 3) năm nữa. Nhưng còn một câu hỏi quan trong khác: vậy đằng sau Trump là ai? Sau những thay đổi về nhân sự chủ chốt trong Nhà Trắng (và những tranh cãi gay gắt gần đây về chính sách Trung Quốc) thì phái “diều hâu” (hawks) chủ trương cứng rắn với Trung Quốc (như Peter Navarro, Robert Lightizer, Jim Mattis) vẫn đang cầm chịch. Steve Bannon dù đã mất chức nghỉ hưu nhưng tư tưởng của ông ấy vẫn còn lảng vảng trong Nhà Trắng (hay trong đầu của Trump).  
Dấu ấn Lighthizer
Theo báo WSJ, chính sách cứng rắn của Trump đối với Trung Quốc bắt đầu từ một cuộc họp tại Nhà Trắng (8/2017). Trong cuộc họp đó, Lighthizer đã lập luận rằng nhiều năm đàm phán với Bắc Kinh không có kết quả, nay đến lúc phải đối đầu. Mấy ngày sau, Trump tuyên bố mở cuộc điều tra các vi phạm của Trung Quốc về sở hữu trí tuệ (do Lighthizer cầm đầu). Đó là mốc khởi đầu chủ trương mới “đầy kịch tính và rủi ro trong nhiều thập kỷ” (most dramatic and high-risk effort in decades) để buộc Trung Quốc phải thay đổi thái độ ứng xử. Có thể nói rằng quyết định đánh thuế cao lên hàng hóa Trung Quốc mang đậm “dấu ấn Lighthizer”.
Chính quyền Trump đã chuyển sang chủ trương đối đầu với Trung Quốc từ sau cuộc họp quan trọng đó. Nhưng Lighthizer đã phải cố gắng vận động để có sự nhất trí, vì có nhiều ý kiến bất đồng. Các chính quyền trước thường không muốn đối đầu với Trung Quốc, vì sợ làm kinh tế toàn cầu bị suy thoái, và sợ Trung Quốc sẽ không hợp tác về các vấn đề an ninh khác. Điều đó chẳng khác gì Mỹ bị Trung Quốc “bắt chẹt” (blackmailed) bằng cái “bẫy phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế” (economic co-dependency trap), do chính người Mỹ đã tạo ra.
Điều đáng chú ý là Jim Mattis (Bộ trưởng Quốc phòng) cũng ủng hộ quan điểm cứng rắn với Trung Quốc, vì lo ngại Trung Quốc chiếm đoạt công nghệ của Mỹ và có thể chiếm ưu thế quân sự. Theo Marcel Lettre (nguyên thứ trưởng bộ Quốc Phòng, phụ trách tình báo) Trung Quốc có ngân sách quốc phòng lớn thứ hai thế giới, có đội quân thường trực lớn nhất thế giới, có không quân lớn thứ ba thế giới, và hải quân Trung Quốc có hơn 300 tàu chiến, bao gồm 60 tàu ngầm. Những người cầm đầu cơ quan an ninh quốc gia Mỹ cũng mệt mỏi và đau đầu vì Trung Quốc thường không giữ lời hứa về các vấn đề an ninh (như với Triều Tiên).
Cuối tháng 2/2018, Trung Quốc cử Liu He (Lưu Hạc) là phó thủ tướng, làm đặc phái viên kinh tế, đến Washington để đàm phán. Lưu Hạc hứa Bắc Kinh sẽ mở cửa thị trường tài chính, nhưng phía Mỹ tỏ ra lạnh nhạt. Khi cửa sổ cơ hội đã đóng lại, thì cố gắng của Lưu Hạc là “quá ít quá muộn” (too little too late). Vì vậy, Lưu Hạc không gặp được Trump, mà chỉ gặp Robert Lighthizer, Gary Cohn và Steven Mnuchin (bộ trưởng tài chính). Thông điệp của Mỹ rất đơn giản: họ sẽ không để bị lợi dụng (tapped around) như chính quyền trước.
Sau khi Trung Quốc dọa trả đũa, Trump tuyên bố sẽ đánh thuế tăng lên gấp ba lần (tripling the amount) vì Trung Quốc trả đũa không công bằng (unfair retaliation). Trong khi đó người phát ngôn bộ Thương Mại Trung Quốc vẫn tỏ ta cứng rắn: “Bắc Kinh sẵn sàng đáp trả mạnh mẽ không ngần ngại” (Beijing is fully prepared to hit back forcefully and without hesitation). Tuy chưa rõ vai trò của Lưu Hạc, nhưng Bắc Kinh có thể mắc sai lầm khi họ quá tự tin nên bị bất ngờ, và các quan chức Trung Quốc “bị sốc” trước quyết định của Mỹ.
Nhận thức chiến lược mới
Tuy nhiều người Mỹ, kể cả phe Cộng Hòa (như John McCain) phản đối Trump (chủ yếu vì tính cách và thái độ ứng xử), nhưng vẫn có nhiều người ủng hộ lập trường cứng rắn đối với Trung Quốc. Không chỉ có lãnh đạo bộ Quốc Phòng (như Jim Mattis), mà các quan chức an ninh và tình báo cũng đồng thuận với lập trường cứng rắn đối với Trung Quốc. Đây là một sự chuyển biến cơ bản về nhận thức chiến lược (do chính Trung Quốc tạo ra).
Theo CNN (21/7/2018) tại một diễn đàn quan trọng về an ninh (Aspen Security Forum, Colorado) Michael Collins (trợ lý giám đốc CIA về Đông Á), tỏ ra lo ngại về sự trỗi dậy của Trung Quốc. Theo Collins, “Tập Cận Bình và chế độ của ông đang tiến hành một cuộc chiến tranh lạnh chống lại Mỹ…được người Trung Quốc xác định là “xung đột về hệ thống” (system conflict). Mối đe dọa của Trung Quốc đối với Mỹ là “thách thức lớn nhất toàn cầu” (the greatest global challenge) còn hệ trọng hơn nhiều so với thách thức của Nga.
Christopher Wray (giám đốc FBI) và Dan Coats (giám đốc Tình báo Quốc gia) cũng cho rằng “Trung Quốc là nguy cơ quan trọng nhất đối với Mỹ hiện nay” (China as the most significant danger for the US today)…Theo quan điểm phản gián (counterintelligence perspective) thì Trung Quốc là “mối đe dọa và thách thức lớn nhất” (the broadest, most challenging, most significant threat), về tình báo kinh tế (economic espionage) cũng như tình báo truyền thống (traditional espionage), nhằm thu thập tin tức tình báo không thông thường, cũng như hoạt động tình báo thông thường, bằng con người cũng như qua mạng (hacking).
Susan Thornton, (quyền trợ lý ngoại trưởng về Đông Á-Thái Bình Dương) chỉ ra sự bế tắc tại Biển Đông “là nơi mà sự có mặt của Mỹ có thể buộc Bắc Kinh phải đàm phán với các nước khu vực có tranh chấp lãnh hải…Mấy năm qua, Trung Quốc đã xây nhiều đảo nhân tạo và quân sự hóa Biển Đông, gồm các trạm radar, tên lửa, và sân bay. Bắc Kinh khẳng định hầu hết Biển Đông thuộc chủ quyền của họ, coi quan điểm của cộng đồng quốc tế là sai trái…Liệu Trung Quốc có bị giàng buộc bởi luật pháp và liệu Trung Quốc có chịu đàm phán với ASEAN như các đối tác đa phương hay sẽ phân hóa từng nước một để họ dễ bắt nạt?”. 
Chiến lược An ninh Quốc gia Mỹ (NSS) được công bố 12/2017, có đề cập đến các hành động nhằm đối phó với Trung Quốc về “lĩnh vực công nghệ và mạng” (technological and cyber fronts)”. Nhưng Mỹ cần hợp tác với các đối tác khác để đối phó với các hoạt động của Trung Quốc và vận động Bắc Kinh chấp thuận công ước quốc tế. Người Trung Quốc giỏi tranh thủ cơ hội. Trong khi Mỹ bận đối phó với Trung Đông và khủng hoảng tài chính, Trung Quốc đã thừa cơ bắt nạt các nước khu vực, để quân sự hóa và kiểm soát Biển Đông.
Việt Nam đang ở đâu? 
Thứ nhất, Việt Nam có thể trở thành bãi rác cho công nghệ lạc hậu của Trung Quốc đang bị đào thải, gây ô nhiễm môi trường, như các nhà máy nhiệt điện chạy bằng than (như Vĩnh Tân) và các nhà máy luyện thép (như Formosa). Thứ hai, Việt Nam đang trở thành sân sau của Trung Quốc, tiếp tay cho họ tránh thuế nhập khẩu vào Mỹ bằng cách dán nhãn “made in Việtnam”. Thứ ba, Việt Nam bị ảnh hưởng kinh nghiệm xấu của Trung Quốc (như luật an ninh mạng và luật đặc khu kinh tế) nhưng lại không học được kinh nghiệm tốt của họ.     
Trong bối cảnh chiến tranh thương mại đang diễn ra và thị trường thế giới đang co lại, thì nền kinh tế Việt Nam đã khai thác gần hết công suất xuất-nhập khẩu (chủ yếu dựa vào FDI). Vì vậy, chiến tranh thương mại Mỹ-Trung có thể tác động xấu đến Việt Nam. Tuy lần này chiến tranh tiền tệ chưa diễn ra, nhưng bắt đầu có những dấu hiệu bất ổn như thị trường chứng khoán vừa qua đã sụt giảm rất mạnh, và tỷ giá ngoại tệ biến động bất thường.
Việt Nam thường neo tỷ giá hối đoái cố định vào đồng USD, và đang cất giữ số tài sản là ngoại hối và trái phiếu của Mỹ nhiều nhất so với các tài sản dự trữ khác. Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ nhiều hơn các nước ASEAN (như Malaysia). Năm 2017, Việt Nam buôn bán với Mỹ đạt mức thặng dư thương mại đáng ngạc nhiên là 38,4 tỷ USD, trong khi Malaysia chỉ đạt mức 24,6 tỷ USD. Chỉ tính trong quý I/2018, Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ đạt 11,4 tỷ USD, và nhập khẩu từ Mỹ đạt 2,1 tỷ USD, nên thặng dư thương mại (xuất siêu) với Mỹ là 9,3 tỷ USD, trong khi đó Malaysia chỉ đạt thặng dư thương mại với Mỹ là 6,1 tỷ USD). 
Theo tiến sĩ Vũ Thành Tự Anh (Đại học Fulbright), FDI tạo ra hơn 70% giá trị xuất khẩu. Tỷ lệ xuất nhập khẩu trên GDP của Việt Nam là 203% (2017), trong khi tỷ lệ trung bình trên thế giới là 28%, và tỷ lệ của Trung Quốc là 19,6%. FDI của Việt Nam chiếm 7,7% GDP, cao gấp đôi tỷ lệ bình quân của thế giới là 3,1%. FDI tại Việt Nam xuất siêu gần 26 tỷ USD. Có lẽ không có nước nào trên thế giới có tỷ lệ đầu tư nước ngoài so với tổng đầu tư cao như Việt Nam. (Nghịch lý FDI, Vũ Thành Tự Anh, Thời báo Kinh tế Sài Gòn,15/07/2018).
Ông Anh cho biết có 2 nghịch lý về FDI: Thứ nhất, “tuy công nghệ cao nhưng kỹ năng lại thấp”. Thứ hai, “tuy công nghệ cao nhưng giá trị gia tăng lại thấp”. Phụ thuộc vào FDI là “cái bẫy gia công giá trị thấp”. Muốn thoát khỏi cái bẫy đó phải tháo gỡ ách tắc về thể chế để chuyển đổi cơ cấu và tăng năng suất lao động. Hiện nay, hầu hết các dự án FDI chỉ tận dụng nhân công rẻ mạt, mà không đóng góp đáng kể vào việc chuyển giao công nghệ mới.
Gần đây Bộ Thương Mại Mỹ đã áp thuế nhập khẩu 25% lên sản phẩm thép và 10% lên sản phẩm nhôm (có nguồn gốc Trung Quốc), để ngăn chặn hàng Trung Quốc xuất khẩu qua Việt Nam. Đó chỉ là động thái ban đầu của Mỹ nhằm đảm bảo “công bằng và đối ứng”. Theo chủ trương của Trump, Mỹ đang “khép chặt cánh cửa” đối với Trung Quốc với những quy định mới. Các công ty có từ 25% vốn sở hữu của Trung Quốc bị cấm mua lại những công ty công nghệ cao của Mỹ (như không gian vũ trụ, người máy, công nghiệp ô tô). 
Nếu Trump thực hiện lời đe dọa tăng thuế lên mức 200 tỷ và 500 tỷ USD để trừng phạt Trung Quốc, thì sẽ tạo ra một cơn sốc mạnh, không chỉ tác động tới Trung Quốc, mà còn tới các nền kinh tế Châu Á khác (trong đó có Việt Nam). Tác động tới đâu còn phụ thuộc vào diễn biến của chiến tranh thương mại và quan hệ Viêt-Trung cũng như Việt-Mỹ. Xét cho cùng, chiến tranh thương mại Mỹ-trung đem lại cả rủi ro và cơ hội (như con dao hai lưỡi).   
Trong khi đó, luật an ninh mạng và luật đặc khu kinh tế mang đậm dấu ấn Trung Quốc. Nó mâu thuẫn với kinh tế thị trường và cam kết quốc tế khi Việt Nam gia nhập WTO, đồng thời làm cản trở sự phát triển kinh tế của Việt nam. Dù luật an ninh mạng có được thi hành không và luật đặc khu kinh tế có được thông qua không, thì Việt Nam khó lòng thu hút được các công ty công nghệ cao của Mỹ và phương Tây vào đầu tư. Luật pháp của họ cấm các công ty đầu tư và kinh doanh tại các nước không có hệ sinh thái nhân quyền và tự do thông tin.
Nếu chính quyền muốn ép Google và Facebook phải hợp tác để kiểm soát truy cập mạng tại Việt Nam thì chắc chẳng có chuyên gia hay nhà đầu tư nước ngoài nào (của Mỹ và phương Tây) muốn tới Việt Nam để làm việc. Trung Quốc khác Việt Nam là họ đã xây dựng được các mạng nội địa (như “WeChat” và “Baidu”) để phục vụ người Trung Quốc, trong khi Việt Nam chưa có bất cứ công cụ tìm kiếm nào để thay thế được Google hay Facebook. 
Việt Nam phải làm gì?
Theo tiến sỹ Vũ Quang Việt (chuyên gia thống kê LHQ), Việt Nam nên coi tình huống chiến tranh thương mại Mỹ-Trung là một “tình trạng khẩn cấp” (state of emergency) để kịp thời có các biện pháp bảo vệ sản xuất nội địa của mình. Vấn đề là cần xác định khi nào điều này xảy ra mà thôi. Việt Nam cần sửa soạn hành động thích hợp khi có tình trạng khẩn cấp, vì các luật thương mại cho phép các quốc gia bảo vệ thị trường của mình khi đối tác vi phạm hiệp định (WTO). “Theo tôi, các biện pháp đối sách cần được sửa soạn, công bố một cách rộng rãi và áp dụng trong trường hợp khẩn cấp khi chiến tranh thương mại Mỹ-Trung được cho là chính thức xảy ra” (Việt Nam cần làm gì để bảo vệ sản xuất nội địa? BBC, 24/7/2018).
Theo chuyên gia kinh tế Lê Đăng Doanh, Việt Nam cần đặc biệt đề phòng hàng hóa của Trung Quốc tràn vào Việt Nam và hàng hóa của nước này “dán nhãn mác của Việt Nam” để tránh thuế của Mỹ và các tác động tiêu cực khác. Ông Doanh nói chiến tranh thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc hiện nay đã bắt đầu và đang diễn biến rất phức tạp, có thể tác động tiêu cực đến thương mại toàn cầu. Cuộc chiến tranh thương mại đó chắc chắn sẽ tác động đến Việt Nam vì hiện nay các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (FDI) chiếm đến 71% tổng xuất khẩu của Việt Nam. “Phía Việt Nam phải hết sức chủ động đề phòng và đề xuất các phương án để tìm kiếm những thị trường thích hợp, tránh “trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết”.
Theo Nguyễn Minh Quang (Diplomat, 24/7/2018) “Trung Quốc càng mạnh, thì nguy cơ càng lớn hơn đối với Việt Nam” (the stronger China gets, the more serious of a potential threat Vietnam faces). Theo tôi không phải chỉ vì Trung Quốc mạnh, mà còn vì họ hung hăng muốn bắt nạt và thôn tính láng giềng. Tôi đồng ý với nhận định của tác giả là do thất bại của “các chính sách kinh tế đầy rủi ro vì không suy xét kỹ trước đây (failure of recent risky and ill-conceived economic policies) nên bây giờ chính phủ muốn chuyển sang làm kinh tế đặc khu (shifted attention to the emergence of economic enclave initiatives). Nhưng đây không chỉ là một giải pháp tình huống mà còn là bản chất của các nhóm lợi ích muốn làm giàu nhanh qua đầu cơ và trục lợi bằng mọi giá (bất chấp cả an ninh quốc gia), nên rủi ro còn lớn hơn trước. (Vietnam - Dawn of the SEZs, Nguyen Minh Quang, Diplomat, July 24, 2018).
Theo VOA (10/7/2018) Trung Quốc có thể dùng Việt Nam để “đỡ đạn” cho họ trong cuộc chiến tranh thương mại Mỹ-Trung. Nếu mô hình “khu hợp tác kinh tế qua biên giới” theo ý tưởng của Trung Quốc được triển khai như dự kiến, thì Việt Nam sẽ trở thành một “nơi trú ẩn” cho hàng hóa Trung Quốc đang bị Mỹ đánh thuế cao để trừng phạt. Không biết Việt Nam có muốn chịu đòn thay cho “người bạn 16 chữ vàng” (vì “cùng chung vận mệnh”?).    
“Khu hợp tác kinh tế qua biên giới” là một ý tưởng của Trung Quốc đưa ra từ lâu nhưng vẫn đang đàm phán với các nước liên quan, trong đó có Việt Nam. Mô hình này được mô tả là “hai nước một khu, tự do thương mại, vận hành khép kín”. Khu hợp tác kinh tế qua biên giới có các phân khu theo chức năng như khu chế tạo, gia công, kho bãi, thông quan hàng hóa, còn trung tâm thương mại sẽ phối hợp quản lý, khai thác và phân chia lợi nhuận.
Theo báo “South China Morning Post” (7/2018) các quan chức Quảng Tây (Trung Quốc) đang nhắm 7 khu vực mậu dịch biên giới với Việt Nam để các nhà xuất khẩu Trung Quốc đến lắp ráp các sản phẩm điện tử tại đây và dán nhãn “made in Vietnam”. Một trong những khu vực này là thị xã Bằng Tường, thuộc địa phận Sùng Tả của Trung Quốc. Lu Hui (phó thị trưởng Bằng Tường) nói với báo SCMP rằng ông rất muốn tạo ra một khu hợp tác với Việt Nam với “nguồn vật liệu, vốn và nhân công tự do”. Các sản phẩm được sản xuất trong khu vực này có thể được lựa chọn để dán nhãn “made in Vietnam” hay “made in China”. 
Trong bối cảnh chiến tranh thương mại đang leo thang, các chuyên gia lo ngại rằng nếu Việt Nam trở thành “nơi trú ẩn” cho hàng hóa Trung Quốc để tránh bị Mỹ đánh thuế, thì quan hệ Việt-Mỹ chắc sẽ bị tổn thương. Theo Muray Hiebert (CSIS) chính quyền Trump sẽ “để mắt kỹ hơn” nhằm theo dõi nguồn hàng hóa Trung Quốc thông qua bên thứ ba (như Việt Nam) để xuất khẩu sang Mỹ. Vì vậy, đây không phải là một “lối thoát dễ dàng”.    
Muray Hiebert nói tuy còn quá sớm để kết luận cụ thể về tác động của cuộc chiến tranh thương mại Mỹ-Trung đối với kinh tế Việt Nam, nhưng chuyên gia này cho rằng dù thế nào Việt Nam cũng bị ảnh hưởng bởi cuộc chiến thương mại giữa hai siêu cường, nhưng có thể ở một mức độ không lớn lắm (so với mấy nước khác). Tuy nhiên, điều đó còn tùy thuộc vào khả năng ứng phó từ bên trong (nội lực), chứ không chỉ do nguy cơ từ bên ngoài.    
Thay lời kết
Việt Nam phải làm gì với cuộc chiến tranh thương mại, từ dọa đến làm thật và không có điểm dừng? Liệu Việt Nam có muốn trở thành “nơi trú ẩn” để trung chuyển hàng hóa cho Trung Quốc nhằm kiếm lợi như “cửu vạn”?  trở thành “đặc khu kinh tế” của Trung Quốc, và “chia lửa” với bạn, vì “cùng chung vận mệnh”? Phải đặt câu chuyện “khu hợp tác kinh tế qua biên giới” và “ba đặc khu kinh tế” trong bối cảnh chiến tranh thương mại Mỹ-Trung, cũng như bàn cờ chiến lược toàn cầu giữa các siêu cường, thì mới hiểu rõ bản chất thật của nó.  
Muốn hiểu rõ bản chất thật và diễn biến cuộc chiến tranh thương mại Mỹ-Trung hiện nay (còn nhiều ẩn số và biến số khó lường) cũng phải đặt nó vào bức tranh rộng lớn hơn của bàn cờ chiến lược toàn cầu, cũng như bối cảnh chính trị trong nước Mỹ hiện nay. Muốn biết nó tác động thế nào đến Việt Nam (và khu vực), thì cũng phải xét những gì đang diễn ra (như câu chuyện chống tham nhũng, đổi mới thể chế và nhất thể hóa, luật đặc khu và luật an ninh mạng) trong bối cảnh quốc tế phức tạp hiện nay, thì mới không bị mơ hồ và ngộ nhận.    
Trong bối cảnh đó, việc tranh cãi ồn ào giữa các cá nhân về mấy chi tiết “nhạy cảm” trong cuốn sách “Gac Ma: Vòng tròn Bất tử” (vừa xuất bản sau mấy năm bị cấm), càng bộc lộ sự phân hóa nội bộ (chỉ có lợi cho Trung Quốc). Trong khi dư luận đang phản đối Luật An ninh Mạng (đã thông qua) và Luật Ba Đặc khu Kinh tế (chưa thông qua), sự phân hóa nói trên càng làm lu mờ và trệch hướng quá trình hòa giải dân tộc và đồng thuận quốc gia. Hơn lúc nào hết, trước nguy cơ bắc Thuộc (như một thảm họa quốc gia), người Việt mình phải tạm dẹp lợi ích riêng vì lợi ích dân tộc, tạm dẹp mâu thuẫn nội bộ vì đồng thuận quốc gia (là một huyệt đạo dễ bị tổn thương). Nếu không đổi mới thể chế và đồng thuận quốc gia, thì mỗi khi “trâu bò húc nhau” Việt Nam sẽ càng bị mắc kẹt sâu hơn trong một đường hầm không lối thoát.   
Tham khảo

1. The Architect of Trump’s China Trade War, Bob Davis, WSJ, April 6, 2018

2. Mattis’ Visit to China: Agree to Disagree? Shannon Tiezzi, Diplomat, June 29, 2018

3. How the Biggest Trade War in Economic History Is Playing Out, NYT, July 6, 2018
4. China wants to replace the US as a world superpower, CNN, July 21, 2018
5. Blunting China’s Economic Coercion as Statecraft, Ely Ratner, statement before Senate Foreign Relations Committee hearing on The China Challenge, July 24, 2018).
6. Vietnam - Dawn of the SEZs, Nguyen Minh Quang, Diplomat, July 24, 2018
7. Chinas Aggression Is Starting to Backfire, Huong Thu Le, National Interest, July 24, 2018
8. Trump’s Trade Wars Are Bad. They Could Soon Get a Lot Worse, Keith Johnson, Foreign Policy, July 25, 2018
9. Việt Nam-Trung Quốc: Hai Quốc gia, Một trạm Kiểm soát Cửa khẩu, VOA, 06/02/2018
10. Nghịch lý FDI, Vũ Thành Tự Anh, TBKTSG, 15/07/2018
11. Việt Nam cần làm gì để bảo vệ sản xuất nội địa? BBC, 24/07/2018
12. Chiến tranh thương mại từng dẫn đến Thế chiến, BBC, 24/07/2018
NQD. 26/07/2018. Updated 28/7/2018.


Không có nhận xét nào:

  Việt Nam trước các nguy cơ tiềm ẩn khó lường Nguyễn Quang Dy Trong bối cảnh thế giới đang biến động khó lường, các nước đang chuyển đổi nh...