Thứ Năm, 4 tháng 11, 2010

Cần nữa những lời nói thật

Cần nữa những lời nói thật

Ý kiến của đại biểu Nguyễn Minh Thuyết phát biểu tại diễn đàn Quốc hội ngày 1/11 vừa qua có tiếng vang rất lớn trong dư luận trong và ngoài nước. Dư luận đánh giá những góp ý của ông Thuyết với chính phủ tại QH là xuất sắc, xây dựng và dũng cảm nhất tính đến thời điểm hiện nay.

Nhưng như tôi đã viết trong entry trước, còn 3 bài phát biểu trong buổi sáng đó cũng rất đáng ghi nhận là của 3 đại biểu Phạm Thị Loan, Lê Văn Cuông và Lê Thị Nga.

Cần thêm nữa những góp ý như thế, những lời nói thẳng nói thật như thế nhiều hơn nữa từ các vị đại biểu cho nhân dân.

Xin lần lượt điểm lại các ý kiến vừa nêu.

NV

---------------------

Bài phát biểu của bà Phạm Thị Loan (ĐBQH Hà Nội)

(đầu đề nhỏ do NV đặt thêm)

Đánh giá về phát triển:

Thực tế cho thấy việc nhập siêu năm 2009 là 12,92 tỷ, dự kiến năm 2010 thâm hụt mậu dịch khoảng 13 tỷ đôla, giá vàng tăng trong năm khoảng 20 đến 25%, tỷ giá hối đoái chênh lệch tỷ giá đang là nỗi bức xúc của doanh nghiệp. Lãi suất ngân hàng đứng vào hàng cao nhất trên thế giới, lạm phát cao, chỉ số giá tiêu dùng cao, ICO vẫn chưa được cải thiện, nhập siêu từ Trung Quốc rất cao, chiếm 90% nhập siêu của cả nước, nhưng Chính phủ vẫn chưa có biện pháp để cân đối, trong khi đó vẫn đang mở rộng cửa cho hàng hóa và những dự án EPC mà trong nước có đủ khả năng làm dành cho các doanh nghiệp của Trung Quốc thực hiện. Việc hạn chế quotar nhập khẩu vàng và để giá vàng tăng cao, để cho thị trường tự do thản nhiên thao túng nhập lậu vàng qua biên giới gây tác động xấu đến tỷ giá ngoại tệ. Sự khan hiếm ngoại tệ ảnh hưởng đến cả thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán. Nhưng trong kế hoạch năm 2011 và kể cả định hướng chiến lược những năm tiếp theo chúng tôi chưa thấy đưa ra được biện pháp thực sự hữu hiệu nào. Vậy Chính phủ sẽ làm gì cho xã hội và kinh tế Việt Nam cân bằng và phát triển bền vững?

Về vụ Vinashin :

Vừa qua theo Báo cáo của Chính phủ và thông báo của Ủy ban kiểm tra Trung ương Đảng ai cũng thấy được sự thật về Vinashin, đó là sản phẩm của việc thí điểm tập đoàn kinh tế Nhà nước. Vấn đề tôi muốn nêu ra ở đây là ai sẽ là người chịu trách nhiệm cuối cùng trong việc để Vinashin rơi vào tình trạng như vậy. Trách nhiệm của Thủ tướng, của Chính phủ và các Bộ, ngành, cá nhân liên quan như thế nào? Theo tôi không thể nói một cách đơn giản là do các cán bộ lãnh đạo của Tập đoàn Vinashin, một mình Vinashin không thể làm sai luật được. Chúng tôi tự hỏi ai đã cho phép Vinashin phát hành trái phiếu với lượng tiền lớn như vậy? Ai đã cho phép Vinashin vay vượt hạn mức quy định của một khách hàng theo quy định của luật là 15% vốn điều lệ của ngân hàng. Ai đã để Vinashin đầu tư tràn lan như vậy? Và đặc biệt là tại sao đã có 11 đoàn vào kiểm tra, giám sát nhưng vẫn không phát hiện ra sai phạm? Và tại sao Quốc hội đã có quyết định đưa Vinashin vào danh sách giám sát từ năm 2009 nhưng Chính phủ vẫn đề nghị để hoãn lại, cho Thanh tra Chính phủ làm việc trước và cho đến bây giờ kiểm toán Nhà nước của Quốc hội vẫn chưa vào kiểm toán được. Vậy tại sao Thanh tra Chính phủ vẫn không phát hiện ra điều gì. Vậy tất cả những việc đó là xuất phát từ mục đích gì? trách nhiệm thuộc về ai?

Chính phủ không báo cáo QH, bây giờ sai thì trách nhiệm về ai?:

Đặc biệt tại Khoản 3, Điều 168, Luật doanh nghiệp qui định: định kỳ hàng năm Chính phủ trình Quốc hội báo cáo tổng hợp về thực trạng kinh doanh vốn chủ sở hữu Nhà nước. Thực trạng bảo toàn và phát triển giá trị vốn đầu tư và tài sản sở hữu Nhà nước tại doanh nghiệp, nhưng nhiều năm nay Quốc hội chưa nhìn thấy có bản báo cáo nào trình Quốc hội từ phía Chính phủ theo như qui định nêu trên. Vậy việc không tuân thủ pháp luật để gây hậu quả nghiêm trọng như vụ Vinashin thì trách nhiệm cuối cùng sẽ thuộc về ai?

Phải truy trách nhiệm đến cùng:

Tôi đồng tình với các ý kiến trước tôi về việc phải qui trách nhiệm đến cùng và đặc biệt Quốc hội, Đảng cần phải làm rõ trách nhiệm của những người quản lý Nhà nước. Theo tôi nghĩ những người làm sai cũng cần phải có một lời xin lỗi với nhân dân và có lẽ là cũng nên nghĩ đến văn hóa từ chức để nhân dân còn có lòng tin với lãnh đạo Nhà nước và với Đảng.

Vấn đề thiếu điện và sự phụ thuộc TQ về năng lượng là rất đáng lo ngại:

Vấn đề chiến lược về năng lượng của Chính phủ như thế nào. Vừa qua khắp nơi nhân dân kêu thiếu điện, cắt điện tùy tiện không đúng Luật điện lực, EVN kêu thiếu vốn, thủy điện thiếu nguồn nước để phát điện, EVN kêu lỗ vốn trong năm hơn 6.000 tỷ Việt Nam đồng, giá mua điện cao hơn giá bán, các nhà đầu tư điện ngoài EVN kêu khó ký hợp đồng bán điện cho EVN, có hợp đồng bán rồi thì có được phép lên lưới hay không, lại phải xin - cho. Trong khi đó các nhà máy nhiệt điện lớn do Trung Quốc làm EPC chạy không ổn định, tốn nhiều than, công nghệ sử dụng than không phù hợp với loại than trong nước sản xuất được.

Về thủy điện thì các nhà thầu EPC từ Trung Quốc chiếm đến 90% các dự án EPC về điện và ta đang phải phụ thuộc họ về vấn đề hậu mãi, phụ tùng, phụ kiện trong vận hành. Mặt khác Trung Quốc đang kiểm soát nguồn nước thượng nguồn, lúc khô họ có thể giữ nước, lúc lũ lụt họ có thể xả nước gây nguy cơ cho ta. Gần đây họ đang chuẩn bị xây nhà máy điện hạt nhân gần biên giới của ta với mục tiêu sẽ bán điện cho ta và thực tế hiện nay ta đang phải mua điện của họ với giá cao hơn giá mua điện trong nước. Vậy rõ ràng đang có nguy cơ ta sẽ bị phụ thuộc vào nguồn điện của Trung Quốc và nếu vậy thì an ninh năng lượng có nguy cơ bị hệ lụy vì sự phụ thuộc này.

*Trích từ “Bản tổng hợp thảo luận tại hội trường (ghi theo băng ghi âm)” – Văn phòng Quốc hội

Không có nhận xét nào:

  Xin phép tâc giả và dịch giả đăng bài viết trên website "Nghiên cứu Quốc tế". Trung Quốc được lợi gì từ cuộc chiến ở Gaza? Nguồn...