Chuyện bác Bồng
Nói “bác Bồng ngoại vụ” thì ai ngành ngoại giao làm việc đầu thế kỷ 21 trở về trước nhất định biết cả. Bác Bồng không phải làm to, chỉ cấp vụ trưởng và đại sứ vài khóa ở nước ngoài. Nhưng bác Bồng có dấu ấn nổi bật ai cũng biết. Đó là bác giữ chức Giám đốc Sở Ngoại vụ thành phố mang tên Bác Hồ. Bác nhận chức này khi đã 55 tuổi, tràn đi một mạch 20 năm liền. Đúng bong 75 tuổi xuân bác mới được bộ cho nghỉ chức quản lý. Nói thế vì sau đó bác Bồng còn khoảng 4 năm làm việc như một cố vấn cao cấp cho bộ về công tác ngoại giao ở phíaNam .
Nói “bác Bồng ngoại vụ” thì ai ngành ngoại giao làm việc đầu thế kỷ 21 trở về trước nhất định biết cả. Bác Bồng không phải làm to, chỉ cấp vụ trưởng và đại sứ vài khóa ở nước ngoài. Nhưng bác Bồng có dấu ấn nổi bật ai cũng biết. Đó là bác giữ chức Giám đốc Sở Ngoại vụ thành phố mang tên Bác Hồ. Bác nhận chức này khi đã 55 tuổi, tràn đi một mạch 20 năm liền. Đúng bong 75 tuổi xuân bác mới được bộ cho nghỉ chức quản lý. Nói thế vì sau đó bác Bồng còn khoảng 4 năm làm việc như một cố vấn cao cấp cho bộ về công tác ngoại giao ở phía
Đối với anh em làm ngoại giao là cán bộ quản lý các cấp,
ngay dù không trực tiếp dẫn đoàn dẫn khách nước ngoài vào trong Nam
công cán thì chắc cũng có những lần gặp bác Bồng ra Hà Nội họp. Hoặc không thì
cũng đọc điện về công tác ngoại vụ do bác thảo và ký; hoặc như đôi ba lần nghe
những phát biểu đầy tâm huyết của bác Bồng mỗi khi dự họp tổng kết ngành, họp
hội nghị ngoại giao toàn quốc.
Đời công tác của mình vì thế cũng may mắn là khá nhiều lần
được gặp bác Bồng. Gặp bác lần nào cũng vậy, vừa vào đến sở là bác nhiệt tình
hỏi han, thế anh em nó xếp đặt ăn uống ngủ nghỉ thế nào trước khi hỏi đến công
tác công việc. Đơn giản bác Bồng nghĩ là chủ nhà thì điều quan tâm trước hết
hãy là “việc nhỏ” đầu tiên. Chưa khi nào ông cụ hỏi vào đây làm gì vì đã vào đây
công việc thì thế nào chả có điện bộ đánh vào vài hôm trước, bác Bồng đã rõ cả
thì săn đón hỏi làm gì nữa cho nhiêu khê. Khâu oai với người như bác Bồng là
không cần thiết. Bác là người chuộng sự thiết thực.
Hình ảnh bác Vũ Hắc Bồng càng khắc đậm với dáng người và cách ăn nói bộc trực rất thẳng tính nổi tiếng trong bộ một thời. Nói về dáng người, làn da bác Bồng đen cũng là một nét nổi bật. Ở khuôn mặt càng rõ, đúng là một con người đệm chữ “Hắc” có khác. Đen không đến mức Bao Công Bao Chửng nhưng quả là một sắc đen rõ ràng, đặc trưng.
Thôi chuyện cái da cái dáng là để nói nhiều cho nữ giới, chứ quan trọng gì với cánh đàn ông. Quan trọng là tấm lòng bác Bồng. Ai biết ai quen đều một lời ưng ý, thấy ở ông Bồng tấm lòng sáng, ở sự cư xử đôn hậu phúc đức chứ chẳng một chút "hắc" xì dầu ở đâu cả.
Nói tấm lòng không thì cũng như chưa nêu được điều gì đáng kể, dù có là tấm lòng sáng trong. Mà cái điều quý của bác Vũ Hắc Bồng chính là sự cống hiến cho công việc, cho sự nghiệp ngoại giao bác phụng sự mà giờ đây có thể nói được là “suốt cuộc đời rồi”. Năm nay bác Bồng tròn 85 tuổi, tuổi các cụ nông thôn gọi thì đã là 86. Nhưng mô phật, trời thương, bác Bồng ngoại vụ nghe anh em tin cho biết là bác vẫn khơẻ mạnh và minh mẫn như thường. Quý hóa làm sao.
Biết về bác Vũ Hắc Bồng là vậy nhưng tiếc là kẻ bắc người
nam, anh em chúng tôi chưa khi nào ngồi lại đủ lâu với nhau. Nói đủ lâu là để
nghe được trực tiếp từ bác những gì bác còn cất giữ trong lòng về cuộc đời, về
công việc mà một đời người bác phụng sự. Nên mới chỉ ghi lại một ít cảm tưởng
cảm giác khi nhớ về bác Bồng tạm tạm sơ sơ như thế này thôi.
Tôi nhớ có lần nói chuyện với nhà văn Thăng Sắc (anh Nguyễn
Chiến Thắng, người có 3 nhiệm kỳ đại sứ) với ý là các bậc cựu trào của bộ mình như
cụ Bồng sao chưa thấy ai chấp bút viết nên quyển này cuốn nọ anh Thắng nhỉ.
Xứng đáng quá đi chứ, thế còn ngần ngại gì nữa...
Đấy khổ thế, cái ngành mình cứ khiêm tốn khiêm nhường như vậy, ít ai thích
nói ra những việc mình làm. Cũng ít ai sẵn sàng kể lại cho người khác, nhất là người
ngoài bộ ngoài ngành về chuyện đời công tác ngoại giao. Tức kể về công việc để những người
có tay bút ngon lành viết lên những thành tích, cô đọng trong những cuốn sách cho thế hệ sau này đọc biết. Đồng
ý là vẫn có người kểra đấy, nhưng chỉ là kể để viết lên những công trình lịch sử ngành ngoại giao nói
chung, chứ kể cái gì riêng tư, là công tích cá nhân thì không ai muốn nói ra cả.
Bởi quan niệm cho rằng đó là kể công, là mang cái ý khoe khoang thành tích cá nhân… Nhưng
nếu cứ nghĩ cứ làm theo hướng này mãi, đến một lúc mọi “bí mật”, mọi công tích
sẽ theo những thế hệ đi trước về hết chốn vô cùng, thì lúc ấy quá muộn rồi, tiếc quá…
Trao đổi mấy điều như thế nhưng một cây bút như Thăng Sắc kể đã mạnh dạn viết nhiều, viết cả về ngành ngoại giao, cũng
chỉ trầm ngâm chưa nói gì ngay. Bởi chính anh cũng là một cái kho ẩn giấu khối
câu chuyện ngoại giao giá trị mà anh mới chỉ hé lộ ít nhiều trong mấy chuyến công
cán bên Campuchia, hoặc xa hơn là ở Algerie. Chứ còn bao địa bàn địa hạt ghi dấu ấn, sự góp phần của anh, chính anh cũng ít nói đến... Tuy nhiên tôi cũng biết trong anh nung nấu nhiều dự định. Chắc rồi
dần dần anh sẽ “bật mí” về những gương mặt tiêu biểu, sáng giá của ngành ngoại
giao cho công chúng. Anh đã bắt đầu làm điều ấy mấy năm nay sau khi nghỉ hưu. Nhiều
bài viết, phỏng vấn của anh xuất hiện tại chuyên mục “Câu chuyện ngoại giao”
trên cái blog riêng mà chính do tay nguyên đại sứ Nguyễn Chiến Thắng tự dựng nên.
Thôi thì kiên nhẫn chờ vậy, hy vọng trong những tác phẩm của anh Chiến Thắng có những dòng
về bác Bồng nữa…
May quá bữa nay thấy giới thiệu một serie bài viết của nhà
văn nữ Nguyễn Thị Ngọc Hải trên một tờ báo phía Nam kể về bác Vũ hắc Bồng của bộ ta.
Xin phép bác Bồng và tác giả đưa bài về đây để anh em trong ngành ngoại giao cùng chia sẻ.
(theo tờ báo đăng bài này, bài sẽ đăng nhiều kỳ, vào cuối mỗi tuần; dưới đây mới là phần đầu)
Vệ Nhi g-th
------
Chuyện đời đại sứ
Bài 1: Vào đời ngoại giao
Gần 50 năm cầm bút, nhà văn - nhà báo Nguyễn Thị Ngọc Hải có nhiều đầu sách thuộc nhiều thể loại, trong đó đặc biệt thành công là những tác phẩm khắc họa chân dung các nhân vật nổi tiếng: nhà tình báo Phạm Xuân Ẩn, nhà chỉ huy tình báo Trần Quốc Hương, Đại tướng Mai Chí Thọ...
Báo "Pháp Luật TP.HCM Chủ Nhật" trân trọng trích giới thiệu tác phẩm Chuyện đời đại sứ của bà viết về đại sứ Vũ Hắc Bồng, vị đại sứ mà cuộc đời ông gắn liền với nhiều sự kiện lịch sử của đất nước.
Thời kỳ sau chiến dịch Điện Biên Phủ 1954. Nghi thức ngoại giao đầu tiên đời anh bộ đội trẻ tuổi Vũ Hắc Bồng là cái bắt tay “thằng Tây” khi ở rừng ra, chờ đoàn xe của Pháp chở về trạm tiếp nhận. Anh ở Phái đoàn QĐND trong Ban Thi hành hiệp định đình chiến Nam Bộ, làm việc với đoàn Pháp trong thời hạn 300 ngày thực hiện tập kết.
Nhiều cái đầu tiên
Từ chiến khu Dương Minh Châu, lên đến đường cái tỉnh lộ 13 đã có sẵn xe GMC của Pháp đón đưa về Dầu Tiếng rồi đi Phụng Hiệp. Sau 10 năm kháng chiến gian khổ, đây là lần gặp rất nhiều cái đầu tiên: Lần đầu ra đường nhựa một cách công khai, đi trên đường cái quan, lên xe của Pháp đưa đón, lần đầu tiên thay bộ bà ba đen để mặc quân phục mới, áo quần đại cán, cổ Tôn Trung Sơn miền Bắc gửi qua đường máy bay Pháp chuyển… Chân đi giày vải, đầu có mũ cứng. Một bộ duy nhất, không có để thay đổi. Lần đầu ăn trưa với Tây có cốc chén ly tách, muỗng nĩa, không có đũa.
“Đừng xúc miếng to, nó rơi, trăm con mắt nó nhìn mình. Nhớ mẹo nhỏ cụ Hồ dặn cán bộ ngoại giao, ra nước ngoài lần đầu, ăn chậm chậm, xem người ta ăn thế nào mình làm thế. Nghệ thuật học hỏi ngay phía đối phương. Còn về nói năng, biết ít, hãy tiết kiệm nói…” - ông Bồng nhớ lại “bữa tiệc ngoại giao” đầu tiên, dù lúc đó chưa là người chính thức của ngoại giao mà là quân đội biệt phái sang.
Thời hạn 300 ngày
Phái đoàn đóng ở Phụng Hiệp, Cần Thơ. Nơi họp là khu nhà gỗ do phía Pháp dựng ngay đầu kênh 7 ở thị trấn. Có hai cụm, một cho phía Việt Nam, một cho phía Pháp. Các phòng không trang trí, đoàn nào tự đem đồ ăn thức uống của mình. Trước cuộc họp, có nghi thức là hai đoàn xếp hàng đi qua đội danh dự gồm mỗi bên 10 lính cảnh vệ. Trưởng đoàn QĐND Việt Nam là Phạm Hùng, phía Pháp là Đại tá Le Duque, Chỉ huy trưởng vùng đồng bằng đóng tại Cần thơ.
Các cuộc họp tập trung hai việc chính: Một là từng bước tập kết lực lượng vũ trang ra miền Bắc đúng thời hạn 300 ngày; hai là đoàn Việt Nam luôn phản đối, tố cáo Pháp và chính quyền Sài Gòn bắt bớ trả thù những người kháng chiến cũ.
Tỉnh đội Hải Dương 1948. Ông Vũ Hắc Bồng (mặc quần soọc, cầm mũ cối đứng giữa) và người bạn thân Nguyễn Chất (áo đen, bên cạnh).
Tình hình lúc đó rất phức tạp, trước khi Hiệp định Genève ký 13 ngày, Mỹ đã đưa Ngô Đình Diệm về làm thủ tướng, viện trợ trực tiếp cho Pháp ký các hiệp định giao cả quyền hành chính, chính trị, quân sự cho Mỹ và Thủ tướng Diệm. Từ đó Ngô Đình Diệm mới dám tuyên bố từ chối hiệp thương tổng tuyển cử, tổ chức trưng cầu dân ý, phế truất Bảo Đại để mình lên làm tổng thống, bắt đầu những trang diệt cộng và trả thù đẫm máu ở miền Nam.
Nhiệm vụ của Phái đoàn QĐND Việt Nam trong Ban Thi hành hiệp định đình chiến Nam Bộ lúc này phải tố cáo những hành vi đàn áp đó. Các cuộc họp ngày nào cũng diễn ra cảnh “đấu đá” căng thẳng gay gắt. Đồng bào các tỉnh phải giả vờ đi chợ bằng thuyền để gặp phái đoàn, cung cấp tình hình thực tế các địa phương, tố cáo chính quyền lập danh sách những người đi tập kết, dân phải giấu giếm khai chồng con chết, đi làm ăn xa, đi lính cộng hòa ở đâu không liên lạc với gia đình, không ai biết. Có nơi chính quyền gắn biển ở nhà các gia đình có người đi tập kết để tạo lý do bắt bớ, giết hại. Có loại ghét nhau trả thù, lợi dụng xã hội rối ren. “Dù ai có nói gì thì lịch sử còn nguyên đó không thể xóa đi những vi phạm nhân quyền khủng khiếp nhất khi Mỹ bắt đầu nuôi dưỡng Ngô Đình Diệm và cách hành xử ở miền Nam” - ông Bồng nhớ lại giai đoạn quá xa nhưng không thể quên trong cuộc đời hơn 80 năm của mình.
Sẻ chia gian khó
Phái đoàn đã đưa nhiều trường hợp như thế để đấu tranh trên bàn ngoại giao. Ông Phạm Hùng là người phát ngôn, ông Nguyễn Kim Cương làm phiên dịch. Phía Pháp đuối lý nhưng họ lảng tránh trách nhiệm vì đã biết rõ số phận của mình. Tâm trạng của kẻ thất thế, ở chiến trường thì vừa thua to, trên chính trường thì Mỹ đang ép và ráo riết thế chân. Các cuộc họp kéo dài mãi cho đến năm 1955, thời kỳ 300 ngày kết thúc. Đơn vị của ông Bồng chuẩn bị ra Bắc, chia tay bà con Phụng Hiệp, Cần thơ.
Họ đón cái tết cuối cùng ở Nam Bộ. Cơ quan tổ chức cuộc trưng bày hình ảnh và tư liệu về miền Bắc xây dựng trong hòa bình, miền Nam trong chiến đấu. Đơn vị cho dân dỡ nhà của phái đoàn để ai lấy được gì thì đem về dùng. Người dân lưu luyến, âu lo nhưng vẫn hy vọng hai năm sẽ gặp lại.
Tình cảm của người dân Nam Bộ khiến ông Bồng không bao giờ quên, là giai đoạn để lại trong ông nhiều cảm xúc nhất trong những ngày đầu làm ngoại giao, sống cùng với dân một nhà, gian khổ và yêu thương. “Họ cũng rất nghèo nhưng chia sẻ, nằm đất, nhường giường cho bộ đội của phái đoàn. Vợ chồng tôi may còn có chiếc giường 1 m đã mục nát, nhà bên cạnh nơi vợ chồng anh Hoàng Văn Lợi ở thì còn khổ hơn, không có giường. Vợ ông Lợi lại cao hơn chồng, hai người nằm co trong cái nong để phơi lúa, khoai”.
Công việc hối hả, chạy đua với thời hạn 300 ngày. Tiếp dân, ai cũng bồn chồn trước cảnh sắp xa đồng bào ở lại trong gian khổ đau thương.
Tập kết ra Bắc
Phái đoàn rời Phụng Hiệp, không đi tàu thủy như số đông người đi tập kết. Vợ ông Bồng, bà Phạm Thị Cúc, có thai, không chờ được phải đi trước cũng bằng tàu thủy. Ông Bồng đi với đoàn bằng máy bay. Ông còn nhớ trên chuyến bay nhà binh Pháp, đi từ Sóc Trăng. Đó là chiếc máy bay ném bom hai thân B36, không ghế. Chỉ có băng dài cho lính nhảy dù. Không ăn uống nước nôi gì. Tự lo lấy. Lương thực chuẩn bị là loại bánh kẹp. Nước đun sôi để nguội đổ vào can như can dầu. Cán bộ ta hầu hết chưa đi máy bay bao giờ.
“Ông bà Phạm Hùng ôm đứa con trai đầu lòng, bé Hà lúc đó mới đầy năm. Nay cậu ấy là giám đốc Sở Thương mại, có thời kỳ là phó chủ tịch tỉnh Bình Dương” - ông nhớ lại.
Tiễn đoàn là các sĩ quan trong phái đoàn. Viên trung tá Pháp đọc danh sách, bắt tay ông Phạm Hùng. Đơn giản. Rồi đi. Tạm biệt Nam Bộ anh dũng và gian truân, chưa biết bao giờ trở lại.
NGUYỄN THỊ NGỌC HẢI
NGUYỄN THỊ NGỌC HẢI
-------
Chuyện đời đại sứ
Bài 2: Kẹt trong đảo chính ở Chile
Hết nhiệm vụ ba năm làm đại sứ ở Ghine, Mali, Mouratania, Đại sứ Vũ Hắc Bồng về nước đúng vào năm 1972 khốc liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Nhưng ông không được ở nhà lâu mà tiếp tục nhận lệnh đi làm đại sứ tại Cộng hòa Chile.
Trước khi đi, Thủ tướng Phạm Văn Đồng căn dặn: “Chile rất cách mạng, rất hữu nghị nhưng rất khó khăn vì đế quốc sẽ không để yên. Anh đi chuyến này là đi chiến đấu đấy. Nói với anh em, đây là chiến trường”.
Sứ quán bị bao vây
Năm ngày sau khi đến, Đại sứ Bồng trình quốc thư tại lâu đài Moneda - nơi trước đây để đúc tiền bạc, sau dùng làm dinh tổng thống. Tổng thống đã đứng chờ sẵn, sau khi bắt tay và nghe Đại sứ Bồng xin trình quốc thư, ông mời ngồi và vào ngay câu chuyện. Tổng thống hỏi ngay việc Mỹ phong tỏa cảng Hải Phòng. Sau khi nghe Đại sứ Bồng nói cách thả thủy lôi của Mỹ, ông chau mày nói không thể tưởng tượng được Mỹ đã dùng những biện pháp dã man nhất áp dụng với nhân dân Việt Nam. Ông say sưa nói về đất nước mình còn nhiều khó khăn nhưng tin tưởng nhân dân sẽ làm nên nhiều kỳ tích.
Tình hình ở Chile rất khó khăn. Chile giàu tài nguyên, mỏ đồng lớn nhất thế giới, trình độ khoa học khá cao. Giai cấp tư sản mại bản rất mạnh, có quan hệ với Mỹ, với CIA và là lực lượng đang lũng đoạn kinh tế Chile. Quần chúng công nông rất hăng hái cách mạng nhưng giai cấp trung lưu thì ngả nghiêng. Quân đội ngả theo đám cực hữu, tuyên bố không dính đến chính trị. Lực lượng tư sản tổ chức biểu tình liên miên đòi thay đổi hiến pháp. Họ câu kết với phái quân đội luôn chuẩn bị để lật đổ chế độ, giành lại chính quyền.
Cuộc đảo chính diễn ra sáng 11-9.
“6 giờ sáng tôi vừa dậy, đang tập thể dục, nghe trên đài phát thanh của lực lượng quân đội và giai cấp tư sản kêu gọi dân chúng ai ở đâu hãy ở yên đó, không ra đường. Họ kêu gọi ủng hộ quân đội. Máy bay đảo ầm ầm trên trời ngay từ sớm. Chúng tôi không liên hệ được với ai vì điện thoại đã bị cắt, mãi sau mới nối lại được. Chúng tôi biết quân đội bao vây lâu đài, tổng hành dinh của Allende. Rồi tiếng súng nổ, máy bay ném bom xuống lâu đài. Quân đội ra lệnh thiết quân luật tuyên bố chính phủ bị lật đổ, ra điều kiện cho Allende nếu chịu rời khỏi Chile thì quân đội sẽ cấp chiếc máy bay riêng chở ông và gia đình. Allende từ phủ tổng thống dùng đài phát thanh của cánh tả kêu gọi nhân dân chiến đấu. lúc 10 giờ 30 ông còn phát đi tiếng nói cuối cùng, tiếng nói lịch sử của con người được thế giới gọi là nhà lãnh đạo huyền thoại.
Đại sứ Vũ Hắc Bồng và Tổng thống Chile Salvador Allende năm 1973.
"Binh vận" lính Chile
Trong sứ quán nghe rõ tiếng súng nổ liên hồi và hai chiếc phi cơ F86 của Mỹ ném sáu quả bom cháy xuống phủ tổng thống. Bọn phát xít cũng đánh vào Sứ quán Cuba cách đó khoảng nửa cây số đường chim bay. Ông Bồng gọi cho Sứ quán Cuba được biết ở đó đang quyết tâm đánh trả.
Đến chiều chúng bao vây Sứ quán Việt Nam. Ông nói anh em chuẩn bị đóng hết các cửa và xác định: Ở trong nước đang kháng chiến, ở đây cũng tiếp tục kháng chiến. Chỉ có dũng khí và bình tĩnh quyết định, không có một sự ứng cứu nào. Một vấn đề đặt ra là sứ quán đóng cửa thụ động chờ giặc tới tấn công hay là mở cửa tiếp xúc với đám binh sĩ bao vây sứ quán? Ông Bồng quyết định “binh vận” đặc sắc kiểu Việt Nam. Cán bộ sứ quán đứng bên trong hàng rào nói chuyện với lính. Mời họ uống nước, cà phê hòa tan và rượu Lúa Mới (lúc này vẫn còn dự trữ tới 80 chai). Ban đầu lính không chịu uống, sau lạnh quá họ nhận cả thuốc lá. Đêm khuya xuống dần, trời rất lạnh, đám lính chẳng có tiếp tế phải nhịn đói. Cán bộ sứ quán một mặt ở bên trong đốt tài liệu liên tục trong bếp lò, một mặt ở bên ngoài vẫn tiếp lính bằng nem rán và bánh sandwich. Mọi việc phải tự lực giải quyết vì không liên lạc được với trong nước. Ông Bồng nghĩ phải tìm mọi cách ra được bên ngoài nắm tình hình, không chịu co cụm để bị giam lỏng. Ông muốn xem có thể giúp đỡ gì cho những người cách mạng Chile chắc chắn đang vô cùng khó khăn hoặc tìm cách lẩn trốn (trên đài phát thanh đang tường thuật ca ngợi cuộc bắt bớ sôi nổi những người cách mạng ở sân vận động). Ở sứ quán lúc đó có hai vợ chồng nhà báo Nguyễn Khắc Thìn của thông tấn xã được cử đi đến sân vận động. Họ cầm theo tất cả số tiền Chile để hễ gặp các chiến sĩ cách mạng thì đưa cho. Ông Bồng vẫn nhớ như in hình ảnh hai vợ chồng nhà báo ra đi trong nguy nan. “Tôi cho rằng con người trong thử thách khốc liệt chỉ một vài phút giây thôi cũng có thể bộc lộ được bản chất. Họ rất can đảm”. Ông Bồng buồn rầu cho biết sau khi về nước được vài năm, chị Hồ bị chết vì tai nạn giao thông ở Hà Nội. Còn chồng chị - nhà báo Nguyễn Khắc Thìn cũng bị mất sau đó vì căn bệnh ung thư.
Cứu người giữa mưa đạn
Trong những ngày diễn ra thiết quân luật do đảo chính ở Chile ấy, sứ quán gặp một chuyện phải tìm cách giải quyết rất nước sôi lửa bỏng. Một bà mẹ nhà ở cùng phố với sứ quán đập cửa la hét cầu cứu vào lúc giữa đêm khuya, đang thiết quân luật. Bà xin sứ quán cứu người con trai 25 tuổi lên cơn đau tim nặng. Bảo bà trình bày với cảnh sát, họ mặc kệ. Ông Bồng nói với cảnh sát: “Sứ quán sẽ cứu đưa đi bệnh viện nếu cảnh sát để cho đi”.
Họ đồng ý. Nhưng đi cách nào? Để đảm bảo dọc đường không phiền toái, sứ quán đề nghị cho một cánh sát lên ngồi theo xe nhưng họ không chịu. Thế là sứ quán quyết định cứ đưa mẹ con bà lên xe, cắm cờ chạy đến bệnh viện. Đồng chí Hào lái xe, anh Vũ Chí Công là bí thư thứ ba, nói tiếng Tây Ban Nha giỏi nhất lên cùng đi, thái độ thật là dũng cảm (hiện nay đồng chí Vũ Chí Công đang là đại sứ Việt Nam tại Cuba). Ở sứ quán, ông Bồng lo lắng đứng chờ ở cửa, không dám lên phòng. Không giúp thì thằng bé sẽ chết, mà giúp thì nguy hiểm khôn lường đến tính mạng của cán bộ mà ông phải chịu trách nhiệm. Sau sự kiện này tiếng đồn về lòng nhân ái của Việt Nam truyền đi rộng khắp. Đám cảnh sát cũng trầm trồ. Bà mẹ qua cơn hoạn nạn đến sứ quán nói lời cảm ơn: “Gia đình chúng tôi chịu ơn Việt Nam ngập đầu, không biết làm sao trả được ơn này”.
Thoát khỏi vòng vây độc tài Pinochet
Sau đảo chính bốn ngày, Sứ quán Việt Nam nhận lệnh ở trong nước là phải đóng cửa và rút về nước vì từ nay Chile rơi vào một chế độ độc tài phản động. Từ đó Chile sống dưới quyền của tướng Augusto Pinochet Ugarte có sự tiếp sức của Mỹ. Pinochet vốn là bộ trưởng Quốc phòng có bàn tay sắt. Theo thống kê, chỉ từ năm 1973 đến 1990 tên độc tài này giết chết và làm mất tích hơn 3.000 người. Quốc gia thịnh vượng nhất Nam Mỹ này đã phải qua một giai đoạn nặng nề. Trong sáu tháng đầu sau đảo chính, 1.000 người đã bị xử tử. Hơn 30.000 người bỏ nước ra đi và hàng chục ngàn người bị tống giam, tra tấn - theo bản điều tra của Ủy ban Valech (Comision nacional sobre prison y tortural/Comision Valech).
Cả hai sứ quán Việt Nam (miền Bắc, miền Nam) cùng rút bằng máy bay Liên Xô, cảnh binh vẫn cứ bao vây sứ quán đến tận ngày rút. Nhân dân Chile xung quanh đó lặng lẽ tiễn đoàn. Họ đứng đông ở trước sứ quán, có người kín đáo vẫy tay chào. Vừa lưu luyến Việt Nam, họ vừa ngậm ngùi lo lắng cho một tương lai chưa biết sẽ ra sao. Một trung đội lính dù có vũ khí áp tải nên không ai nói được lời nào.
Cuộc chia tay với Chile không hề ngắn ngủi. Hơn 30 năm sau, Sứ quán Việt Nam mới có mặt lại tại Chile.
Một điều đại sứ Bồng không ngờ là cũng vào 30 năm sau kể từ khi ông rời khỏi Chile, chính phủ dân chủ hiện nay đã quyết định tặng thưởng cho ông "huân chương chữ thập quốc gia" vào tháng 11-2005. Như vậy ở Chile thời kỳ của Allende vẫn được coi là trang sử phát triển tốt đẹp. Vị tổng thống cách mạng, người con anh hùng của Chile không bị lãng quên.
|
Ký sự nhân vật của NGUYỄN THỊ NGỌC HẢI
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét