Thứ Năm, 15 tháng 3, 2012

Biển Đông: Chủ quyền và những chứng cứ lịch sử



Biển Đông: Chủ quyền và những chứng cứ lịch sử

(Ý KIẾN CỦA MỘT NHÀ VĂN CHUYÊN VIẾT VỀ LỊCH SỬ)

Vài ngày trước hai nhà văn Nhật Tuấn và Hoàng Quốc Hải có buổi chuyện trò trao đổi với nhau về một chủ đề khá thời sự, nổi bật lên là vấn đề Biển Đông, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc - nhân sự kiện đúng 24 năm Trung Quốc đánh chiếm đảo Gạc Ma nằm trong quần đảo Trường Sa của Việt Nam (14/3/1988 - 14/3/2012).

Nhắc lại sự kiện rất đau lòng với người Việt Nam, là ngày mà 64 chiến sĩ thủy binh của chúng ta trong khi thực thi nhiệm vụ canh giữu bảo vệ đảo đã bị hỏa lực mạnh gấp bội của kẻ cướp Trung Quốc tấn công và tàn sát hết sức dã man - một sự kiện mà nhà văn Nhật Tuấn gọi là Gạc Ma - món nợ  của "kẻ thù... tri kỷ".




Trong cuộc chuyện trò trao đổi kể trên, nhà văn Hoàng Quốc Hải cái nhìn sâu sắc của một cây bút chuyên viết về các vấn đề lịch sử, là người có kiến văn rộng rãi về cả lịch sử văn hóa Việt Nam và Trung Quốc thời cổ cũng như cận - hiện đại, ông đã đưa ra nhiều tư liệu tài liệu và những nhận định rất chính xác và xác đáng về một vấn đề nóng bỏng và có ý nghĩa thiết thực hiện nay, đó là câu chuyện Biển Đông và thực chất vấn đề chủ quyền tại vùng biển và các quần đảo này. 

Qua cách nêu vấn đề và trình bày của hai nhà văn, người đọc thấy một thực tế không thể chối cãi được, đó chính là Việt Nam chúng ta có đầy đủ cơ sở để khẳng định chủ quyền bởi trong thực tế từ thế kỷ 18 cho đến ngày nay, chúng ta đã thực sự quản lý quyền chủ quyền đó liên tục, không ai chối cãi được với cá chứng thực lịch sử rõ ràng, được ghi trong sử sách và chính quyền của các quốc gia chứng kiến... Còn Trung Quốc thì trái lại! Họ dựa vào thế nước lớn, cũng là lớn tiếng nhất khi đưa ra những đòi hỏi chủ quyền hết sức vô lý như "đường lưỡi bò 9 đoạn", điều mà khó được một quốc gia nào chấp nhận, vì vậy họ rất ngại vấn đề Biển Đông được quốc tế hóa. Bởi vì Trung Quốc hầu như rất đuối về cả về lý lẽ cũng như không thể viện ra một cơ sở thực tế lịch sử nào khả dĩ thuyết phục để lập luận trước các nước cũng như trước các thể chế công pháp quốc tế hiện đại.
Dưới đây chủ blog tôi xin phép các tác giả giới thiệu những ý kiến trao đổi giữa nhà văn Nhật Tuấn và nhà văn Hoàng Quốc Hải (phần cuối cùng của câu chuyện trao đổi). 

Vệ Nhi g-th

-------

TRÍCH TỪ ENTRY NGÀY 13/3 TRÊN BLOG CỦA NHÀ VĂN NHẬT TUẤN
........
........
Nhật Tuấn: Xin anh cho biết vì sao vấn đề đàm phán về Biển Đông, phía Trung Quốc cứ nhăm nhăm đòi giải quyết song phương mà rất sợ đa phương? Phải chăng Trung Quốc đang chơi xảo thuật bẻ từng chiếc đũa?

Hoàng Quốc Hải: Thưa anh Nhật Tuấn, nếu là chuyện minh bạch thì đàm phán song phương hay đa phương có hề hấn gì. Khốn nỗi về mặt pháp lý quốc tế người Trung Hoa không có một khía cạnh hợp pháp nào trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Về Hoàng Sa thì họ ngoạm một phần vào cuối năm 1949; sau Thế chiến II, Trung Hoa dân quốc chiếm một phần từ quân Nhật thua trận (nay thuộc Đài Loan). Phần còn lại họ dùng vũ lực cưỡng chiếm từ quân đội Việt Nam cộng hòa vào năm 1974. Về Trường Sa, họ dùng vũ lực chiếm đóng đảo Gạc Ma của ta vào năm 1988 và sát hại 64 bộ đội công binh, tay không vũ khí. Cả hai trường hợp cưỡng chiếm này đều là hành vi xâm lược. Bởi các quần đảo này ta đã xác lập chủ quyền, và quản lý liên tục từ thế kỷ 18 tới nay, không hề có một quốc gia nào tuyên bố chủ quyền hoặc tranh chấp với ta cho đến trước năm 1949, nghĩa là trước khi có nhà nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.

Vậy nếu ta nhận đàm phán song phương với họ, coi như ta thừa nhận họ có chủ quyền. Và như thế có nghĩa là họ từ tư thế bất hợp pháp chuyển sang tư thế hợp pháp. Còn nếu như đàm phán đa phương, có đại diện của Unclos làm trọng tài, đương nhiên họ không đủ tư cách pháp nhân để tham gia đàm phán, còn nói gì đến chuyện chủ quyền.





Nhật Tuấn: Anh viết tiểu thuyết lịch sử, hẳn có tìm hiểu kỹ về chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của ta, còn tôi thì tựa như thi sĩ vừa quá cố Đỗ Nam Cao đã viết:


“Trường Sa ư với ngày thường xa thật
Đảo ở đâu tôi có hỏi đâu mà
Điều khốn nạn là chỉ khi máu đổ
Đảo mới gần mới thật của ta”


Cho nên dù đã tìm đọc các tài liệu, tôi vẫn chưa thật thỏa mãn, tôi muốn anh giải thích:


Vì sao cả ta và Trung Quốc đều khẳng định hai quần đảo đó thuộc chủ quyền của mình không thể tranh cãi. Phía ta thì các tài liệu để chứng minh chủ quyền khá phong phú, nhưng phía Trung Quốc chỉ thấy họ trưng ra cái bản đồ 9 đoạn hình lưỡi bò, liếm gần hết biển Đông, xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế và quyền chủ quyền của nhiều nước.


Điểm thứ hai họ trưng ra bằng lời nói chứ không có bản đồ và văn bản cổ là họ đã chiếm hữu vùng biển Đông này từ thời nhà Hán, nghĩa là đã cách đây hơn 2200 năm chứ không phải chỉ có khoảng 3 thế kỷ liên tục chiếm hữu và tuyên bố chủ quyền như phía Việt Nam mình. Nếu có thể được, anh diễn giải giùm chuyện này để mọi người cùng tham khảo.



Những tấm bản đồ cổ (ảnh trên và ảnh bên) trích trong các cuốn sách lịch sử Việt Nam - đều ghi lại đầy đủ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam

Hoàng Quốc Hải: Tôi xin chia sẻ với anh cũng như tuyệt đại đa số người Việt Nam, hễ biết liêm sỉ đều có nỗi xót xa ân hận bởi trách phận công dân ấy. Điều quan trọng nhất lúc này là mọi người phải chung tay giữ lấy mảnh giang sơn từng thấm máu ngàn đời gồm vùng đất vùng trời và biển đảo của chúng ta.

Phần bàn về đàm phán song phương, tôi đã nói về chủ quyền hợp pháp của chúng ta về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nay tôi nói rõ về cơ sở pháp lý của cái quyền chủ quyền ấy.

Về xác lập chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa thì sách “Phủ biên tạp lục” của nhà bác học Lê Quý Đôn soạn vào năm Bính thân (1776 ) đời Lê Hiển tông tương đương thời chúa Nguyễn Phúc Thuần ở Đàng trong. Về Đảo cát vàng tức Hoàng Sa, sách ấy viết “Phủ Quảng Ngãi huyện Bình Sơn có xã An Vĩnh ở gần biển phía Đông bắc có nhiều cù lao, các núi linh tinh hơn 130 ngọn, cách nhau bằng biển, từ hòn nọ sang hòn kia đi một ngày hoặc vài canh thì đến. trên núi có chỗ có suối nước ngọt. Trong đảo có bãi cát vàng ước hơn 30 dặm, bằng phẳng rộng lớn, nước trong suốt đáy… các thuyền ngoại phiên (nước ngoài) tránh bão thường đậu ở đảo này. Trước họ Nguyễn (ý nói các chúa Nguyễn ở Đàng trong) đặt đội Hoàng Sa 70 suất, lấy người xã An Vĩnh sung vào, cắt phiên mỗi năm cứ tháng Hai nhận giấy sai đi, mang lương đủ ăn 6 tháng, đi bằng 5 chiếc thuyền câu nhỏ, ra biển 3 ngày 3 đêm thì đến đảo ấy. Ở đấy tha hồ bắt chim bắt cá và lấy hóa vật của các tầu đắm… Đến kỳ tháng 8 thì về, vào Cửa Eo, đến thành Phú Xuân để nộp”.

Ở một đoạn khác Lê Quý Đôn lại viết: Tôi đã từng thấy một đạo công văn của quan Chánh đường huyện Văn Xương, Quỳnh Châu (đảo Hải Nam) gởi cho Thuận Hóa nói rằng: “Năm Kiền Long thứ 18 (1758) (tương đương với thời chúa Nguyễn Phúc Chu ở Đàng trong) có 10 tên quân nhân xã An Vĩnh đội Cát Liềm huyện Chương Nghĩa phủ Quảng Ngãi nước An Nam, ngày 7 đến Vạn lý Trường Sa tìm kiếm các thứ, có 8 tên lên bờ tìm kiếm, chỉ để hai tên giữ thuyền, bị gió giật đứt dây thuyền, dạt vào Thanh Lan cảng, quan ở đây xét thực, đưa về nguyên quán. Nguyễn Phúc Chu sai cai bạ Thuận Hóa là Thúc Lương hầu làm thư trả lời”.

Sách Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn, phần núi sông của tỉnh Quảng Ngãi cũng viết: “Đảo Hoàng Sa ở phía đông nam cù lao Ré huyện Bình Sơn. Từ bờ biển Sa Kỳ đi thuyền ra, thuận gió thì độ ba bốn ngày đêm có thể đến nơi. Có tới hơn 130 đảo nhỏ cách nhau hoặc một ngày đường hoặc mấy trống canh. Trong đảo có bãi cát vàng…” (phần còn lại sách này viết giống như Lê Quý Đôn đã viết trong “Phủ biên tạp lục”).

Sách Đại Nam viết tiếp: “Đầu đời Gia Long (1802) phỏng theo lệ cũ đặt đội Hoàng Sa…
Đầu đời Minh Mệnh thường sai người đi thuyền công đến đây thăm dò đường biển, thấy một nơi có cồn cát trắng chu vi 1070 trượng ( bằng 3,5 km ) cây cối xanh tốt, giữa cồn cát có giếng, phía tây nam có ngôi miếu cổ, không rõ dựng từ thời nào, có bia khắc 4 chữ ‘vạn lý ba bình’ (muôn dặm sóng yên ). Về phía tây bắc đảo này nổi lên một cồn chu vi 340 trượng, cao 1 trượng 2 thước ngang với cồn cát, gọi là đảo Bàn Than.

Năm Minh Mệnh 16 (1836) sai thuyền công chở gạch đá đến đây xây đền, dựng bia đá ở phía tả đền để ghi dấu mốc và tra hột các thứ cây ở ba mặt tả hữu và sau…”.

Các sách “Đại nam thực lục chính biên”, “Đại Việt hội điển sự lệ”, “Khâm định việt sử thông giám cương mục”v.v… Rất nhiều di tích đền đài thờ tự “Hải đội trường sa” còn tồn tại với thần phả, tộc phả, gia phả, đặc biệt là vô số các châu bản do đích thân nhà vua hoặc các quan địa phương sai phái người ra vạn lý Trường Sa hoặc Hoàng Sa làm công vụ từ thời các chúa Nguyễn đến tận thời vua Bảo Đại còn lưu giữ trong các kho tư liệu quốc gia, thậm chí trong các nhà dân cũng còn khá nhiều chứng tích về “Hải đội Hoàng Sa”. Đó là các độc bản, chứ các phó bản thì nhiều vô kể (trong đó có nhiều loại bản đồ và các số liệu đo đạc) về Hoàng Sa, Trường Sa còn lưu giữ trong thư viện Viện Hán – Nôm, trong các thư viện của Paris (Pháp) mà trước đây “Viễn Đông Bác cổ học viện” sưu tầm và hoàn thiện rồi lưu trữ khá công phu.

Chính quyền nhà Nguyễn quản lý và khai thác hai quần đảo này cho tới khi thực dân Pháp xâm lược nước ta thì nhà nước thuộc địa Pháp tiếp thu và quản lý rất chặt chẽ. Bằng cách đo đạc, vẽ bản đồ, lập trạm đo khí tượng v.v…Năm 1899 Paul Doumer toàn quyền Đông Dương cho xây dựng một ngọn hải đăng trên quần đảo Hoàng Sa.

Khi nước Pháp thua trận năm 1954, Việt Nam tạm thời chia làm hai miền, từ vĩ tuyến 17 trở vào nam thuộc chính quyền Việt Nam cộng hòa quản lý, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trung Quốc xâm lược chiếm trọn quần đảo Hoàng Sa như phần trước tôi đã trình bày.

Về cái lý không tranh cãi của Trung Quốc họ trưng ra cho thế giới biết cái bằng chứng hư vô là họ đã quản lý vùng biển đảo này từ thời Hán, Đường đến Minh, Thanh. Từ cổ xưa tuyệt nhiên không có sách nào của Trung Quốc nói đến vùng biển đảo phía đông này và cũng không có một tấm bản đồ cổ nào của Trung Quốc vẽ về vùng biển đảo phía đông này trong đó có dấu ấn Hoàng Sa, Trường Sa, kể cả Trịnh Hòa thời nhà Minh đi vòng quanh thế giới có vẽ khá nhiều bản đồ, cũng không hề có sự hiện diện của hai quần đảo này.

Chứng tích vu vơ thứ hai là tấm bản đồ do chính quyền Trung Hoa dân quốc của Tưởng Giới Thạch tự vẽ năm 1947 có chứa đường 9 đoạn mà ngày nay Trung Quốc coi như một bằng chứng lịch sử sáng giá.

Một văn bản khác là tuyên bố năm 1958 của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về định nghĩa lãnh hải của Trung Quốc và họ phát triển hóa yêu sách này vào luật của nhà nước Trung Hoa cỡ năm 1992.

Thật ra đường lưỡi bò 9 đoạn do Trung Hoa dân quốc tự vẽ và tuyên bố về đường lãnh hải của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về mặt pháp lý quốc tế đều không có giá trị.
Còn cái chứng cớ cù nhầy mà Trung Quốc ngộ nhận từ đời Hán, Đường, Minh, Thanh rằng toàn bộ vùng biển này đã thuộc về Trung Quốc , ta hãy nghe một trong 29 luật sư nổi tiếng nhất trong suốt 20 năm qua của đoàn luật sư bang California ông Tel Laguatan viết một bài báo ngày 27 tháng 7 năm 2011 với tựa đề: “Tại sao Trung Quốc không đưa vấn đề Trường Sa ra Liên hiệp quốc”.

Tôi xin trích một đoạn của ông luật sư người Mỹ này: “Nhà Hán của Trung Quốc mới có từ 206 trước Công nguyên đến 220 Công nguyên. Còn Alexandre đại đế chết năm 323 trước Công nguyên. Vương quốc của ông bao gồm Hy Lạp, Syrie, Ba Tư, Ai Cập và một phần Ấn Độ.

Đế quốc La Mã tồn tại hơn 1000 năm thâu tóm cả Châu Âu, một phần Châu Á, Châu Phi.
Vậy ngày nay hai nước Mace’donia và Italia có thể đòi lại các phần đất cũ mà đế quốc Mace’doine và La Mã chiếm đóng từ mấy ngàn năm trước không.

Nếu lý luận như Trung Quốc ngày nay thì người Mông Cổ có thể đòi lại cả nước Nga và nước Trung Hoa cùng nhiều quốc gia khác mà Thành Cát Tư Hãn đã thống trị từ thế kỷ 13-14 không?

Thói ngạo mạn của Trung Quốc lấy cơ bắp làm ngôn ngữ ngoại giao và áp đặt chính sách đối ngoại của mình buộc đối phương phải tuân thủ tựa như đường lối của bọn phát xít Hít-le hồi đại chiến thế giới thứ hai. Thế nhưng Trung Quốc luôn rêu rao là ‘trỗi dậy trong hòa bình’ và muốn làm bạn với các nước. Lâu nay Trung Quốc đã thể hiện rất kiên trì đường lối đối ngoại là cái gì họ làm với thế giới luôn luôn ngược lại với cái mà họ hùng hồn tuyên bố.

Hãy cảnh giác với Trung Quốc!”

Thật ra Trung Quốc còn lưu giữ rất nhiều tư liệu có sức “thuyết phục” toàn thế giới, nếu họ trưng ra thì ngay cả nước lên án họ về tranh chấp biển Đông cũng phải mỉm cười ưng thuận.

- Thứ nhất vào năm 1895 tàu Bellona của Đức bị vấp đá ngầm và chìm tại quần đảo Hoàng Sa, đánh tín hiệu cấp cứu mà Hải Nam không có động dạng gì. Và năm 1896 tàu Himeji của Nhật Bản cũng bị đắm ở Hoàng Sa. Cả hai tầu đều không được phía Trung Quốc cứu hộ mà ngư dân của họ từ Hải Nam còn ra cướp đồng và hàng hóa. Chính phủ Anh đã gửi công hàm phản kháng. Phía Trung Quốc tuyên bố chính thức là quần đảo này không thuộc về phía Trung Quốc. Công hàm này hiện vẫn còn lưu trữ tại thư viện Hoàng gia Anh quốc. Ngay cả phía Trung Quốc chắc cũng còn lưu giữ.

- Thứ hai là sau khi thua trận trong chiến tranh Trung – Nhật, nhà Thanh đã ký hiệp ước Shimonseiki ngày 17 tháng 4 năm 1895, phía Trung Quốc gọi là hiệp ước Mã Quan, theo đó nhà Thanh nhượng cho Nhật Bản vĩnh viễn chủ quyền đầy đủ các quần đảo Bành Hồ, Đài Loan và phía đông vùng biển của bán đảo Liêu Đông cùng với tất cả tài sản có trên đó như: công sự, kho vũ khí… Và khu vực này không bao gồm hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Điều đó có nghĩa là hai quần đảo này đã không được xem là thuộc chủ quyền của Trung Hoa.

- Thứ ba trong “Trung Quốc địa lý học giáo khoa thư” biên soạn năm 1905, xuất bản năm 1906 có ghi” Phía Nam từ vĩ độ Bắc 18013’ tận cùng là bờ biển Hải Nam (Nhai Châu) là miền đất cực nam của Trung Quốc. Và vì thế nó không có dính líu gì đến Trường Sa, Hoàng Sa.

Chứng cớ rành rành như thế mà Trung Quốc cứ ỉm đi không chịu công bố, lại bấu víu vào cái thứ lịch sử vu vơ khiến luật sư Ted Laguatan phải lên tiếng cảnh báo với toàn thế giới: “Hãy cảnh giác với Trung Quốc”.

Những đòi hỏi của Trung Quốc ở biển Đông trở nên ngạo mạn, cứ xem cái đường lưỡi bò ấy nó liếm mất khoảng 3,8 triệu km2 trong tổng số hơn 4 triệu km2 của toàn vùng biển Đông. Bởi Trung Quốc mơ ước có tới 22 tỉ thùng dầu và 200 ngàn tỉ m3 khí tự nhiên nằm ở đáy biển, cùng với bao nhiêu thứ kim loại khác sẽ giúp cho họ soán ngôi bá chủ thiên hạ.
Lòng tham khiến họ mờ mắt, chứ các nhà khoa học địa chất Mỹ và Nga dự đoán trong lòng biển Đông chỉ có từ 4 đến 7 tỉ thùng dầu là kịch mốc.

Đừng tham quá mà gây thù chuốc oán với các nước láng giềng vẫn luôn tỏ ra tôn trọng Trung Quốc. Xin các vị hãy đọc lại lời dạy của Chủ tịch Mao Trạch Đông với đoàn cán bộ trước khi sang giúp Việt Nam vào tháng 2 năm 1950.

Về mối quan hệ Trung Hoa, Việt Nam, Chủ tịch Mao Trạch Đông đã kể mẩu chuyện lịch sử “Mã Viện đánh Giao Chỉ”:

“Trong lịch sử từ đời Hán trở đi, Trung Quốc đã từng ức hiếp (1) Việt Nam, 80 năm trước chính phủ Mãn Thanh cắt nhượng Việt Nam cho Pháp (2). Dân tộc Việt Nam là một dân tộc tốt, bị nước ngoài cai trị và áp bức lâu dài, họ căm thù người Pháp, rất nhạy cảm đối với người nước ngoài. Các đồng chí có thể nói với các đồng chí Việt Nam: ‘Tổ tông chúng tôi xưa đã từng ức hiếp các đồng chí, chúng tôi tạ tội và xin lỗi các đồng chí’.”
(Nguồn hồi ký của Vi Quốc Thanh đăng trong “Thượng tướng phong vân lục” NXB Đại bách khoa toàn thư năm 2000).

Từ hơn hai ngàn năm nay người Việt Nam vẫn chờ một lời xin lỗi công khai từ phía Trung Hoa! Tuy nhiên, muốn buộc đối phương xin lỗi, có nhẽ người Việt Nam phải sống khác đi!

Tạm biệt nhà văn Nhật Tuấn.

Hà Nội 18h50’ ngày 13.3.2012
-------

Ghi chú:
(1) Ức hiếp ở đây phải hiểu đúng nghĩa là tàn sát dã man, vì Chủ tịch Mao muốn nói tránh đi.
(2) Chỗ này Chủ tịch Mao hơi ngộ nhận, hiệp ước Pháp – Thanh ký là để phân định biên giới, chứ nhà Thanh có tư cách gì mà cắt nhượng được Việt Nam cho thực dân Pháp.

Nguồn:



Không có nhận xét nào:

  Việt Nam trước các nguy cơ tiềm ẩn khó lường Nguyễn Quang Dy Trong bối cảnh thế giới đang biến động khó lường, các nước đang chuyển đổi nh...