Thủy điện sông Tranh - Nỗi lo toàn cảnh
Xung quanh sự cố rò rỉ nước ở đập thủy điện sông Tranh 2
tỉnh Quảng Nam
đang xôn xao dư luận vì nó liên quan đến hàng trăm ngàn người dân tại địa
phương nằm ở mạn hạ lưu con sông này. Tiến sĩ Tô Văn Trường mới có bài viết
dành riêng cho VietnamNet-TuanVN mà dưới đây là “bản gốc” của bài viết với cái
nhìn toàn cảnh cùng nỗi lo cũng là “nỗi lo toàn cảnh” về việc phát triển thủy
điện ở Việt Nam hiện nay.
Xin giới thiệu bạn bè cùng tham khảo.
Vệ Nhi g-th
-----
THƯ CỦA TÁC GIẢ BÀI
VIẾT GỬI BẠN BÈ THÂN QUEN
Dear All
Mấy ngày qua, nhiều
đồng nghiệp, bạn hữu gọi điện, gửi mail quan tâm, lo lắng về sự cố rò rỉ nước ở
đập sông Tranh. Các tuyên bố của cơ quan có trách nhiệm ngày càng lộ rõ sự tắc
trách và khiếm khuyết từ khâu thiết kế, thi công đến giám sát, quản lý dự án.
Công việc cần làm ngay là sau khi xác định rõ nguyên nhân, phải xử lý kịp thời
cả biện pháp trước mắt và lâu dài dù có tốn kém cũng phải làm triệt để vì sự an
toàn của hàng vạn người dân. Sau đó, là phải chỉ ra từng lỗi cụ thể, để xử lý đúng
người, đúng việc, không thể đổ lỗi cho tập thể chịu trách nhiệm và lấy tiền
ngân sách để sửa chữa.
Tôi đã viết 2 bài cho
báo Người Lao Động về sự bất thường và nguyên tắc xử lý. Theo yêu cầu riêng của
VNN-TuanVN nhân sự cố đập thủy điện sông Tranh 2, cần nhìn lại toàn cảnh phát
triển thủy điện ở Việt Nam và bài học kinh nghiệm vỡ đập ở nước ngoài có hiện
tượng lúc đầu tương tự như đập thủy điện sông Tranh 2 của Việt Nam. Xin mời các
anh chị đọc bản gốc bài viết "Nỗi lo toàn cảnh phát triển thủy điện ở nước
ta" dành riêng cho VNN.
Tô Văn Trường
NỖI LO TOÀN CẢNH PHÁT
TRIỂN THỦY ĐIỆN Ở NƯỚC TA
Tác giả: Tô Văn Trường
Có rất nhiều quan điểm khác nhau về
phát triển đất nước. Không hề xấu hổ khi nói rằng chúng ta rất lạc hậu về mọi
mặt. Không thể đốt cháy giai đoạn bằng sử dụng một cách phí phạm các nguồn tài
nguyên, các nguồn lực của đất nước. Bởi chúng ta không thể tái tạo cái mà thiên
nhiên phải tích lũy hàng triệu năm. Cái chúng ta cần làm ngay là ổn định đất
nước về mọi mặt, là phải biết tập trung phát huy sức mạnh của trí tuệ, sức mạnh
tổng hợp của toàn dân. Sức mạnh đó mới giúp chúng ta phát triển trên nền tảng
bền vững, giúp đất nước đi lên một cách vững chắc. Từ sự kiện nóng, sự cố rò rỉ
nước ở đập thủy điện sông Tranh 2 đang gây xôn xao dư luận, đặc biệt là sự bất
an, lo lắng của người dân vùng hạ lưu đập, hãy cùng nhau nhìn lại bức tranh
tổng thể về công tác phát triển thủy điện ở Việt Nam.
Chiến lược phát triển ngành điện
Thủy điện sông Tranh 2 trong một lần xả lũ
Chúng ta xây dựng các dự án phát
triển ngành điện cho vài chục năm sau, nhưng không hề có dữ liệu dự đoán một
cách đáng tin cậy của các ngành sử dụng mà cứ lấy phương hướng của các ngành
khác nhân với tỉ lệ tăng trưởng dự kiến hàng năm để cho ra con số tổng công
suất cần đạt được, có nghĩa là không có số liệu điện năng tiêu thụ bình quân
cho mỗi sản phẩm qui đổi của từng nhóm hàng trong rổ hàng hóa! Tức là ta không
có bức tranh tương lai toàn cục, hai mươi năm sau, vài chục năm sau, mà chỉ có
các hộ sử dụng điện sinh ra chứ không có các hộ sử dụng điện mất đi, tức là hôm
nay sản xuất một tấn thép tiêu hao hết từng này điện thì vài chục năm sau cũng
vậy bằng cách nhân tỷ lệ tăng lũy tiến cho vài chục năm. Do đó, độ tin cậy của
tổng sơ đồ phát triển điện cũng rất hạn chế.
Công tác quy hoạch,
khảo sát
Hệ thống điện của Việt Nam phần lớn dựa vào nguồn phát của
thuỷ điện (thuỷ điện chiếm đến 40% cơ cấu nguồn điện của hệ thống). Tuy nhiên,
nguồn nước để phát điện tuỳ thuộc vào thời tiết, tuỳ thuộc vào “ông trời” và
quy trình vận hành hồ chứa do con người lập ra. Chúng ta chưa có luật quy
hoạch, cho nên các ngành khi làm quy hoạch thì sự phối hợp giữa các ngành chỉ
là hình thức, hay nói rõ hơn không có “nhạc trưởng” đủ uy quyền cả tâm và tầm
để chỉ huy chung. Bởi thế, mới xảy ra việc quy hoạch chồng chéo, mâu thuẫn nhau
và chính những người chịu trách nhiệm làm quy hoạch do chịu nhiều sức ép, nên
đôi khi cũng mất kiểm soát. Với trường hợp quy hoạch thủy điện, bất cập nhất là
làm gia tăng xung đột sử dụng nước. Năm 2010, chúng tôi đi vào rừng Yok Đon,
mục sở thị 20 km sông Serepok cạn khô vì thủy điện Serepok 4A chặn dòng. Rõ
ràng "anh điện" được lợi (kiếm tiền từ thủy điện) thì các ngành khác
hoặc là chết khô, hoặc là chết ngập!
Cơ chế thị
trường, nên nhiều chủ đầu tư muốn đầu tư vào thủy điện đều tìm cách sao cho có
lợi nhuận cao nhất, do đó tìm cách tiết kiệm tất cả các khâu từ khảo sát thiết
kế đến thi công, kể cả thẩm tra, thẩm định. Thông thường khi nhận một công
trình những đơn vị thiết kế đều lên dự toán theo quy chuẩn của nhà nước, nhưng
chủ đầu tư chỉ chi 60~70% giá theo dự toán, muốn được việc người thiết kế đành
cắn răng nhận. Ngay việc khảo sát cũng không được nhận đủ kinh phí theo dự
toán. Ví dụ như đo đạc địa hình, các thuỷ điện đều xây dựng ở nơi heo hút, rừng
nhiều, đo đạc đâu có dễ, do ít tiền nên chỉ vẽ sơ bộ, còn căn cứ vào bản đồ tỷ
lệ thô vẽ lại. Về địa chất thì đáng khoan 10 mũi thì chỉ khoan 5 mũi mà có khi
khoan chưa đến đá gốc, lấy vài mẫu để báo cáo, còn lại dùng phương pháp siêu âm
ngoại suy, như thế thiết kế sao có thể chuẩn được?
Công tác thiết kế.
Theo tôi biết,
hiện tại ở Việt Nam
đập bêtông đầm lăn (RCC) thiết kế theo tiêu chuẩn của Mỹ, đập đá đổ lõi đất
thiết kế theo tiêu chuẩn của Trung Quốc, còn đập đất thì thiết kế theo tiêu
chuẩn VN (dựa trên tiêu chuẩn của Nga).
Bất cập: Tiêu chuẩn hiện hành của ViệtNam không thống nhất về phân loại
cấp công trình thuỷ điện theo Quy mô công suất, gây khó khăn trong việc phân
cấp công trình. Cụ thể: TCVN 285:2002 & QCVN 03:2009/BXD-Ban hành kèm theo
TT số 33/2009/TT-BXD ngày 30/9/2009.
Bất cập: Tiêu chuẩn hiện hành của Việt
Trong khi
đó theo QCVN 03: 2009 BXD lại quy định loại công trình thủy điện cấp đặc biệt
tổng công suất >1000MW. Cấp I công suất 300- <1000MW; Cấp II 100-<300
MW; Cấp III 50-<100MW; Cấp IV <50MW.
Cần có quy trình thiết kế ngặt nghèo hơn đối với những khu
vực hay xảy ra động đất như Quảng Nam , Đà Nẵng. Hơn nữa, chúng ta
khai thác triệt để nguồn nước để phát điện vì lợi ích kinh tế thì sẽ ảnh hưởng
rất lớn đến môi trường. Hiện tại, việc thiết kế thuỷ điện ở VN chưa thực sự quan
tâm, xem xét đến yếu tố “dòng chảy môi trường” và cũng chưa xét đến trường hợp
khi thuỷ điện hết tuổi thọ (khi chất bồi lắng đã ngập cửa nhận nước) thì chi
phí nào để thực hiện!
Công tác thi công.
Khi mở móng thi công đáng ra phải
làm theo thiết kế, đất đào phải chuyển đi xa tới nơi có thể đổ đất thì đổ toẹt
xuống sông hạ lưu cho lũ cuốn đi, thế là lại gây bồi xói hạ lưu. Chủ đầu tư
muốn có lãi có khi tự thi công nên chuyên môn không vững, tiền thi công rẻ mạt,
và thường ăn bớt khối lượng. Mặt khác, chủ đầu tư muốn có dự án phải “chạy” cửa
nọ, cửa kia của tỉnh cũng tốn kém, nếu không có vốn kịp triển khai mấy năm sau
lại bị tỉnh thu hồi, các quan tỉnh lại bán cho chủ đầu tư khác thế là chủ đầu
tư cũ mất tiền. Các chủ đầu tư thường cũng chỉ có 30% vốn, còn lại phải đi vay
ngân hàng mà lãi suất ngân hàng ngày càng tăng, tình cảnh đó khiến chủ đầu tư
đau đầu và chỉ còn cách tiết kiệm tối đa.
Vấn đề môi trường
Về vấn đề
môi trường trong việc đầu tư các dự án phải được đặt lên hàng đầu. Phải có biện
pháp khống chế nạn phá rừng làm nương rẫy, nạn khai thác rừng bừa bãi, nạn cháy
rừng sẽ làm ảnh hưởng rất lớn đến môi trường sống của chúng ta và con cháu
chúng ta trong tương lai. Các đập thủy điện phải đa mục tiêu, sử dụng hữu hiệu nguồn
nước. Trong tương lai, nguồn nước cho sinh hoạt sẽ ngày càng cạn kiệt. Tổng
thống Mỹ John F. Kennedy khi còn đương nhiệm đã phát biểu rằng: nếu ai đó giải
quyết được vấn đề nước thì người đó sẽ nhận đồng thời hai giải thưởng Nobel:
một giải thưởng về khoa học và một giải thưởng về hoà bình!
Cần quy định dòng chảy trả lại cho hạ lưu (dòng chảy môi
trường) phải quy định ngặt nghèo hơn vì trên thực tế có nhà máy thủy điện vận
hành có khi cả tuần, cả nửa tháng không hề xả nước xuống hạ du.
Sự cố rò rỉ đập thủy
điện sông Tranh 2
Ngay khi công luận quan tâm lo
lắng về rò rỉ nước đập thủy điện sông Tranh 2, cơ quan quản lý dự án khẳng định
dòng thấm chảy ra phía hạ lưu đã được nghiệm thu và đánh giá là đạt yêu cầu kỹ
thuật, đảm bảo chất lượng công trình là ngụy
biện!. Các chuyên gia Hội đập lớn Việt Nam đều có chung nhận xét đối với
đập bêtông đầm lăn nguyên tắc thiết kế phải có một hoặc nhiều tầng hành lang.
Trong hành lang đặt các thiết bị đo các yếu tố kỹ thuật như thấm, chuyển vị,
nhiệt độ. Riêng về thấm, các nhà tư vấn tính toán lưu lượng thấm cho phép qua
toàn bộ thân đập theo các tiêu chuẩn hiện hành nhưng tuyệt nhiên không cho thấm
trên mặt đập, càng không cho phép nước chảy thành dòng như ở đập sông Tranh.
Tại các khe nhiệt và khe co dãn phải bố trí ít nhất là 1 hàng vật chắn nước
(với đập cao như Sông Tranh 2 thông thường bố trí 2 hàng vật chắn nước) từ đỉnh
đến chân đập bằng đồng hoặc bằng nhựa PVC có tuổi thọ cả trăm năm nhưng phải
tuyệt đối đảm bảo chất lượng không cho nước thấm qua các vật chắn của các khớp
nối ở khe nhiệt hoặc khe co giãn, khe lún.
Bài học kinh nghiệm
đắt giá của nước ngoài
Xin cảnh báo thực tế đã có vỡ đập ở Mỹ, các hiện tượng ban
đầu rất giống như đập thủy điện sông Tranh 2 của Việt Nam . Đập chứa
nước St.Francis dung tích 47 triệu m3, chiều cao 59 m, chiều dài 185
m, cung cấp nước cho Los Angeles, xây dựng từ 1924 đến 1926 thì hoàn thành.
Trong suốt năm 1926 và 1927, một số vết nứt bắt đầu xuất hiện trong đập. Ngày
12/3/1928 người ta phát hiện ra một vết rò rỉ mới đồng thời đã có lo ngai đập
bị xói mòn. Tuy nhiên, sau khi kiểm tra, thanh tra xác định rằng sự xuất hiện
của nước bùn không phải từ phần đập bị rò rỉ, do đó họ vẫn tuyên bố đập an
toàn. Tuy nhiên, đến nửa đêm thì đập St. Francis bị vỡ. Khoảng 600 người thiệt
mạng, trong đó có những nạn nhân bị cuốn ra biển vài tháng sau, thậm chí vài
chục năm sau mới tìm thấy xương cốt. Nguyên nhân vỡ đập được xác định do ba yếu
tố chính: sự bất ổn của nền đất trên đó đập được xây dựng (trên rãnh đứt gãy
địa chất); Sai lầm trong thiết kế, đặc biệt khi tăng thêm chiều cao của đập vào
năm 1925, và công tác giám sát thiết kế và thi công. Rút kinh nghiệm từ sự cố
này, thành phố Los Angeles
đã cho gia cố, xử lý đập Mulholland có kết cấu tương tự ngay sau thảm họa.
Thay cho lời kết
Thực tình, so với các nhà máy sản xuất điện khác hiện có,
nếu con người đừng quá tham lam thì thủy điện
có lẽ ưu việt hơn cả vì vừa có tác dụng phát điện, vừa có tác dụng điều tiết
nước. Chữ "nếu" này không bao giờ thành hiện thực ở các nước nghèo,
quan trí thấp nhưng ham muốn thì vô biên. Từ xây dựng quy hoạch (kể cả thẩm
định), thiết kế (có thẩm định), thi công (bao gồm cả giám sát), vận hành đều
quay cuồng trong vòng xoáy phần trăm lại quả, vậy thì không chỉ thủy điện mà
mọi hoạt động kinh tế đều tiềm ẩn nguy cơ có quả bom nổ chậm treo trên đầu
người dân. Cần phải thấy rằng nếu 1 con đường làm ẩu thì chỉ làm hại những ai
đi trên con đường ấy; Nếu 1 nhà máy nhiệt điện làm ẩu thì chỉ ảnh hưởng đến
công nhân (sự cố cháy nổ) hoặc dân cư xung quanh (vì xả khí ô nhiễm) còn nếu
đập thủy điện không an toàn thì tiềm ẩn nguy cơ tác động có thể đến hàng chục
vạn người dân ở hạ du.
Hiện nay,
trên thế giới người ta có thể dùng máy CT để chụp cắt lớp các khe nứt. Đoàn
kiểm tra mới công bố trấn an dư luận đập sông Tranh 2 vẫn an toàn nhưng không
đưa ra bất cứ số liệu đo đạc kiểm tra để minh chứng. Dù có xử lý bằng
cách nào đi nữa kể cả xử lý triệt để ở mái thượng lưu thì “tuổi thọ” của đập
thủy điện sông Tranh chắc chắn bị tổn hại, đó là điều không phải bàn cãi.
EVN cùng Bộ Công thương phải thường
xuyên báo cáo Thủ tướng một cách trung thực và áp dụng các biện pháp xử lý một
cách khoa học và đồng bộ không sợ chịu trách nhiệm và tốn kém vì sự an toàn của
người dân. Đây cũng là một sự kiện để EVN thể hiện sự đổi mới sau khi thay
tướng. Công việc của EVN sắp tới nặng như núi, trong đó chắc hẳn có công việc
tổng kiểm tra độ an toàn của toàn bộ hệ thống đập thủy điện ở Việt Nam .
TVT
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét