Bài phú hay của Kha Tiệm Ly
Cuối tuần lướt mạng thấy bài
phú mới của thi sĩ Kha Tiệm Ly ở xứ dừa Bến Tre hay quá, xin phép đưa lên đây. Bài
phú có tên “Điểm mặt quân thù phú”.
Quý bạn chưa thấy thì đọc, người
đã đọc rồi thì… đọc lại, vì thật đáng đọc lắm.
Lời văn của Kha Tiệm Ly là
vậy, hào sảng đầy khí tiết, như nói hộ mọi người Việt trước những lo lắng bức
xúc vì họa giặc biển lúc này…
Được biết thi sĩ Kha Tiệm Ly
tên thật là Thái Quốc Tế. Ông sinh năm 1946 tại xã An Thuận, huyện Thạnh Phú,
tỉnh Bến Tre, là con thứ chín trong gia đình có 11 anh chị em. Thân phụ ông là
nhà thơ Chánh Đạo Thái Vinh Tông và hầu hết các con của Cụ đều biết làm thơ
Luật từ nhỏ.
Thái Tiệm Ly có nhiều sáng tác văn
học nghệ thuật từ trước ngày thống nhất đất nước. Theo nhận xét của một số cây
bút văn chương chuyên nghiệp thì thi sĩ Kha Tiệm Ly là một trong số ít tác giả làm
được những áng văn thể “Phú” hay nhất nước ta.
Vệ Nhi g-th
Kha Tiệm Ly
Biển đông cao sóng hờn căm,
Hải đảo cựa mình đau đáu.
Nhìn về Hoàng Sa, tan dạ nát gan,
Nghĩ tới Trường Sa, đứng tim sôi máu!
Hỡi quân thù!
Chớ ỷ mạnh mà quen thói hung tàn,
Chớ cậy đông mà giở trò thô bạo!
Nói cho mi biết:
Đụng tới viên sỏi đảo ta, là đụng tới ngàn năm công đức tổ tiên,
Làm nhục một người dân ta, là làm nhục trăm triệu anh em máu thịt!
Hiếp biển nước ta, là bôi mặt nòi giống Tiên Rồng,
Cướp đất đảo ta, là sỉ nhục giang sơn Đại Việt!
Cha, chú ta, dân cày ruộng cũng là hảo hán anh hùng,
Mẹ, chị ta, người nấu bếp cũng là nữ lưu hào kiệt!
Trước họa nước, bao hiểm địa cũng thành Vạn Kiếp, Chi Lăng,
Trước nạn dân, mọi trường giang đều hóa Bạch Đằng, Như Nguyệt!
Hồi trống trường, cũng thành trống trận thúc quân,
Bóng cờ lau, cũng thành bóng cờ quyết thắng!
Nói cho mi nhớ,
Triệu Nương, một dải yếm đào mà Lục Dận chẳng một tàn quân,
Trưng Vương, hai mảnh quần hồng mà Tô Định không còn manh giáp!
Sức mạnh ta là Hội Nghị Diên Hồng,
Khí thế ta là cánh tay sát thát!
Sao không lấy gương Liễu Thăng, Ô Mã mà soi?
Sao không lấy chuyện Thoát Hoan, Vương Thông mà xét?
Thấy Sầm Nghi Đống, treo cổ sao chẳng rớt tim?
Nghe Hứa Thế Hanh bỏ mạng mà chưa vỡ mật?
Thanh gươm Lê Lợi, trăm năm sau, mi vẫn còn phách mất hồn tan.
Vó ngựa Lý Thường, hai châu cũ (**), đất chẳng dám hoa khai cỏ mọc!
Với bọn mi,
Tổ tiên ta từng bẻ trúc rừng làm ngọn giáo dài,
Cha anh ta đã lấy lưỡi cày đúc thanh kiếm bạc.
Thế mà,
Đằng Giang mấy lần nhuộm máu, máu thù chẳng hết tanh hôi,
Đống Đa một trận phơi xương, xương giặc vẫn chưa rũ mục!
Chương Dương gươm khua chan chát, xác cản mũi tàu, xác nghẽn bước quân,
Khâm Châu sét nổ ầm ầm, máu ngập chân thành, máu dơ chân ngựa!
Huống chi nay,
Tiềm thủy đỉnh xuất quỷ nhập thần,
Chiến đấu hạm, đi giông về lốc.
Đầy căn cứ, muôn (*) dàn hỏa tiễn đối không,
Nghẹt vùng trời, hàng đội phi cơ tiềm kích.
Cờ phất, đạn bay khiếp quỷ kinh thần,
Bấm nút, bom rơi long trời lở đất.
Dù vũ khí có chia rõ nhược, cường.
Nhưng ý chí mới định phân cao, thấp:
Quân mi mấy mươi vạn (*), mà Đằng Giang xác nổi như bèo?
Quân mi mấy mươi muôn, mà Hồng Hà thây trôi như rác?
Quân ta mấy vạn, mà xác bọn mi làm nghẽn đường chiến tượng Quang Trung?
Quân ta mấy muôn, mà máu lũ mi đã đẫm giáp chinh y Hưng Đạo?
Lớn miệng khoe đất rộng, mà chịu làm tôi tớ bởi bầy ngựa Nguyên Mông,
Cao giọng ỷ người đông, lại đành làm tai sai do mấy đoàn quân Nhật!
Chúng ta đây,
Hướng ra biển, triệu triệu anh em chung dạ sẵn sàng,
Muốn hồi hương, vạn vạn kiều bào một lòng háo hức.
Đem tim gan tôi đỏ chí quật cường,
Lấy đoàn kết, nấu sôi lòng son sắt!
Cờ tổ quốc đâu để nhạt màu,
Máu hùng anh không cho phai sắc!
Liệt sĩ Hoàng Sa luôn bám bước quân hành,
Liệt sĩ Gạc Ma vẫn theo người cứu quốc!
Từng đánh mi trăm trận, đã biết đâu đá đâu vàng,
Giờ thử lửa một phen, cho biết ai gang ai sắt?
Anh em ta,
Nam nhi hề, chí tại biển đông,
Chiến sĩ hề, thân treo đầu súng.
Cửu Long vẫn hiên ngang chín khúc hào hùng,
Hoàng Liên mãi sừng sững mấy tầng cao ngất.
Lúc gian nguy, ra trước ngõ lại thấy anh hùng
Buổi quốc nạn, xoay bai bên đụng người kiệt xuất!
Vì chung trăm trứng, nên đá nghìn non thương về hải đảo anh em,
Cũng bởi một nòi, mà nước muôn lạch tìm đến biển xanh cốt nhục.
Chung mẹ Âu Cơ, nên máu chảy ruột mềm,
Cùng cha Long Quân, mới lòng đau dạ thắt.
Trăm triệu đồng bào đều muốn vượt trùng khơi,
Mấy triệu anh em luôn hướng về cố quốc.
Bọn chúng bây, nào một lần cướp nước, hại dân,
Anh em ta, đã bao bận đuổi thù, giết giặc.
Thân vắt mạn tàu, bao anh hùng muôn thuở thơm danh,
Chết dưới ngọn cờ, máu liệt sĩ ngàn năm đỏ sắc!
Hét lên đi! Đại Việt hùng cường!
Vung tay lên! Việt Nam bất khuất!
Máu đọ máu thử coi ai đỏ ai đen?
Xương đọ xương thử xem ai vinh ai nhục?
Lời cuối cho mi:
Lịch sử Âu Lạc không thiếu đấng kiên trung,
Nhân dân Đại Cồ chẳng có người khiếp nhược!
Hải đảo ta một vùng khiêm tốn, vẫn đủ cho lũ giặc chôn thây,
Biển đông ta bốn hướng mênh mông, dư sức để muôn tàu dìm xác!
Ta nói có cội có nguồn,
Mi liệu tính sau tính trước!
K.T.L.
Chú thích:
(*) những con số trong bài nầy chỉ có giá trị minh họa.
(**) Khâm Châu, Liêm Châu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét