Kinh tế: Coi chừng vẫn tuột dốc
Hàng ngày các phương tiện
thông tin đại chúng của nhà nước vẫn cố ý đưa nhiều tin bài và hình ảnh cốt
chứng minh sự điều hành quản lý kinh tế - xã hội đã rất cố gắng để vượt thoát
tình trạng trì trệ, giảm phát…, tóm lại là bước ra khỏi thực trạng kinh tế khó khăn hiện
nay... Thậm chí có bài viết còn gợi thêm ý để người đọc hình dung là nên nhìn ra chung quanh thế
giới, xem những nước khác họ còn tồn tại biết bao vấn đề nan giải - vì khủng hoảng kinh tế toàn cầu cơ mà -, trong khi đó VN mình đã biết
điều chỉnh kịp thời, triển khai các biện pháp điều hành khá hợp lý và đồng bộ...
Và nhân dân cùng mọi người hãy yên tâm đi...
Hòa với dòng chủ lưu của
tuyên truyền công khai và chính thức này là những diễn đàn để các vị lãnh đạo cấp
cao tham dự và truyền đạt. Ở cấp vĩ mô này là sự nhấn mạnh vào chủ trương đường
lối, là sự phục hồi kinh tế đang và sẽ diễn ra, và thường không bao giờ quên
nhắc đến các cụm từ như “tái cơ cấu” (cho mọi hoạt động kinh tế), coi đó như liều
thuốc chữa bách bệnh, một thứ cứu cánh phá thế khủng hoảng…
Rồi nữa, không ít chuyên gia
kinh tế - đây chỉ nói riêng các vị loại “ăn theo”, loại này xuất hiện rất linh
hoạt, thường biết lên tiếng (rất đúng lúc) trên nhiều tờ báo ở trung ương cũng như lên
sóng truyền hình quốc gia. Nội dung thường cũng chỉ là bản minh họa tồi, tức “đón
ý” lãnh đạo là chính. Nên bài vở và phỏng vấn của họ chẳng có mấy ‘bít’ thông
tin đáng giá chứ mong chi một nhận định nào mới mẻ và sáng tạo.
Thảng hoặc cũng có những ý kiến những nhận định phải nói rất sắc sảo, nói rất trúng những điều cần nói của các chuyên gia thật sự về kinh tế và tài chính. Và quan trọng là những con người này vốn trung thực, có nhân cách trong lĩnh vực nghề nghiệp và chuyên môn của họ. Nên khi được/phải nói thì họ rất thẳng thắn, không né tránh các vấn đề gai góc. Tuy nhiên số này đáng tiếc là ít có dịp được bộc lộ công khai chính kiến của mình - có thể bản thân họ không muốn nói nhưng cái chính là báo chí truyền thông "đón gió", chiều ý cấp trên nên chẳng mặn mà vời tới họ... Nên cách xuất hiện của dạng ý kiến phản biện có thực chất này chỉ có ở các trang lề trái, lề dân...
Thảng hoặc cũng có những ý kiến những nhận định phải nói rất sắc sảo, nói rất trúng những điều cần nói của các chuyên gia thật sự về kinh tế và tài chính. Và quan trọng là những con người này vốn trung thực, có nhân cách trong lĩnh vực nghề nghiệp và chuyên môn của họ. Nên khi được/phải nói thì họ rất thẳng thắn, không né tránh các vấn đề gai góc. Tuy nhiên số này đáng tiếc là ít có dịp được bộc lộ công khai chính kiến của mình - có thể bản thân họ không muốn nói nhưng cái chính là báo chí truyền thông "đón gió", chiều ý cấp trên nên chẳng mặn mà vời tới họ... Nên cách xuất hiện của dạng ý kiến phản biện có thực chất này chỉ có ở các trang lề trái, lề dân...
Trong số những ý kiến nổi lên
về điều hành kinh tế vĩ mô thì bài phỏng vấn được nhắc đến nhiều nhất gần đây là cuộc
phỏng vấn ông bộ trưởng văn phòng chính phủ đã được đài truyền hình trung ương đầu
tư kỹ càng nhất. Bài phỏng vấn có vẻ quá dài về thời lượng như đối với truyền hình, lại ưu tiên phát trong
“giờ vàng” của đài, được xem là cú đáp trả đối với những đánh giá theo luồng
phản biện, lề trái trong dư luận… Tác dụng của bài nói đó sẽ như thế nào hãy đợi thời gian và dư luận phán xét.
Kể ra một chính phủ mà tự tin,
quyết đoán, lại có những ý kiến và giải đáp công khai minh bạch trước công luận
về “quốc kế dân sinh” như trên là một hiện tượng tốt cần ghi nhận và đáng hoan nghênh.
Tuy nhiên vấn đề là trong
bức tranh “có nhiều điểm sáng” mà lãnh đạo và người quản ký cố sức vẽ ra thì
thực chất nền kinh tế của chúng ta hiện nay, là "sức khỏe" thật của nó trong đời sống người dân bấy lâu nay ra
sao mới là vấn đề cần bàn tới.
Chỉ cần lướt trên trang điện
tử của hai tờ báo chính thức mới đây đã thấy bộc lộ tình thế ông chẳng bà
chuộc, vung kia nồi nọ chứ chẳng ăn khớp gì - tức cái cách đánh giá và nhận định ngay tại những tiếng nói chính thức, tiếng nói "trong luồng" cũng đã khác
nhau rất nhiều rồi. Chẳng phải là không ít lần trên truyền hình cả nước xem, những vị lãnh đạo
cấp bộ ngành, nhất là các vị bên ngành tài chính ngân hàng thường đăng đàn nói rằng nợ
công là rất an toàn, chí ít cũng trong vòng kiểm soát... Nhưng bài viết trên tờ Dân
Việt – mà Dân trí đăng lại – thì lại nói “nợ công của VN vượt ngưỡng an toàn”. Cũng vẫn sự giải thích mang tính đả thông, quán triệt thì không thiếu cảnh quan chức phụ trách ngân hàng vẫn nói những lời có cánh về sự quản lý ngân
sách, về kiểm soát dòng tiền lưu thông và chi tiêu công quỹ... là rất bài bản nghiêm túc như bản tin đăng
trên báo Công an nhân dân (và nhiều tờ báo khác) lại phát tín hiệu SOS về “Quỹ
lương hưu có khả năng mất khả năng chi trả trong một tương lai không xa”.
Đến đây người viết bài này
muốn rằng các bạn chúng ta hãy đọc nguyên văn những điều tôi vừa miêu tả tại 2
bài viết được cóp dưới đây rồi các bạn tự rút ra kết luận cho mình.
Tóm lại bức tranh kinh tế quốc
gia của chúng ta chưa có gì là sáng sủa cả, nếu không muốn nặng lời là “vẫn
trượt dốc, tụt dốc”.
Với sự tăng giá liên miên của
xăng dầu, điện đóm, khí đốt và các nhu yếu phẩm khác (lại nghe những giải thích
về việc “phải tăng giá” của quan chức không hề thuyết phục); với thực tế đời
sống ngày càng khó khăn của người dân thường trong sinh hoạt; với sự báo động
đỏ từ sức mua của đồng tiền ngày càng giảm sút (lấy giá bát phở nay là 30-40
nghìn đồng, thay vì chỉ chục nghìn hay là đến 15-20 chục nghìn ít năm trước đây
là thấy rõ nhất về giá trị đồng tiền giảm sút)...
Trên đây là sự thực quan sát
dễ dàng nhất với bất cứ ai quan tâm đã khiến không người dân thường nào không
lo lắng cho tương lai đời sống của mình và gia đình. Lẽ đương nhiên từ lo lắng
sẽ thấy bức xúc bức bối trước những bất cập trong cách điều hành, quản lý nền
kinh tế hiện nay của bộ máy các cấp. Chỉ có nhận thức được rõ ràng và minh bạch
về những điều như vậy, cái cơ chế và bộ máy công quyền phụ trách đời sống kinh
tế mới thực sự có cơ tìm lại niềm tin trong nhân dân và vượt thoát ra khỏi tình
trạng khó khăn lung túng hiện nay.
Vệ Nhi
------
Nợ công Việt Nam đã vượt xa ngưỡng an toàn
Theo Ủy ban
Kinh tế, những khoản nợ xấu của khu vực DNNN mà rất có thể sẽ phải dùng NSNN để
trả, là mầm mống đe dọa tính bền vững của nợ công Việt Nam. Riêng năm 2012,
nghĩa vụ trả nợ xấp xỉ 5,4 tỷ USD, tương đương 4,5% GDP năm
2011.
Tại bản thảo
nghiên cứu Nợ công Việt Nam - Quá khứ và Tương lai do Ủy ban Kinh tế Quốc hội và
Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) thực hiện, ghi nhận, số liệu ước
tính đến hết năm 2011, tổng nợ công của Việt Nam vào khoảng 58,7% GDP. Trong đó,
nợ công nước ngoài và nợ công trong nước lần lượt là 31,1% và 17,6%
GDP.
Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu cho rằng, rủi ro tiềm tàng lớn nhất đối với nợ công của Việt Nam có lẽ không phải ở những khoản nợ được ghi nhận trên sổ sách.
Theo đó, những khoản nợ xấu của khu vực doanh nghiệp nhà nước (DNNN) mà rất có thể sẽ phải dùng ngân sách nhà nước để trả mới là mầm mống đe dọa tính bền vững của nợ công Việt Nam.
Cụ thể, khoản nợ nước ngoài của khu vực tư nhân và DNNN không được chính phủ bảo lãnh chiếm 11,1% GDP. Ngoài ra, nợ trong nước của khu vực DNNN theo ghi nhận trong Đề án Tái cấu trúc DNNN của Bộ Tài chính năm 2012 cũng chiếm xấp xỉ khoảng 16,5%.
Nhóm nghiên cứu của Ủy ban Kinh tế và UNDP đánh giá, tính đến các con số kể trên, nợ công Việt Nam đã vượt xa so với ngưỡng an toàn (60% GDP) được khuyến cáo bởi các tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB) hay Quỹ tiền tệ Thế giới (IMF).
Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu cho rằng, rủi ro tiềm tàng lớn nhất đối với nợ công của Việt Nam có lẽ không phải ở những khoản nợ được ghi nhận trên sổ sách.
Theo đó, những khoản nợ xấu của khu vực doanh nghiệp nhà nước (DNNN) mà rất có thể sẽ phải dùng ngân sách nhà nước để trả mới là mầm mống đe dọa tính bền vững của nợ công Việt Nam.
Cụ thể, khoản nợ nước ngoài của khu vực tư nhân và DNNN không được chính phủ bảo lãnh chiếm 11,1% GDP. Ngoài ra, nợ trong nước của khu vực DNNN theo ghi nhận trong Đề án Tái cấu trúc DNNN của Bộ Tài chính năm 2012 cũng chiếm xấp xỉ khoảng 16,5%.
Nhóm nghiên cứu của Ủy ban Kinh tế và UNDP đánh giá, tính đến các con số kể trên, nợ công Việt Nam đã vượt xa so với ngưỡng an toàn (60% GDP) được khuyến cáo bởi các tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB) hay Quỹ tiền tệ Thế giới (IMF).
Tại báo cáo thẩm tra về Kế hoạch phát triển KT-XH 5 năm 2011 - 2015 và năm 2012, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Nguyễn Văn Giàu đồng ý với Chính phủ, chỉ tiêu dư nợ công năm 2012 không quá 60% GDP, đến năm 2015 không quá 65% GDP, dư nợ của Chính phủ không quá 55% GDP, dư nợ quốc gia không quá 40% GDP.
Dự kiến, nợ công sẽ còn tăng đến 2015 và được đề xuất bắt đầu giảm từ 2016 nhằm tránh ách tắc trong phát triển KT-XH.
Nghĩa vụ trả nợ năm 2012 tương đương 4,5% GDP năm 2011
Báo cáo lưu ý, trong vài năm trở lại đây, quy mô của các khoản vay thương mại trong nợ nước ngoài với lãi suất cao đang có xu hướng tăng lên. Tính đến hết ngày 31/12/2010, đã có gần 6,8% tổng nợ nước ngoài của Chính phủ có lãi suất lên tới 6-10% và hơn 7% tổng nợ nước ngoài của Chính phủ có lãi suất thả nổi.
Bên cạnh đó, bản dự thảo báo cáo chỉ ra, cơ cấu kỳ hạn của các khoản nợ công trong nước cũng gây rủi ro khá lớn. Trong khi các khoản nợ nước ngoài có kỳ hạn dài tới vài chục năm, có hơn 88,7% nợ trái phiếu chính phủ và trái phiếu chính phủ bảo lãnh có kỳ hạn chỉ từ 2-5 năm.
Do vậy, nghĩa vụ nợ nước ngoài được dàn khá đều với 1,5-2 tỉ USD/năm, trong khi đó nghĩa vụ nợ trong nước lại dồn trong thời gian gần, với xấp xỉ 4,5-5 tỉ USD/năm trong vòng 4 năm tới. Như vậy, cùng với triển vọng cán cân ngân sách cơ bản tiếp tục thâm hụt thì sức ép phát hành trái phiếu để đảo nợ trong nước những năm tới là rất lớn.
Với tỉ trọng đang có xu hướng tăng nhanh trong những năm gần đây, nhóm nghiên cứu cho rằng, nợ công trong nước đang hàm chứa những rủi ro do lợi suất cao cộng với kỳ hạn ngắn của nó.
Chỉ tính riêng năm 2012, nghĩa vụ trả nợ lãi và gốc của Việt Nam lên tới xấp xỉ 5,4 tỉ USD hay tương đương với 4,5% GDP của năm 2011. Theo nhóm nghiên cứu, đây chính là những nguyên nhân chính của hiện tương chi tiêu công lấn át chi tiêu tư nhập, kết hợp lạm phát cao do sức ép tài trợ trái phiếu thông qua tăng cung tiền.
Theo số liệu được cung cấp bởi Kiểm toán Nhà nước, tính đến hết năm 2010 nợ phải trả nước ngoài dùng để cho vay lại tương đương 11,2 tỷ USD, tăng hơn so với 9,203 tỷ USD năm 2009. Trong đó, số dư mà Bộ Tài chính cho vay lại tại 11 tổ chức cho vay lại và 7 đơn vị vay lại khoảng 8,4 tỷ USD.
Lũy kế đến hết năm 2011, số tiền Bộ Tài chính ứng trả nợ thay cho các đơn vị được Chính phủ bảo lãnh vay công nước ngoài gần 2.437 tỷ đồng.
Thông tin về nguy cơ cạn kiệt Quỹ lương hưu:
| |
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét