Câu chuyện 2 Quốc tịch
Vừa đây có nghe dư luận và báo chí phản ảnh từ hai ngành tư pháp và ngoại giao nêu lên "vấn đề giữ Quốc tịch Việt Nam" với chi tiết đáng chú ý: Là 5
năm sắp trôi qua rồi kể từ ngày Nhà nước công bố người VN ở nước ngoài muốn giữ lại
Quốc tịch Việt Nam (cho phép có 2 Quốc tịch) thì đến các ĐSQ của chúng ta ở nước
ngoài đăng ký giữ. Tuy nhiên vấn đề này cho đến nay xem ra chưa đưa lại kết quả khả quan. Vì
con số đưa ra là trên 5 triệu người ở diện này thì mới chỉ có chừng 6.000 người đến
đăng ký giữ lại Quốc tịch VN. Như vậy là quá ít.
Lại nghe nói các cơ quan chức năng VN một mặt lại muốn kéo
dài thời hạn đăng ký, mặt khác sẽ tìm cách sửa đổi cơ chế, quy định sao cho “thực
tế hơn”, “phù hợp hơn” với tình hình Việt kiều hiện tại (đúng ra phải dùng nhóm
từ “người Việt Nam ở nước ngoài” mới đầy đủ ý nghĩa).
Việc sửa đổi luật pháp, quy chế, quy định… thì mình thấy nên
nhưng kéo dài thời gina (lần này rồi lần khác nữa…) thì mình chưa thấy thuyết
phục. Bởi đã trải qua đến 5 năm mà chỉ chừng ấy người Việt có Quốc tịch nước
ngoài đến cơ quan đại diện nước ta đăng ký giữ Quốc tịch VN thì giả sử kéo thê
một hai năm nữa cũng chắc chả hơn gì. Người nào dự định giữ Quốc tịch quê hương
thì đã đi đăng ký ngay, chứ ra hạn thêm thì xem ra số người mới chắc cũng chẳng
còn đông đảo nữa.
Nhân có chuyện này, chủ blog tôi xin phép tác giả ở Ba Lan
đăng lại bài viết dưới đây để thấy thêm cách nhìn vấn đề cũng như một chút tâm trạng thực tế của người VN chúng ta đang làm ăn sinh sống ở nước ngoài.
Vệ Nhi
-----
Vấn đề quốc tịch nước ngoài và quốc tịch Việt Nam
Với cương vị là công dân của Việt Nam và Ba Lan, tác giả bài viết chỉ muốn chia sẽ những góc nhìn của bản thân, khi đã có được một số kiến thức và những kinh nghiệm sống nào đó. Bài viết không hề có tính chất hướng dẫn, nhận xét hay phê bình bất cứ một ai. Ngoài ra nó cũng không thể là một chiếc bản đồ chỉ đường cùng với các nguyên tắc pháp luật, để ai đó có thể dựa vào đây lấy lý lẽ làm bằng chứng, vì một lý do đơn giản là tác giả chỉ là một công dân bình thường, hoàn toàn không có quyền (đó).
Là
một công dân tự do, ai cũng có quyền đưa ra ý kiến của
mình, góp phần nào đó cho xã hội ngày càng dễ dàng (về
hành chính), cũng như lành mạnh và tươi đẹp (về cuộc
sống) hơn. Tất nhiên, tiếng nói của 1 công dân cũng chỉ
có những giá trị ở một mức độ nào đó. Nếu công
dân có điều kiện để trở thành đại biểu quốc hội,
thì khi đó tiếng nói sẽ có phần nào mạnh mẽ và thiết
thực hơn, bởi vì khi đó sẽ được tham dự vào những
công việc lập pháp cho cả quốc gia, sẽ góp phần tạo
ra những bộ luật dễ hiểu, dễ áp dụng và quan trọng
là thân thiện hơn cho người dân.
Tất
cả các nguyên tắc pháp luật là do con người tạo nên.
Và nó để phục vụ con người, không chỉ ở góc độ
để dễ quản lý, mà ở mọi phương diện. Các bộ luật
luôn được tạo ra, được sửa đổi, để tất cả mọi
công dân đều cùng được áp dụng bình đẳng, khi cùng
chung sống trong một cộng đồng lành mạnh. Do vậy, bộ
luật nào hay nghị quyết nào, nếu không hợp lý trong
cuộc sống, cũng có thể thay đổi tại mọi thời điểm,
tức là phải điểu chỉnh ngay lập tức, sao cho hợp lý,
có lôgic, phải có tính chất thực thi và quan trọng là
phải để phục vụ mọi người dân. Mỗi một người
dân khi sinh ra, đều đã có rất nhiều rất quyền lợi
chính đáng, đa số mọi điều thực ra toàn là những
chuyện hiển nhiên, nhưng vì một vài lý do khác nhau,
không phải là ai cũng (muốn) nhìn nhận thấy những điều
quan trọng này.
Nói
chung, bộ luật nào đưa ra (đã được bàn luận và phê
duyệt) đều phải mang tính chất thật công minh và quan
trọng là phải thật dể hiểu cho tất cả mọi người
dân. Tất nhiên là làm được điều này không hề dễ
dàng, vì trình độ nhận thức của mỗi người là khác
nhau. Nguyên tắc chung là bộ luật nào cũng phải rõ ràng,
nhưng cũng không thể tạo điều kiện cho người dân dễ
dàng làm những công việc được gọi là „lách luật”,
đồng thời bộ luật cũng không thể là một „mớ bòng
bong”, để cho người dân không thể hiểu và chỉ để
cho những người có thẩm quyền có thể nhìn nhận và
thi hành nó theo một cách tùy tiện. Nguy hiểm là khi nhà
công chức nhìn nhận (áp dụng) luật với tiêu chí là
chỉ để có lợi cho bản thân, mặc dù điều đó gây ra
rất nhiều phiền hà cho người dân, chỉ theo nguyên tắc
„hành là chính”, bởi vì là quốc gia nào cũng đang cố
gắng bài chống tệ nạn tham nhũng.
Việt
Nam và Ba Lan đều đang trên con đường phát triển, có lẽ
ai cũng muốn hội nhập với thế giới, tuân thủ theo các
nguyên tắc và đạo lý chung, chứ không phải là muốn
làm gì cũng được, khi đang có nhiều quyền lực trong
tay. Bởi vì là chúng ta đang sống trong một thời đại
là đa số các quốc gia đều muốn có một nền kinh tế
thị trường, cùng phát triển, cùng hội nhập và dễ
dàng giao lưu, để có quan hệ hợp tác quốc tế với
nhau, với tính chất toàn cầu. Chả ai muốn mình bị cô
độc, vì trong cuộc sống của ai cũng cần có giao lưu,
nhất là khi công việc làm ăn buôn bán đang phát triển
ngày càng thuận lợi.
Về
quốc tịch, Ba Lan (Việt Nam cũng vậy) có bộ luật công
nhận quốc tịch theo tính chất thừa kế (theo máu). Tức
là khi cha/mẹ có (những) quốc tịch nào là con cái sinh
ra có được (những) quốc tịch đó. Hoàn toàn không phụ
thuộc vào vị trí địa lý, nơi đứa trẻ sinh ra. Ngược
lại, khi cả cha và mẹ là người nước ngoài, đứa trẻ
sinh ra ở Ba Lan không có quốc tịch Ba Lan, mà nó phải
nhận (những) quốc tịch của cha mẹ mình.
Trường
hợp khi mà người mẹ là công dân Ba Lan, những đứa trẻ
được sinh ra nghiễm nhiên có quốc tịc
h Ba Lan, trừ trường hợp khi người mẹ chỉ muốn cho con mình nhận quốc tịch nước khác (theo cha nó).
h Ba Lan, trừ trường hợp khi người mẹ chỉ muốn cho con mình nhận quốc tịch nước khác (theo cha nó).
Trường
hợp khi mà người mẹ là công dân Việt Nam, nếu tình
trạng hôn nhân của người mẹ đang ở cương vị là kết
hôn (có chồng) thì khi sinh con ở Ba Lan, người chồng
nghiễm nhiên được/phải đứng tên là cha của đứa
trẻ. Nếu đứa con là kết quả của „một vụ ái tình”
khác, thì khi đó người chồng, người vợ và người bồ
có thể cùng ra khai báo ở tòa án. Tòa án làm công việc
xác minh (thẩm tra, hỏi cung, thậm chí xét nghiệm ADN nếu
cần) rồi có thể đưa ra kết luận tuyên án là người
chồng khi không có quan hệ với vợ vào thời điểm thụ
thai, sẽ không phải là cha đẻ của đứa bé. Khi đó
Phòng hộ tịch có thể gạch tên người chồng trong giấy
khai sinh của đứa trẻ và người bồ (cha thật) của nó
sẽ được ra Ủy ban làm thủ tục nhận con và ghi họ
tên mình vào giấy khai sinh của nó. Nếu người chồng có
quốc tịch Ba Lan, đứa bé (đã) có quốc tịch Ba Lan,
nhưng sau khi có sự thay đổi, người cha mới của nó
(tức người bồ của mẹ nó) không có quốc tịch Ba Lan,
thì khi đó đứa bé sẽ không còn quốc tịch Ba Lan, bởi
vì là hiện tại cả cha mẹ của nó đều không có quốc
tịch Ba Lan, đứa trẻ hoàn toàn không còn gì liên quan
với công dân Ba Lan (ông chồng của người mẹ) kia nữa.
Thậm chí khi nó đã mang họ mẹ (và hiện vẫn giữ họ
này), mặc dù đã có quyển hộ chiếu Ba Lan với hạn giá
trị là 10 năm (có thể không ai đòi thu hồi cuốn hộ
chiếu này, nhưng nó sẽ không được gia hạn) – đứa
trẻ không là công dân Ba Lan. Vậy là không có chuyện là
đã có rồi là không bao giờ mất. Có (sở hữu) quyển
hộ chiếu là một chuyện, vấn đề (có) quốc tịch lại
là hoàn toàn khác.
Nếu tình trạng hôn nhân của người mẹ đang ở cương vị là không có chồng thì người cha của nó sẽ được ra Ủy ban làm thủ tục nhận con luôn (không cần kết hôn). Nếu người cha có quốc tịch Ba Lan, đứa bé sẽ có quốc tịch Ba Lan, nhưng chỉ trong trường hợp người cha làm thủ tục nhận con khi nó chưa đầy 1 tuổi. Quá một năm, đứa trẻ chỉ được nhận quốc tịch của người mẹ.
Khi
đứa bé có quốc tịch Ba Lan, trong trường hợp nó theo
mẹ về Việt Nam sinh sống, nó vẫn luôn có quốc tịch
Ba Lan, thậm chí khi quyển hộ chiếu của nó hết hạn.
Không có chuyện hết hạn hộ chiếu là mất quốc tịch
(Ba Lan). Có thể đến Đại sứ quán Ba Lan để xin hộ
chiếu cho đứa bé tại mọi thời điểm. Lưu ý là mỗi
khi làm hộ chiếu là cần có sự (giấy) đồng ý của
người cha. Giấy ủy quyền thường là viết cho từng
công việc, có giá trị vào từng thời điểm. Không có
giấy ủy quyền nào có giá trị vĩnh viễn (bởi mọi ý
kiến cá nhân luôn có thể thay đổi).
Gần
đây, có nhiều người hỏi về vấn đề còn hay mất
quốc tịch Việt Nam sau tháng 7 tới và có phải ai cũng
phải đi đăng ký (quốc tịch) hay không. Theo cách hiểu
của tác giả thì tất cả những ai đã và đang có quốc
tịch (hộ chiếu) Việt Nam, nếu chưa bị/được Chủ
tịch nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký cho
thôi quốc tịch, sẽ vẫn luôn luôn là công dân Việt
Nam. Gia hạn hay xin hộ chiếu (Việt Nam) mới lại là một
vấn đề hoàn toàn khác, không hề có liên quan gì đến
chuyện còn hay mất quốc tịch.
Chuyện
đăng ký công dân với thời hạn giá trị tháng 07.2014 có
lẽ chỉ liên quan đến những người dân gốc Việt ra đi
khỏi Việt Nam từ trước 1975, khi chính quyền Việt Nam
Cộng hòa còn tồn tại và đã cấp (hay chưa hề cấp) hộ
chiếu cho họ?
Chính
quyền và các cơ quan đại diện ngoại giao Việt Nam cũng
nên đưa ra những thông tin cụ thể, để tránh gặp những
ý kiến là Việt Nam có nhiều bộ luật hay nguyên tắc
khó hiểu, có quá nhiều điều luôn liên quan đến lệ
phí hay là những mục đích kinh tế v.v..., bởi vì ai cũng
biết là chính quyền quốc gia tiến bộ nào cũng luôn
luôn tạo ra những bộ luật hữu ích nhất cho công dân
nước mình. Tại sao thời hạn hay thời điểm sinh sống
(trước 2008/2009, sau 2009 hay sau tháng 07.2014) lại có tính
chất quan trọng như vậy, trong vấn đề có hay (không có)
quốc tịch?
Tóm lại, tốt nhất là mọi người hãy chịu khó đến cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam để hỏi trực tiếp về trường hợp của bản thân, nếu thấy còn nhiều thắc mắc, khó hiểu. Khó mà có được một bài viết chung có hữu ích cho tất cả mọi thành phần. Có điều là không ai muốn có quá nhiều chuyện hành (là) chính khó hiểu!
Tóm lại, tốt nhất là mọi người hãy chịu khó đến cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam để hỏi trực tiếp về trường hợp của bản thân, nếu thấy còn nhiều thắc mắc, khó hiểu. Khó mà có được một bài viết chung có hữu ích cho tất cả mọi thành phần. Có điều là không ai muốn có quá nhiều chuyện hành (là) chính khó hiểu!
3-2014
Ngô Hoàng Minh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét