Không đi con đường lệ thuộc kinh tế vào Trung Quốc
Chiều nay mở hòm thư
email nhận được
bài viết của TS Tô Văn Trường. Xin giới thiệu mọi người cùng vào đọc.
Đầu đề bài viết của anh Trường như ở phần dưới (nguyên văn), còn đầu đề ở
trên là do chủ blog tôi đặt.
Vệ Nhi
----
Trước khi giới thiệu bài viết của mình tác giả có viết ít dòng sau:
Dear All,
Trong
khi Thủ tướng phát biểu dõng dạc công khai về bảo vệ chủ quyền lãnh hải của tổ
quốc thì phát biêủ của ông Bộ trưởng Bộ quốc phòng Phùng Quang Thanh như dội
gáo nước lạnh vào nhiệt tình yêu nước của người dân Việt Nam và có thể còn ảnh
hưởng cả đến mối quan hệ với thế giới còn lại. Tất nhiên, khi phát biểu,
ông Thanh phải theo chỉ đạo của tập thể lãnh đạo cấp cao. Nhưng là người lính
Cụ Hồ, không hiểu ông có tự vấn, nghĩ lại giây phút khi ông thay mặt toàn quân
giơ tay chào vĩnh biệt trước thi hài vị Đại tướng của nhân dân Võ Nguyên Giáp?
Thôi thì tự an ủi, quân sự chưa phải là tất cả vì sự trường
tồn của dân tộc chính là văn hóa. Văn hóa nước Việt còn thì người dân yêu nước
càng không bao giờ thỏa hiệp chấp nhận những lời lẽ quanh co, hèn nhát, bạc
nhược của bất cứ ai.
Chúng ta yêu hòa bình và luôn muốn sống thân thiện, hữu nghị
với nhân dân Trung Quôc. Chúng ta không liên minh với với bất cứ ai để chống
nước thứ ba nhưng khi bị xâm lược thì chúng ta phải có quyền liên minh để tự vệ
chính đáng bảo vệ độc lập chủ quyền của đất nước.
Muốn độc lập về chính trị, trước hết phải tự cường về kinh tế. Nhân đây, mời các Anh/Chị đọc bài viết "Mổ xẻ sự
lệ thuộc về kinh tế từ bài toán về năng lượng"
Kính,
Tô Văn Trường
-----
“MỔ
SẺ” SỰ LỆ THUỘC KINH TẾ TỪ BÀI TOÁN NĂNG LƯỢNG
Tác giả: Tô Văn Trường
Đất nước muốn
phát triển thì phải hợp tác để các bên đều có lợi nhưng muốn độc lập tự chủ thì
không thể phụ thuộc và bị chi phối về chính
trị, kinh tế và văn hóa bởi ngoại bang.
Chênh lệch số liệu báo cáo
Xét về phương
diện kinh tế có thể nói Việt Nam lệ
thuộc đáng kể vào kinh tế Trung Quốc hay nói cách khác Việt Nam chủ yếu chỉ có làm gia
công để nhập hàng từ Trung Quốc. Hàng
hóa nhập từ Trung Quốc tăng mạnh vì phải
nhập nguyên vật liệu cho sản xuất (phân bón, thức ăn gia súc, vải, kim chỉ, hóa
chất, hàng điện tử) để phục vụ nông nghiệp và làm hàng sản xuất xuất khẩu cũng
như máy móc và phụ tùng cho máy móc cho các nhà máy.
Xem xét số liệu năm
2012 là năm có đầy đủ số liệu của cả hai phía, ta thấy như sau:
Xuất nhập khẩu hàng hóa giữa VN và
Trung Quốc, 2012, tỷ US
Báo cáo của VN
|
Báo cáo của TQ
|
|
Nhập từ TQ
|
$28.8
|
$34.0
|
Xuất sang TQ
|
$12.8
|
$16.2
|
Tỷ lệ nhập từ TQ so với tổng nhập
|
25.4%
|
30.0%
|
Tỷ lệ xuất sang TQ so với tổng xuất
|
11.2%
|
14.1%
|
Nguồn: Comtrade, UNSD
Số liệu trong bảng
trên còn cho thấy: chỉ riêng năm 2012,
hàng Việt Nam nhập lậu từ Trung Quốc tới 5,2 tỷ U$, và xuất lậu sang Trung Quốc
3,4 tỷ U$. Như vậy, hàng năm ngân sách nhà nước đã bị thất thu tới 17% tiền thuế
tương ứng của 8,6 tỷ U$ hàng lậu qua biên giới mà Hải quan Việt Nam không kiểm
soát được (hay có kiểm soát được nhưng đã “bỏ túi” tiền thuế không khai báo
này)!?.
Đặc biệt, trong lĩnh
vực xuất khẩu khoáng sản từ Việt Nam sang Trung Quốc chênh lệch số liệu giữa Hải quan Trung Quốc
và Hải quan Việt Nam rất lớn. Số liệu của hải quan Trung Quốc tin cậy hơn và
chính xác hơn (vì các doanh nghiệp nhập khẩu hay xuất khẩu đều khai báo đúng để
hưởng chính sách khuyến khích của nhà nước Trung Quốc), còn số liệu của Hải
quan Việt Nam thường thấp hơn nhiều (vì nhiều doanh nghiệp thường móc ngoặc với
Hải quan để khai báo thấp xuống nhằm trốn
thuế). Thực trạng này đã diễn ra từ lâu và vẫn đang tiếp diễn. Chỉ riêng trong lĩnh vực xuất khẩu than, hàng
năm có tới 5-10 triệu tấn than được xuất lậu sang Trung Quốc (số liệu công bố nhập của Trung Quốc bao giờ
cũng cao hơn 5-10 triệu tấn /năm so với số liệu công bố xuất của TKV). Mỗi tấn
than có giá thành bình quân là 60U$/tấn. Như vậy, chỉ riêng việc xuất lậu than
đã làm thiệt hại cho Nhà nước 300-600 triệu U$/năm.
Năng lượng phụ thuộc vào Trung Quốc
Trước đây, 6 tỉnh
phía Bắc phải mua điện của Trung Quốc, với giá cao hơn giá mua của các dự án điện
trong nước và cũng cao hơn nhiều giá
bán cho dân. Nhiều dự án đang và sắp triển khai do Trung Quốc thực hiện, EVN
cũng đang yêu cầu các đơn vị báo cáo để thống kê lại.
Trong các năm gần
đây, tình trạng chung trong lĩnh vực năng lượng điện là: TKV xuất khẩu than với
giá rẻ cho Trung Quốc để Trung Quốc dùng than phát điện và bán điện đắt cho EVN.
Theo Ngân hàng thế
giới (WB) năm 2014 Việt Nam có kế hoạch nhập khoảng 2,5 tỷ kwh từ Trung
Quốc, lượng điện nhập khẩu chiếm 2,6% so
với tổng nhu cầu điện tiêu thụ ở trong nước.
Về giá trị quy ra tiền còn nhỏ so với ngay cả nhập quần áo phụ
nữ nhưng vấn đề ở bài toán năng lượng không chỉ nhập điện mà
nhiều dự án nhiệt điện do Trung Quốc đầu tư đã và đang triển khai rộng khắp ở Việt Nam.
Lĩnh vực năng lượng nói chung và ngành điện lực nói riêng
còn phụ thuộc khá nhiều vào Trung Quốc. Đất nước Việt Nam còn nghèo, các chủ đầu tư
cho ngành điện cũng nghèo. Các chủ đầu tư chỉ mong muốn bỏ tiền đầu tư ít nhưng
đem lại lợi nhuận nhiều và hoàn vốn nhanh. Các dự án thủy điện vừa và nhỏ do
các nhà đầu tư triển khai thường chọn thiết bị Trung Quốc cho rẻ tiền.
Các dự án nhiệt điện chạy than lớn của Việt Nam cũng chủ yếu sử dụng thiết bị có nguồn gốc chế
tạo tại Trung Quốc rẻ hơn nhiều so với thiết bị được chế tạo tại các nước
G7/G8. Kể cả các thiết bị của các hãng của G7 (do G7 thiết kế nhưng được G7 tổ
chức chế tạo tại Trung Quốc ) thì chất lượng cũng rất thấp do Tiêu chuẩn chế tạo
của Trung Quốc rất thấp. Vì vậy, mặc dù vốn đầu tư (mua sắm thiết bị) có giảm,
nhưng chi phí vận hành và chi phí sửa chữa cũng rất cao. Kết quả cuối cùng thì
hiệu quả của các dự án điện sử dụng thiết bị chế tạo tại Trung Quốc còn thấp
hơn so với các dự án dùng thiết bị “xịn” của G7.
Thiết nghĩ một ngày đẹp trời nào đó Trung Quốc "nghỉ
chơi" với Việt Nam thì có thể các thiết bị Trung Quốc trong hệ thống điện
đồng loạt ngừng hoạt động (máy tính laptop Trung Quốc còn gài chip thì thiết bị
điện có ai đảm bảo rằng họ không gài chip vào hệ thống điều khiển chính?) thì Việt
Nam sẽ thiếu điện trầm trọng. Phụ tùng thủy điện
ta có thể chế tạo được nhưng nhiệt điện thì phức tạp hơn nhiều và cũng nhiều loại
khác nhau.
Những năm gần đây, Trung Quốc đã viện trợ ở hầu khắp các
ngành công nghiệp, năng lượng của Việt Nam, vốn vay ưu đãi lãi suất thấp từ
Trung Quốc đang đóng vai trò rất quan trọng, chủ yếu là từ đầu mối Ngân hàng Xuất
nhập khẩu Trung Quốc (China Eximbank). Đơn cử như ở ngành điện, tính đến
năm 2011, trong tổng số 9 dự án nhiệt điện do Tập đoàn Than - Khoáng sản làm chủ
đầu tư, hiện
có 4 dự án vay vốn tín dụng xuất khẩu hoặc ODA của Trung Quốc. Trung
bình mỗi dự án điện công suất 300MW trở lên của Việt Nam có tổng vốn
đầu tư trên 500 triệu USD. Nếu dự án vay từ China Eximbank thì nguồn
vốn này thường chiếm khoảng 85% tổng vốn đầu tư. Như vậy, ước tính,
tổng vốn vay của Trung Quốc chỉ riêng cho ngành điện Việt Nam đã là
con số hàng tỷ USD. Ví dụ như các dự án nhiệt điện Cao Ngạn, Sơn Động, Cẩm Phả, Mạo Khê đều chủ yếu vay tín dụng xuất khẩu của ngân hàng China Eximbank. Dự án có tổng vốn đầu tư ít nhất cũng hơn 3.500 tỷ đồng vv...
có 4 dự án vay vốn tín dụng xuất khẩu hoặc ODA của Trung Quốc. Trung
bình mỗi dự án điện công suất 300MW trở lên của Việt Nam có tổng vốn
đầu tư trên 500 triệu USD. Nếu dự án vay từ China Eximbank thì nguồn
vốn này thường chiếm khoảng 85% tổng vốn đầu tư. Như vậy, ước tính,
tổng vốn vay của Trung Quốc chỉ riêng cho ngành điện Việt Nam đã là
con số hàng tỷ USD. Ví dụ như các dự án nhiệt điện Cao Ngạn, Sơn Động, Cẩm Phả, Mạo Khê đều chủ yếu vay tín dụng xuất khẩu của ngân hàng China Eximbank. Dự án có tổng vốn đầu tư ít nhất cũng hơn 3.500 tỷ đồng vv...
Chiến lược đầu tư “lắc léo” của Trung Quốc
Với chiến lược của
các nhà thầu Trung Quốc là giá. Họ trúng thầu tương đối nhiều . Việc lập hồ sơ
mời thầu của các kỹ sư Việt Nam chưa chuyên nghiệp, còn non, chưa ràng buộc
được mọi tình huống nên dễ bị nhà thầu chuyên nghiệp "xỏ mũi".
Trong khi đó, các nhà
thầu Trung Quốc khi tham gia dự thầu,
ban đầu trong Hồ sơ dự thầu họ thường chấp nhận tất cả các vấn đề nêu trong Hồ
sơ mời thầu của Việt Nam nhưng sau khi đã được chấp nhận trúng thầu, các nhà
thầu Trung Quốc chỉ thực hiện theo ý mình, ép chủ đầu tư phải chấp nhận những
“tiêu chuẩn” chất lượng của họ (thường thấp hơn và rẻ tiền hơn so với thiết kế
của chủ đầu tư nêu trong Hồ sơ mời thầu). Ở các dự án nhiệt điện Hải Phòng hay
nhiệt điện Quảng Ninh (của EVN), khi phát hiện nhà thầu Trung Quốc đưa sang các
thiết bị/vật tư kém chất lượng, không đúng thiết kế, chủ đầu tư không cho lắp
nhưng nhà thầu cứ lắp, thậm chí nhà thầu còn không cho chủ đầu tư được vào kiểm
tra trong hàng rào nhà máy, hay lắp vào lúc chủ đầu tư “ngủ”!.
Hơn nữa, theo dư luận
thì nhà thầu Trung Quốc đi "cửa sau" rất giỏi và rất chuyên nghiệp. Đến khi dự án
đi vào triển khai, chủ đầu tư Việt Nam sẽ phải chấp nhận các thiết bị kém chất
lượng, với duy nhất 1 tờ giấy với tiêu đề “QUALITY CERTIFICATE”, gọi là
phiếu chất lượng để “che mặt’!
Trung
Quốc là chủ thầu gần 10 dự án nhiệt điện chạy than của ta, với cam kết vay ODA
lãi xuất thấp. Tuy nhiên, sau đó lại điều chỉnh nâng giá và đặc biệt là chất
lượng thấp và không đảm bảo tiến độ. Việc cắt các dự án nhiệt điện chạy than
của Trung Quốc chắc sẽ gây thiếu điện cho một số ngành sản xuất. Vì vậy,
ta phải cố bù một phần bằng cách đẩy nhanh tiến độ các dự án nhiệt điện chạy
khí, phải đẩy mạnh chương trình tiết kiệm năng lượng và giảm thiểu tiêu dùng.
Việc
sử dụng ODA của Trung Quốc có nhiều rủi ro vì chủ đầu tư không kiểm soát được
tỷ giá của đồng nhân dân tệ so với U$, không kiểm soát được việc thanh toán
theo tiến độ (thường phía Trung Quốc yêu cầu ngân hàng Trung Quốc thanh toán
ngay khi đưa thiết bị sang, bất chấp thiết bị đó có được chủ đầu tư chấp nhận
hay không), không phạt được nhà thầu nếu nhà thầu vi phạm (về chất lượng và về
tiến độ), và cuối cùng, do sử dụng ODA của Trung Quốc nên nhà thầu thường đưa
ra yêu sách là phải làm theo cách của Trung Quốc (bất chấp Hồ sơ mời thầu và
thiết kế của chủ đầu tư).
Thay cho lời kết
Để giảm dần sự lệ thuộc năng lượng từ Trung Quốc về thiết bị
điện cần có kế hoạch chủ động tìm các đối tác khác thay thế. Về cơ bản, cần xây
dựng Luật Đấu thầu và các nghị định hướng dẫn thực hiện
Luật đấu thầu đủ mạnh, chặt chẽ để có thể loại các nhà thầu Trung Quốc bỏ thầu
giá rẻ, kém chất lượng, hậu quả đã nhãn tiền. Cần xây dựng thể chế cạnh tranh
lành mạnh về nguồn điện, tránh độc quyền.
Sự lệ thuộc kinh tế của Việt Nam với Trung Quốc không còn phải
bàn cãi nhất là về chất lượng hàng hóa mà Việt Nam nhập từ Trung Quốc cũng như
các hợp đồng thầu dự án mà Trung Quốc nhận từ Việt Nam với những "lắc
léo" thấy rõ lợi bất cập hại. Do đó, việc thoát khỏi quỹ đạo của Trung Quốc
lúc nầy là cơ hội để nền kinh tế Việt Nam phát triển đúng đường, đúng hướng,
song hành với việc độc lập, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng của tổ quốc
Việt Nam.
TVT
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét