"Nhìn lại Xung Đột Việt-Trung" là tên bài viết giới thiệu ở phần dưới đây đã xuất hiện lần đầu tiên trên trang mạng viet-studies.info (trang của GS Trần Hữu Dũng) vài ngày trước. Sau đó nhiều trang Web và Blog khác, cả trong và ngoài nước, đưa lại...
Khi mới đọc ở trang THD thì cái tên tác giả Nguyễn Quang Dy khiến tôi hơi ngờ ngợ chút. Nhất là dưới bài viết ghi rõ Nguyễn Quang Dy, có thời gian học ở Harvard (Nguyen Quang Dy is a Harvard Nieman Fellow, 1993) thì đúng là Dy bạn bè, là chỗ thân tình giao du từ rất lâu nay, thậm chí có những năm chúng tôi cùng một cơ quan đơn vị với nhau trong BNG.
Trên đây nói ngờ ngợ vì tuy chơi với nhau lâu nhưng thú thật ít khi tôi thấy Nguyễn Quang Dy xuất hiện với tư cách một người viết, một tác giả - dù anh có nhiều năm làm việc ở Trung tâm dịch vụ báo chí nước ngoài thuộc BNG, tức là nơi cộng tác với nhiều cây bút có hạng của báo chí thế giới, nhất là báo chí phát triển của Mỹ và các nước phương Tây. Thường chỉ thấy Nguyễn Quang Dy dùng khả năng ngoại ngữ khá “siêu” là tiếng Anh của mình để làm những công việc khác mà anh thích. Sự giao dịch, quan hệ của anh rất rộng, nên nhiều lúc bạn bè nhìn nhận anh như thể một lãng tử, hơi bị ngao du rong chơi nữa...
Chính vì thế khi đọc xong bài viết rất có giá trị này tôi đã gọi điện ngay cho Nguyễn Quang Dy với ý muốn check lại thông tin về tác giả “có phải là ông không đấy” cho lòng yên tâm khi đăng lại trên blog này. Gọi điện từ Sài Gòn những tưởng anh đang ở Hà Nội, song "bất ngờ" cú điện thoại này đã kết nối với nước Úc khi anh đang có công việc gì kia tại đó. Tôi chú tâm hỏi ngay về bài viết; và Nguyễn Quang Dy xác nhận đúng vậy. Anh chỉ hỏi lại tôi bài của anh "chỉ gửi cho ban tổ chức hội thảo", và sau đó đồng ý để trang Trần Hữu Dũng (viet-studies.info) đăng, mà sao nay nhiều báo mạng khác đăng tải như tôi vừa thông tin đến anh như thế ? Tôi đùa lại Nguyễn Quang Dy, thế ông "ở trên mây à", bởi một khi bài xuất hiện bất cứ ở đâu mà trên internet người ta biết tới là tùy chất lượng bài, độ thông tin và vấn đề mà bài viết đề cập..., các bài đó sẽ tùy theo mức độ mà nhân lên ra nhiều trang mạng khác.
Rồi tôi đùa một câu “chuẩn bị về nước mà nhận rất nhiều tiền nhuận bút, nhé”. Đùa ông bạn thôi chứ chả có một đồng cắc nào cả đâu. Và tôi không quên xin phép tác giả Nguyễn Quang Dy đăng lại trên trang blog này. (TÔN TRỌNG NỘI DUNG CÙNG CÁCH DIỄN ĐẠT CỦA TÁC GIẢ, XIN ĐĂNG TẢI NGUYÊN VĂN).
Về bài viết, tôi nghĩ đây là bài mà chúng ta nên nán lại đọc cho kỳ hết dù nó "hơi dài" (đối với những người lên mạng đọc thông tin, tìm tới những nhận định ngắn gọn về các vấn đề, sự kiện... là chính). Nhưng tôi nói lại, đây là bài viết sẽ "bõ công đọc". Nói thêm là bài dài bởi đây là một bản tham luận mà khi viết tác giả biết chắc không có mặt tại hội thảo nên cũng muốn nói hết "trong chữ nghĩa" vì sẽ không có dịp nói hoặc trao đổi gì thêm với cử tọa, với ban tổ chức được nữa.
Cũng nên thông tin thêm về hội thảo này. Được biết đây là cuộc Hội thảo Mùa Hè rất có uy tín được tổ chức hằng năm, trải suốt từ năm 1998 đến nay của một nhóm trí thức người Việt ở nước ngoài. (* xin xem thêm thông tin về HỘI THẢO MÙA HÈ do chủ blog sưu tầm được chú thích ở phần dưới đây).
Đến đây xin dừng kẻo dài dòng; và xin mời bà con cùng bạn bè khắp nơi tiếp cận ngay với bài viết đang hot trên mạng... của tác giả - nhà ngoại giao Nguyễn Quang Dy.
.
.
Vệ Nhi
-----
* HỘI THẢO MÙA HÈ
Những người tổ chức, gồm: Lê Văn Cường, Trần Hữu Dũng, Giáp Văn Dương, Nguyễn Ngọc Giao, Trần Hải Hạc, Trần Quốc Hùng, Đỗ Tuyết Khanh, Thái Kim Lan, Ngô Vĩnh Long, Trịnh Văn Thảo, Nguyễn Minh Thọ, Trần Văn Thọ, Hà Dương Tường, Cao Huy Thuần, Vũ Quang Việt.
Các chủ đề cho từng hội thảo:
Sự trỗi dậy của Trung Quốc và ảnh hưởng của nó
đối với Việt Nam và thế giới
Toulouse, Pháp
31-7 & 1-8, 2014
Cải cách ở Việt Nam đang đi về đâu?
Singapore
12-13 tháng 8, 2013
Việt Nam và các nước ASEAN trước thử thách
Singapore
20-21 tháng 8, 2011
Tranh chấp Biển Đông Nam Á và vấn đề an ninh con người
Philadelphia, Mỹ
29-31 tháng 7, 2010
Nhìn lại Việt Nam năm 2008
Paris, Pháp
26-28 tháng 8, 2009
Trách nhiệm xã hội, ổn định và phát triển
Nha Trang, Việt Nam
29-31 tháng 7, 2008
Phát triển trong thế giới đa cực
Nantes, Pháp
23-24 tháng 7, 2007
Dân chủ và phát triển
Berkeley, California
28-29 tháng 7, 2006
Tiếp tục đổi mới kinh tế và xã hội để phát triển
Đà Nẵng, Việt Nam
28-30 tháng 7, 2005
Các yếu tố thúc đẩy và kìm hãm phát triển
New York City 23-24 tháng 7, 2004
Việt Nam: Sau 11 tháng 9
Munich 24-26 tháng 7, 2003
Toàn Cầu Hoá và Các Vấn Đề Con Người Việt Nam
Maine 26-28 tháng 7, 2002
Việt Nam: Các Vấn Đề Văn Hoá Xã Hội Trong Giai Đoạn Hội Nhập
Aix-en-Provence 20-21 tháng 7, 2001
Việt Nam và Vấn Đề Toàn Cầu Hoá
New York City 8-9 tháng 7, 2000
Việt Nam: Định Chế Xã Hội và Phát Triển
Lìege 7-8 tháng 8, 1999
Vấn Đề Tranh Chấp Biển Đông
New York City 15-16 tháng 8, 1998
Những người tổ chức, gồm: Lê Văn Cường, Trần Hữu Dũng, Giáp Văn Dương, Nguyễn Ngọc Giao, Trần Hải Hạc, Trần Quốc Hùng, Đỗ Tuyết Khanh, Thái Kim Lan, Ngô Vĩnh Long, Trịnh Văn Thảo, Nguyễn Minh Thọ, Trần Văn Thọ, Hà Dương Tường, Cao Huy Thuần, Vũ Quang Việt.
Các chủ đề cho từng hội thảo:
Sự trỗi dậy của Trung Quốc và ảnh hưởng của nó
đối với Việt Nam và thế giới
Toulouse, Pháp
31-7 & 1-8, 2014
Cải cách ở Việt Nam đang đi về đâu?
Singapore
12-13 tháng 8, 2013
Việt Nam và các nước ASEAN trước thử thách
Singapore
20-21 tháng 8, 2011
Tranh chấp Biển Đông Nam Á và vấn đề an ninh con người
Philadelphia, Mỹ
29-31 tháng 7, 2010
Nhìn lại Việt Nam năm 2008
Paris, Pháp
26-28 tháng 8, 2009
Trách nhiệm xã hội, ổn định và phát triển
Nha Trang, Việt Nam
29-31 tháng 7, 2008
Phát triển trong thế giới đa cực
Nantes, Pháp
23-24 tháng 7, 2007
Dân chủ và phát triển
Berkeley, California
28-29 tháng 7, 2006
Tiếp tục đổi mới kinh tế và xã hội để phát triển
Đà Nẵng, Việt Nam
28-30 tháng 7, 2005
Các yếu tố thúc đẩy và kìm hãm phát triển
New York City 23-24 tháng 7, 2004
Việt Nam: Sau 11 tháng 9
Munich 24-26 tháng 7, 2003
Toàn Cầu Hoá và Các Vấn Đề Con Người Việt Nam
Maine 26-28 tháng 7, 2002
Việt Nam: Các Vấn Đề Văn Hoá Xã Hội Trong Giai Đoạn Hội Nhập
Aix-en-Provence 20-21 tháng 7, 2001
Việt Nam và Vấn Đề Toàn Cầu Hoá
New York City 8-9 tháng 7, 2000
Việt Nam: Định Chế Xã Hội và Phát Triển
Lìege 7-8 tháng 8, 1999
Vấn Đề Tranh Chấp Biển Đông
New York City 15-16 tháng 8, 1998
(năm 2012 không tổ chức)
-----
-----
Nhìn lại Xung Đột Việt-Trung
Nguyễn Quang Dy
Tháng
5/2014, Hà Nội nóng bỏng bất thường ngay đầu hè. Rõ ràng Trung Quốc góp phần
làm cho trái đất nóng lên. Đặc biệt Biển Đông càng nóng bỏng hơn. Trung Quốc
đăt dàn khoan khổng lồ HD 981 taị vùng biển của Việt Nam từ đầu tháng 5 để
tranh cướp chủ quyền, thổi bùng lên làn sóng chống Trung Quốc ở Việt Nam và
khắp khu vực.
Nghịch lý yêu-ghét trong lịch sử
quan hệ Việt-Trung đầy bi kịch thường dẫn đến xung đột lợi ích quốc gia, kể
cả chiến tranh. Năm 1979 Trung Quốc đã xâm lược Việt Nam trong cuộc chiến
biên giới đẫm máu, sau ba thập kỷ gắn bó như “môi với răng” vì cùng chung ý thức
hệ. Liệu lịch sử có lặp lại lần nữa tại Biển Đông? Nước cờ tiếp theo của
Trung Quốc là gì? Liệu Trung Quốc có xô đẩy Việt Nam vào vòng tay người Mỹ,
giống như vào vòng tay người Nga năm 1979? Việt Nam phải làm gì để có thể
sống yên ổn bên cạnh người láng giềng khổng lồ?
Tàu TQ tấn công bằng "vòi rồng" vào tàu kiểm ngư VN
Bối cảnh
lịch sử
Không có
bạn thù vĩnh viễn, chỉ có lơi ích vĩnh viễn
Napoleon
Bonaparte đã từng nói, “Trung Quốc là gã khổng lồ đang ngủ. Hãy để cho nó ngủ
yên, vì khi thức dậy nó sẽ làm đảo lộn thế giới”. Người Mỹ đã không nghe lời
khuyên đó. Họ đã giúp gã khổng lồ trỗi dậy bằng chính sách “can dự xây dựng”.
Nhưng họ đã đi quá đà nên bây giờ bắt đầu ân hận, phải tìm cách ngăn chặn sự
trỗi dậy hung hăng của nó. Kế hoạch “xoay trục” và TPP (Tran-Pacific
Partnership) để “tái cân bằng” sự trỗi dậy của Trung Quốc làm ta nhớ lại thập
niên 1950 và 1960 khi Mỹ dùng SEATO (South East Asia Treaty Organization) để
ngăn chặn nguy cơ Trung Cộng. Hình như lịch sử đang lặp lại, nhưng với trò
chơi mới và luật chơi mới.
Ông
Kissinger được ghi nhận là kiến trúc sư của Chính sách Trung Quốc, đã có công
giúp Trung Quốc trỗi dậy, theo tầm nhìn của ông ta về một trật tự thế giới
trong đó Trung Quốc liên minh với Mỹ để chống Liên Xô. Ông ta đã bí mật dàn
xếp với người Trung Quốc để đưa Tổng thống Nixon sang Trung Quốc bắt tay Mao
Chủ tịch và ký Thông cáo chung Thượng Hải (năm 1972). Theo thỏa thuận, Mỹ sẽ
bỏ rơi Nam Việt Nam, thỏa hiệp về chủ quyền Đài Loan, hợp tác giúp Trung Quốc
thực hiện “bốn hiện đại hóa”, đánh đổi lấy việc Mỹ sẽ rút quân dần khỏi Nam
Viêt Nam “trong danh dự”, và lập một liên minh “trên thực tế” chống Liên Xô.
Sau đó ông
Brzezinski (Cố vấn An ninh Quốc gia của Tổng thống Carter) đã tiếp tục Chính
sách Trung Quốc bằng thỏa thuận ngầm với ông Đặng Tiểu Bình để Trung Quốc xâm
lược Việt Nam (1979) và ngầm ủng hộ Khmer Đỏ trong chính phủ liên hiệp ở
Campuchea. Việt Nam đã trở thành con tốt trong ván bài nước lớn bất lương
này, bị xô đẩy vào vòng tay người Nga (1978-1979). Như vậy người Trung Quốc
phải mang ơn ông Kissinger về cơ hội trỗi dậy, với sự ủng hộ của ông ta và
“China Lobby”. Có điều ông Kissinger không biết (hoặc không quan tâm) liệu
Trung Quốc có giữ lời hứa sẽ trỗi dậy “trong hòa bình” và không “động tới
quyền lợi của Mỹ” và đồng minh của Mỹ ở Đông Á hay không.
Có lẽ người
Mỹ đã hơi ngây thơ hoặc ảo tưởng và ngộ nhận về sự trỗi dậy hòa bình của
Trung Quốc mà không tính kỹ những nguy cơ tiềm ẩn. Việc Trung Quốc sẽ trở mặt
bắt nạt các nước láng giềng và thách thức Mỹ chỉ là vấn đề thời gian. Ngay cả
khi người Mỹ đã “xoay trục” sang Đông Á để ngăn chặn nguy cơ Trung Quốc,
dường như họ vẫn chưa thoát ra khỏi cái bóng của ông Kisinger. Những gì đang
diễn ra là quá ít và quá muộn để răn đe Trung Quốc và bảo vệ quyền lợi của Mỹ
cũng như đồng minh ở khu vực. Người Nhật bây giờ mới tỉnh ngộ và đang vội vã
sửa lại hiến pháp để đối phó với Trung Quốc, trong khi các nước khác ở khu
vực (như ASEAN) thì hoang mang, bối rối, và bị Trung Quốc phân hóa.
Năm 1979,
Trung Quốc xâm lược Việt Nam để “dạy một bài học”, sau khi Việt Nam xâm lược
Campuchea để đánh Khmer Đỏ là đồng minh của Trung Quốc. Thực chất, Trung Quốc
đánh Việt Nam chủ yếu là để gây ấn tượng với người Mỹ rằng Trung Quốc là một
đối tác tin cậy trong liên minh chống Liên-Xô và Việt Nam. Đối với ông Đặng
Tiểu Bình, sự hỗ trợ của Mỹ để thực hiện “bốn hiện đại hóa” mới là mục tiêu
chính để giúp Trung Quốc trỗi dậy. Mọi chuyện khác đều là thứ yếu, chỉ là
phương tiện. Đối với lãnh đạo Việt Nam, Trung Quốc trở thành “kẻ thù trực
tiếp và nguy hiểm”, nên phải liên minh với Liên Xô để chống Trung Quốc.
Phải mất
hơn một thập kỷ Việt Nam mới bình thường hóa được quan hệ với Trung Quốc, sau
cuộc gặp cấp cao bí mật tại Thành Đô (9/1990) với phương châm “16 chữ vàng”
(láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương
lai). Điều này đã diễn ra đúng như lời tiên đoán trước đây của ông Đặng Tiểu
Bình là Việt Nam sẽ phải quay đầu lại với Trung Quốc. Lý do chính Việt Nam
phải quay lại là bức tường Berlin và chủ nghĩa cộng sản đã xụp đổ, cùng với
sự tan rã của Liên Xô. Lãnh đạo Việt Nam đã hoảng hốt lo mất chính quyền, nên
vội vã làm lành với lãnh đạo Trung Quốc bằng mọi giá, dù phải hy sinh lợi ích
quốc gia sống còn, để cứu vãn một ý thức hệ và thể chế chính trị đã lỗi thời.
Thỏa thuận
Thành Đô là một sai lầm chiến lược to lớn và một bước ngoặt bất hạnh cho Việt
Nam, làm cố ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch phải cay đắng nhận xét, “một thời kỳ
bắc thuộc mới đầy nguy hiểm đã bắt đầu”. Lãnh đạo Viêt Nam đã dại dột chui
vào bẫy ý thức hệ của Trung Quốc, trở thành con tin để họ thao túng, đến tận
bây giờ. Suốt hai thập kỷ tiếp theo, các thế hệ lãnh đạo Việt Nam đã buộc
phải theo cam kết Thành Đô, như con tin mắc bẫy, với cái giá phải trả ngày
càng cao. Qua nhiều năm, Trung Quốc đã lặng lẽ cài cắm một mạng lưới sâu rộng
gồm tay sai và người ủng hộ họ trong nội bộ Việt Nam, từ trung ương đến các
địa phương, để tác động vào các quyết sách quan trọng, không chỉ liên quan
đến các vấn đề kinh tế và chính trị, mà còn cả quân sự và an ninh. Bản chất
quan hệ Viêt-Trung bất bình đẳng, dựa trên lòng trung thành mù quáng về ý
thức hệ, là nguyên nhân chính đã kìm hãm cải cách kinh tế và ngăn cản đổi mới
chính trị ở Viêt Nam trong suốt hai thập kỷ qua.
Nay một
bước ngoặt mới lại xuất hiện khi Trung Quốc đột nhiên kéo dàn khoan khổng lồ
HD 981 đặt tại vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam ở Biển Đông từ đầu tháng
5, làm lãnh đạo Việt Nam bất ngờ, choáng váng, làm xụp đổ ảo tưởng của họ khi
Trung Quốc đã công khai trở mặt, vứt bỏ “16 chữ vàng”. Dàn khoan HD 981 không
phải chỉ để khoan dầu, mà còn để khẳng định chủ quyền tại vùng biển tranh
chấp mà Trung Quốc đơn phương tuyên bố là “lợi ích cốt lõi” của mình. Thực tế
dàn khoan HD 981 là một loại “vũ khí dân sự” để cưỡng đoạt chủ quyền, còn
hiệu quả hơn cả hàng không mẫu hạm “Liêu Ninh”. Trung Quôc không bỏ lỡ cơ hội
Mỹ và các nước NATO đang bận đối phó với Nga về vấn đề Ukraine, để tăng cường
hợp tác với Nga vì nhu cầu năng lượng lẫn địa chính trị. Họ học ngay bài học
Nga chiếm Crimea như một chuyện đã rồi, để lấn chiếm Biển Đông bằng dàn khoan
khổng lồ HD 981, nhằm thử phản ứng của Viêt Nam, ASEAN, Mỹ và các nước khác,
chuẩn bị cho nước cờ tiếp theo.
Tình hình
quốc nội
Con hổ mới
đã biến thành con mèo ốm yếu
Trong khi
Trung Quốc trỗi dậy, trở thành cường quốc kinh tế thứ hai thế giới, thì Việt
Nam lại tụt hậu, không cất cánh lên được. Các tổng công ty lớn của nhà nước
theo “định hướng XHCN” là trụ cột nền kinh tế, nhưng đã thua lỗ nặng và trở
thành những con nợ khổng lồ. Thành quả cải cách kinh tế gần hai thập kỷ đầy
ấn tượng nay đã tan thành mây khói, vì nạn tham nhũng, quản lý tồi, và bị các
nhóm lợi ích thao túng trong một cơ chế thân hữu. Các nhóm lợi ích tham lam
chiếm đất của nông dân làm dự án, câu kết với quan tham và xã hội đen đàn áp
dân nghèo, gây nên một làn sóng bất bình khắp nơi, có nguy cơ làm bất ổn định
xã hội. Nhiều công nhân tại các doanh nghiệp FDI ở các khu công nghiệp biểu
tình đòi tăng lương và cải thiện điều kiện sống, nhưng không được giới chủ
đáp ứng tích cực nên đầy bức xúc, dễ bị kẻ xấu lợi dụng kích động gây rối,
như các vụ bạo động chống Trung Quốc gần đây đã chứng minh.
Thất bại
kinh tế và bất ổn xã hội đã thúc đẩy nhanh khủng hoảng chính trị và lãnh đạo.
Các phe phái cầm quyền tranh giành quyền lực ngày càng quyết liệt, làm phân
hóa nội bộ lãnh đạo và tê liệt năng lực quản trị đất nước, tới mức khủng
hoảng. Đấu tranh quyền lực quyết liệt giữa phe chính phủ do Thủ tướng đứng
đầu với phe đảng do Tổng Bí thư đứng đầu, đã diễn ra tại hầu hết các hội nghị
trung ương trong năm 2013, cho tới khi tạm thời lắng xuống vào cuối năm do
không phân thắng bại phải hòa hoãn. Nay sự kiện dàn khoan HD 981 và khủng
hoảng trong quan hệ Việt-Trung đã làm gia tăng tranh giành quyền lực, có lợi
thế cho Thủ tướng (lên tiếng chống Trung Quốc, nên được dân ủng hộ) và bất
lợi cho Tổng Bí thư (im hơi lặng tiếng, nên mất lòng dân). Tuy Việt Nam có cơ
hội để thay đổi cơ bản, nhưng lãnh đạo lại chia rẽ vì xung đột lợi ích trước
sự đe dọa của Trung Quốc.
Gần bốn
thập kỷ sau chiến tranh Việt Nam, trong khi người Việt và người Mỹ về cơ bản
đã hòa giải xong, thì cộng đồng người Việt trong nước và ngoài nước vẫn chưa
hòa giải được. Nội chiến thường để lại những vết thương tâm lý và tinh thần
sâu nặng hơn. Chừng nào trong lòng còn hận thù và thành kiến, thì không những
khó hòa giải, mà còn dễ làm phân hóa cuộc đấu tranh chung cho tự do dân chủ
và chủ quyền quốc gia. Những người cộng sản cực đoan là những người độc tài,
nhưng những người chống cộng cực đoan cũng chẳng khác gì. Vì vậy, chủ nghĩa
cực đoan là kẻ thù tiềm ẩn của hòa giải dân tộc và chấn hưng quốc gia.
Tình hình
quốc tế
Con sói cô
độc
Việt Nam
tuyên bố chính sách đa phương hóa quan hệ và có “đối tác chiến lược” với hơn
10 nước (nhưng chưa có Mỹ). Lúc này, chẳng đối tác chiến lược nào (ngoài Mỹ)
có thể giúp Viêt Nam răn đe Trung Quốc để tránh bị bắt nạt. Trước hành động
xâm chiếm của Trung Quốc tại Biển Đông, chính phủ nhiều nước tuy bất bình,
nhưng không dám công khai ủng hộ Viêt Nam sợ làm mất lòng Trung Quốc. Năm
1979, khi bị Trung Quốc tấn công, Việt Nam có hiệp ước liên minh quân sự với
Liên-Xô để răn đe Trung Quốc. Nhưng hiện nay Việt Nam hoàn toàn cô độc, không
có liên minh quân sự với một nước nào (khác với quan hệ của Mỹ với Nhật, Hàn
Quốc, và Philippines). Viêt Nam đã cố giữ cân bằng quan hệ với Trung Quốc và
Mỹ bằng chính sách “Ba Không”: không tham gia liên minh quân sự với nước nào,
không cho nước nào đặt căn cứ quân sự, và không dựa vào nước này để chống
nước kia. Nếu Việt Nam không thay đổi chính sách cân bằng thụ động này, thì
làm sao tự bảo vệ được mình? Viet Nam đang đối mặt với một cuộc khủng hoảng
kép: vừa thất bại về kinh tế vừa bị Trung Quốc đe dọa chủ quyền.
Chính sách
“xoay trục” của Mỹ sang Đông Á chưa có hiệu lực răn đe Trung Quốc. Bằng việc
đưa dàn khoan HD 981 đến Biển Đông, Trung Quốc đã qua mặt Mỹ, ngay sau khi
Tổng thống Obama đến thăm Đông Á. Phản ứng của Mỹ đối với Trung Quốc chưa đủ
mạnh, vì Việt Nam khác với Philippines. Quan hệ “đối tác toàn diện” với Mỹ
phải nâng lên thành “đối tác chiến lược”, bao gồm bán vũ khí sát thương, tập
trận chung, và sử dụng căn cứ quân sự tại Cam Ranh (như Philippines và
Singapore đã làm với Mỹ). Nhưng thể chế chính trị độc tài của Viêt Nam, với
hồ sơ nhân quyền xấu vì đàn áp tự do dân chủ, là trở ngại chính đối với việc
nâng cấp quan hệ với Mỹ. Viêt Nam cũng khó hòa nhập sâu hơn vào thị trường
thế giới (WTO và TPP) vì vẫn bám giữ “định hướng XHCN” và chậm chuyển đổi hẳn
sang kinh tế trị trường.
Phản ứng
của ASEAN đối với sự kiện HD 981 cũng khá yếu. Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN
(10/5/2014 tại Myanmar) ra được tuyên bố chung nhưng không dám nêu đích danh
Trung Quốc. ASEAN là một tổ chức lỏng lẻo gồm nhiều nước có thành phần đa
dạng, dễ bị Trung Quốc phân hóa và vô hiệu hóa. Bó đũa ASEAN đang bị Trung
Quốc tách ra để bẻ gãy từng chiếc, nếu không đoàn kết trong một cộng đồng
mạnh hơn. Trong nhiều năm, ASEAN đã không ép được Trung Quốc ký COC (quy tắc
ứng xử) tại Biển Đông. ASEAN không có cơ chế an ninh tập thể nên không thể
can thiệp để bảo vệ các nước thành viên, kể cả khi bị đe dọa.
Căng thẳng
và xung đột trong khu vực đã thúc đẩy nhiều nước chạy đua vũ trang. Việt Nam
trở thành khách hàng lớn mua vũ khí của Nga. Nhưng điều này dẫn đến hai nguy
cơ lớn: Một là, chi phí quốc phòng tăng lên trong khi kinh tế suy thoái sẽ
đặt Viêt Nam vào thế tiến thoái lưỡng nan; Hai là, Việt Nam sẽ bị hở sườn nếu
Trung Quốc và Nga nâng cấp đối tác chiến lược để đối phó với Mỹ (như đang
diễn ra hiện nay). Nếu Việt Nam nâng cấp quan hệ với Mỹ thành đối tác chiến
lược (như dự kiến), thì các hệ thống vũ khí hiện đại mua của Nga có thể không
còn an toàn để chống Trung Quốc nữa (đặc biệt là hợp đồng mua 6 tàu ngầm Kilo
class 636 và mua thêm 12 máy bay chiến đầu Su-30MK2 còn đang trong quá trình
chuyển giao). Vì vậy, việc Mỹ bỏ cấm vận vũ khí sát thương là rất quan trọng
đối với Việt Nam lúc này.
Nước cờ
tiếp theo
Tiếp tục
“Tam chủng Chiến pháp”
Sự kiện
Trung Quốc đưa dàn khoan HD 981 vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam và
bạo loạn chống Trung Quốc tại Bình Dương và Vũng Áng là lời cảnh báo về những
tử huyệt của Viêt Nam. Nhưng nếu lãnh đạo Hà Nội vẫn không tỉnh ngộ để tìm
cách thoát khỏi cái bẫy ý thức hệ và dũng cảm đối phó với thực tế mới, thì
Trung Quốc sẽ tiếp tục thao túng những tử huyệt này để đạt được mục đích, mà
chẳng cần chiến tranh.
Trung Quốc
đã lợi dụng tử huyệt của lãnh đạo Viêt Nam để dùng dàn khoan HD 981 lấn chiếm
chủ quyền tại Biển Đông như chuyện đã rồi, để thử phản ứng các bên liên quan.
Người ta nghi ngờ tay sai của Trung Quốc tại Việt Nam đã ngầm xúi giục công
nhân gây bạo loạn tại Bình Dương, Vũng Áng và những nơi khác để Trung Quốc
lấy cớ rút người và đầu tư, và để các nhà đầu tư Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản
sợ không dám đầu tư. Việc này nhằm gây sức ép để chính phủ Việt Nam tiếp tục
trấn áp biểu tình chống Trung Quốc. Ngoài ra Trung Quốc có thể dùng những đòn
bẩy khác để gây bất ổn cho xã hội Viêt Nam, như dùng mạng lưới tay sai cài
cắm trong nội bộ chính quyền và cộng đồng để tác động vào các sự kiện, dùng
biện pháp tài chính thương mại để thao túng thị trường, dùng chiến tranh mạng
để gây nhiễu, dùng truyền thông để tác động vào dư luận, và dùng công cụ pháp
lý để lật lại vấn đề. Đây là một phần của học thuyết “Tam chủng Chiến pháp”
(Chiến tranh tâm lý, truyền thông và pháp lý) mà lãnh đạo của họ đã thông qua
từ năm 2003. Trong khi chính phủ Việt Nam chưa dám nộp đơn kiện, thì ngày
9/6, Trung Quốc đã bất ngờ đệ trình Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc một tài liệu
chính thức về quan điểm đối với tranh chấp tại Biển Đông để lưu chuyển cho
tất cả 193 thành viên LHQ.
Phản ứng
của lãnh đạo Viêt Nam quá chậm và im hơi lặng tiếng, trừ thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng đã có những tuyên bố kịp thời và mạnh mẽ về hành động hiếu chiến của
Trung Quốc, tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN ở Myanmar (10/5) và tại Diễn đàn
Kinh tế Thế giới về Đông Á ở Manila (22/5), ghi điểm cao và nổi bật trước các
đối thủ chính trị khác. Trước mắt, Thủ tướng đã giành lại được sự ủng hộ của
dân chúng và chính danh của người lãnh đạo quốc gia cho sứ mạng bảo vệ
chủ quyền. Điều này là thiết yếu trong cuộc chạy đua vào vị trí số một tại Đại
Hội Đảng tới. Sự kiện này đã tạo ra một bước ngoặt làm phân hóa nội bộ lãnh
đạo Việt Nam, có thể đảo lộn những toan tính trước đó về sắp xếp nhân sự. Đây
là cơ hội tốt để Thủ tướng khẳng định vị thế chính trị, và tạo ra những thay
đổi cơ bản về chính trị và đối ngoại. Nhưng điều này còn phụ thuộc vào lòng
dũng cảm và thành tâm chính trị của người lãnh đạo. .
Phản ứng
của dân chúng quá nhanh và mạnh. Có lẽ hơi quá bồng bột để “các thế lực thù
địch” lợi dụng gây bạo loạn tại Bình Dương, Vũng Áng và các nơi khác, làm mất
uy tín Việt Nam và phá hoại nền kinh tế đang khủng hoảng. Nếu chính phủ biết
cách khắc phục hậu quả, hy vọng tác động tiêu cực đến đầu tư FDI, như rút
người rút vốn, chỉ là nhất thời. Sau lúng túng ban đầu, chính phủ đã có những
biện pháp mạnh hơn để đối phó. Nhưng đừng quá mạnh tay với dân chúng và nhẹ
tay với bọn đầu sỏ thủ phạm, vì đó là dấu hiệu họ đứng về phía nào. Đây là cơ
hội tốt để các lực lượng yêu nước tập hợp, vì hòa giải và đoàn kết dân tộc,
để bảo vệ chủ quyền quốc gia. Đây cũng là thời điểm tốt để phe cải cách lật
ngược bàn cờ chính trịvà giành lại thế thượng phong. Nhưng sau chuyến thăm
của Dương Khiết Trì (18/6/20014), hình như cả hai phái lãnh đạo Việt Nam vẫn
lúng túng và bất lực, chưa dám hành động.
Tuy phe bảo
thủ thân Trung Quốc bị choáng váng, hoang mang và mất thể diện, nhưng họ vẫn
nắm quyền quyết định. Việc Ngoại trưởng Phạm Bình Minh phải hoãn chuyến đi Mỹ
theo lời mời của Ngoại trưởng John Kerry (22/5), và những phát biểu yếu ớt
của Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh tại Đối thoại Shangri-La 2014
(30/5) là những tín hiệu xấu, chứng tỏ lãnh đạo Việt Nam vẫn sợ Trung Quốc,
tiếp tục duy trì nguyên trạng về ý thức hệ, mặc dù nguy hại cho chủ quyền
quốc gia. Một khi Trung Quốc rút dàn khoan và tàu thuyền về, phe bảo thủ sẽ
lại hồi phục và thế cân bằng chính trị lại tiếp diễn. Kinh nghiệm cho thấy,
chỉ có thể thay đổi cơ bản khi nào dân chúng thoát khỏi nỗi sợ để hòa giải và
đoàn kết dân tộc thành sức mạnh nhân dân, tạo sự đột phá bằng quá trình thay
đổi từ dưới lên, chứ không phải chỉ từ trên xuống. Giai đoạn Đổi mới
(1986-1990) là một bài học về quá trình thay đổi từ trên xuống bị chết yểu
khi chính quyền đột nhiên quyết định đóng cửa.
Phản ứng
quốc tế mạnh hơn trước, nhưng chưa đủ mạnh để răn đe Trung Quốc. Không nên ảo
tưởng là quốc tế luôn ủng hộ Viêt Nam chống Trung Quốc, vì thế lực Trung Quốc
quá lớn và quá mạnh, bàn tay của họ quá dài vươn ra khắp nơi. Viêt Nam phải
thay đổi thái độ chính trị để có bộ mặt tử tế hơn Trung Quốc, vì không ai
muốn ủng hộ một chế độ độc tài tham nhũng, với hồ sơ nhân quyền quá xấu. Đây
là cơ hội tốt để Việt Nam nâng cấp quan hệ với Mỹ thành đối tác chiến lược để
đối phó với Trung Quốc. Nhưng đừng quá ảo tưởng vào “lá bài Mỹ” (cũng như “lá
bài Nga” trước đây). Chủ trương “xoay trục” và trò chơi TPP của Mỹ còn đang
diễn biến. Đối với Washington, Trung Quốc quan trọng hơn nhiều so với Việt
Nam. Hơn nữa, Mỹ còn đang sa lầy tại Trung Đông và dính líu tại Ukraine,
trong khi phải đối phó với ngân sách quốc phòng bị cắt giảm và xu hướng trong
nước muốn co lại. Trong bài diễn văn về đối ngoại dài 9 trang tổng thống
Obama đọc tại West Point (28/5/2014) chỉ có mấy dòng mờ nhạt đề cập đến tranh
chấp trên biển tại khu vực này, trong đó chỉ nhắc đến Biển Đông và Trung Quốc
hai lần, và không nói gì đến Việt nam cũng như dàn khoan của Trung Quốc.
Trung Quốc
khó có khả năng duy trì quá lâu dàn khoan khổng lồ HD 981 và một đội tàu hộ
tống quá lớn tại Biển Đông. Đơn giản là quá tốn kém, dù cho bất kỳ lý do gì.
Trung Quốc có thể rút dàn khoan HD 981 vào giữa tháng 8 như dự kiến, hoặc
thậm chí sớm hơn nếu đã xong nhiệm vụ, hoặc nếu mùa mưa bão ập đến sớm hơn.
Nhưng dù sao, Trung Quốc sẽ không bao giờ bỏ cuộc, và sẽ sử dụng tối đa
“chiến thuật dàn khoan”. Họ có thể triển khai thêm nhiều dàn khoan tại những
vị trí khác, và ráo riết xây dựng hạ tầng chiến lược tại các bãi đá họ chiếm
để đòi “vùng đặc quyền kinh tế”, và “khu vực nhận dạng phòng không”. Trung
Quốc sẽ “tùy cơ áp đặt” để từng bước độc chiếm Biển Đông, nhưng tránh đối đầu
quân sự với Mỹ. Nước cờ dàn khoan của họ cho thấy nếu xung đột vũ trang xảy
ra, nó sẽ xảy ra chớp nhoáng trên biển, với những đòn tấn công chính xác của
hải quân và không quân, để phát huy ưu thế, nhằm đảm bảo thắng nhanh để Mỹ
không kịp can thiệp. Trận hải chiến tại Gạc Ma năm 1988 là một ví dụ.
Nhưng khi
hạm đội tàu ngầm Viêt Nam gồm 6 chiếc Kilo class 636 được bàn giao và sẵn
sàng hoạt động, với 12 máy bay chiến đấu Su-30MK2 mới bổ xung, Trung Quốc sẽ
khó tự do tung hoành ở Biển Đông. Đặc biệt, khi quan hệ với Mỹ được nâng cấp
thành “đối tác chiến lược”, bao gồm bán vũ khí sát thương và tập trận chung
với Hạm đội 7, và nhất là sau khi Nhật Bản chuyển giao đội tàu tuần duyên
loại Bizan cho cảnh sát biển Việt Nam, thì tư thế phòng thủ của Viêt Nam ở
Biển Đông sẽ được cải thiện đáng kể. Tuy Trung Quốc không muốn xô đẩy Viêt
Nam vào vòng tay người Mỹ, nhưng hành động ngang ngược mới của họ có thể làm
thay đổi cục diện, dẫn đến những hệ quả không mong muốn.
Trung Quốc
có những phương án khác trong chiến lược vươn ra biển khơi của mình. Nếu lối
ra Ấn Độ Dương của họ bị ngăn chặn vì những thay đổi gần đây ở Miến Điện, với
sự gia tăng ảnh hưởng của Mỹ tại đây, Trung Quốc phải tìm lối ra Vịnh
Thailand và xa hơn nữa. Vì những lý do kinh tế và địa chính trị, Trung Quôc
phải kết nối các tỉnh phía Nam với biển khơi bằng một hành lang trong đất
liền như một tuyến đường huyết mạch đi qua mấy nước láng giềng, để đối phó
với chiến lược “bao vây trên biển” của Mỹ nhằm phong tỏa Trung Quốc tại các
điểm yết hầu trên biển. Gần đây, Trung Quốc đã giành được một số dự án lớn ở
Lao, Campuchea và Thailand, để xây dựng những cơ sở giao thông và hậu cần có
giá trị cao, bao gồm các hệ thống đường sắt, đường cao tốc, đường sông, sân
bay, trạm ra đa, hải cảng và kho tàng.
Ảnh bên: Ông C. Thayer, một chuyên gia nổi tiếng về các vấn đề VN, về mối quan hệ VN-TQ
Việc Trung
Quốc triển khai dàn khoan khổng lồ HD 981 và đội tàu hộ tống rất lớn tại đây
là một phần của kế hoạch nhằm độc chiếm Biển Đông, và kiểm soát các đường
hàng hải huyết mạch, bằng cách triển khai học thuyết A2/AD
(anti-access/area-denial) mà Mỹ và các đồng minh rất quan ngại. Gã khổng lồ
đói năng lượng tất nhiên thèm khát tài nguyên ở Biển Đông, bao gồm 11 tỷ
thùng dầu và 190 nghìn tỷ mét khối (Anh) khí đốt (theo đánh giá của US Energy
Information Administration) hoặc 17 tỷ thùng dầu và 498 nghìn tỷ mét khối khí
đốt (theo đánh giá của China National Offshore Oil Corporation). Nhưng, Trung
Quốc còn muốn kiểm soát cả đường hàng hải, vì hơn 5 nghìn tỷ USD hàng hóa
hàng năm phải qua đây (gồm 3/4 số dầu Trung Quốc nhập khẩu và hầu hết số dầu
chuyển đến Japan, South Korea, và Taiwan). Vì tất cả hàng hóa của họ vận
chuyển bằng đường biển phải qua đây, nên Trung Quốc rất lo ngại chiến lược
“Kiểm soát Ngoài khơi” (Offshore Control) của Mỹ nhằm bảo vệ “Vành đai các
đảo tiền tiêu” (First Islands Chain) và dùng các điểm yết hầu như eo Malacca
hay Lombok để chặn đường xuất nhập khẩu của Trung Quốc. Vì vậy, trong khi
Trung Quốc tìm kiếm các con đường bộ khác (qua Lao, Campuchea, Thailand), họ
phải kiểm soát bằng được Biển Đông.
Điều một
dàn khoan trị giá gần một tỷ đô la đến Biển Đông, với hơn một trăm tàu hộ
tống các loại vây quanh trong mấy tháng liền, chi phí mỗi ngày gần một triệu
đô la, Trung Quốc không chỉ nhằm một mục đích. Nếu không phải chủ yếu để
khoan dầu như dư luận nghi vấn, thì nó phải có một nhiệm vụ gì khác quan
trọng hơn. Dàn khoan này có thể được dùng để đánh lạc hướng dư luận trong khi
họ lặng lẽ xây dựng đảo nhân tạo và căn cứ quân sự tại các bãi đá ở Trường
Sa, nhằm áp đặt “đường lưỡi bò” (như chuyện đã rồi), tuyên bố “khu vực nhận
dạng phòng không” (ADIZ) và đòi “vùng đặc quyền kinh tế” (EEZ) như tại Hoàng
Sa. Nếu đúng Trung Quốc đang đóng thêm một dàn khoan khổng lồ thứ hai (HD
982) như tin đồn, thì việc sử dụng dàn khoan khổng lồ có công năng kép này
chứng tỏ là một công cụ chiến lược hiệu quả, vừa để khoan dầu vừa để khẳng
định chủ quyền.
Vì vậy,
điều quan trọng là phải quan sát thật kỹ xem Trung Quốc đang lặng lẽ làm gì
tại các địa điểm chiến lược khác ở Biển Đông, cũng như ở Viet Nam, Lào,
Campuchea, và Thailand (từ sau đảo chính). Các công trình đang được xây dựng
ở Trường Sa (như đường băng trên bãi đá Gac Ma, đảo nhân tạo và căn cứ quân
sự trên bãi đá Chữ Thập) sẽ được kết nối với căn cứ hải quân Du Lâm tại đảo
Hải Nam và đảo Tam Sa tại Hoàng Sa. Theo đường chim bay, căn cứ Du Lâm chỉ
cách đặc khu kinh tế Vũng Áng hơn 350km. Mấy nghìn công nhân Trung Quốc đang
làm việc tại Vũng Áng (Hà Tĩnh, Miền Trung), tại dự án Bô xít Tân Rai và Nhân
Cơ (Tây Nguyên) là một rủi ro lớn về an ninh. Nếu có chiến sự, Trung Quốc dễ
dàng cắt đôi Việt Nam tại điểm xung yếu này. Về phía Tây có tuyến đường sắt
cao tốc Côn Minh-Vientiane (Lào), các căn cứ tại Koh Kong và Bokor
(Campuchea), kênh đào Kra Isthmus (Thailand). Một khi các cơ sở chiến lược
này hoàn thành và được kết nối, thì Trung Quốc có thể vô hiệu hóa kế hoạch
“xoay trục” của Mỹ nhằm ngăn chặn Trung Quốc, và dễ dàng khống chế Việt Nam.
Họ chỉ cần hăm dọa, cưỡng ép và bắt chẹt cũng đạt được mục đích, mà không cần
phải đánh, vì lúc đó mọi sự kháng cự của Việt Nam là quá yếu ớt và quá muộn…
Năm 1973
“cú sốc dầu hỏa” làm Nhật Bản được một bài học nhớ đời, phải vội vã điều
chỉnh chiến lược năng lượng, nên bị thiên hạ gọi là “quái vật kinh tế”. Trung
Quốc học bài rất nhanh, đã kịp thời bắt tay với Nga gần đây để đảm bảo nguồn
cung cấp năng lượng và lá bài địa chính trị trong trò chơi nước lớn mới.
Trong khi đó, Trung Quốc đã triển khai hung hăng hơn tại Biển Đông để tranh
thủ giành lợi thế do khoảng trống quyền lực tại đây vì ASEAN yếu và phân hóa,
còn Mỹ và các đồng minh đều vướng các vấn đề khác nên không thể hành động quyết
đoán. Đây là nước cờ có tính toán nhưng rất nguy hiểm vì Trung Quốc không chỉ
là một “quái vật kinh tế” khổng lồ đã vượt qua Nhật Bản, mà còn là một “quái
vật được vũ trang” đầy tham vọng, sẵn sàng thách thức các quyền lợi toàn cầu
của Mỹ. Họ không còn đủ kiên nhẫn để chơi theo luật chơi cũ. “Cú sốc dàn
khoan” này là một lời cảnh báo và một bước ngoặt mới, không chỉ đối với Việt
Nam mà cho toàn khu vực. Dù có kiềm chế, khả năng xảy ra xung đột vũ trang do
sai sót kỹ thuật hay con người, hoặc do trục trặc về truyền thông là rất lớn.
Làm thế nào
để “thoát Trung”
Phản tỉnh
dể thoát khỏi cái bẫy ý thức hệ
Quan hệ
Viêt-Trung phải dựa trên nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và hai bên
cùng có lợi. Nhưng thực tế điều này không thể có giữa một nước nhỏ yếu với
một láng giềng khổng lồ, lại có truyền thống bá quyền đại Hán. Cách duy nhất
là Việt Nam phải độc lập và đủ mạnh để răn đe đối với Trung Quốc (như Israel
đối với các láng giềng lớn hơn).
Nhưng muốn
độc lập và mạnh, trước hết phải “thoát Trung” vì cái bẫy ý thức hệ đã trói
buộc và kìm hãm Viêt Nam trong hơn một nửa thế kỷ. Cơ hội “thoát Trung” tốt
nhất là khi Trung Quốc bi khủng hoảng và suy yếu (như thời Cách mạng Văn
hóa). Mô hình Trung Quốc trước đây đã thất bại (như đại nhảy vọt) và sắp tới
cũng không thể thành công (như Giấc mộng Trung Hoa), trừ phi có thay đổi
chính trị cơ bản (điều này rất khó). Đó là nghịch lý phát triển kiểu Trung
Quốc. Gordon Chang dự đoán “Trung Quốc sắp xụp đổ” trong khi Paul Krugman xác
nhận “Trung Quốc đang gặp rắc rối lớn”, vì đã đến điểm giới hạn. Ngày phán
quyết của họ đang đến gần. Vậy tại sao Việt Nam cứ đi theo Trung Quốc?
Muốn “thoát
Trung”, trước hết Việt Nam phải đổi mới tư duy, từ “trong cái hộp” phải tư
duy “ngoài cái hộp”. Người Việt phải học hỏi kinh nghiệm “thoát Á” của người
Nhật dưới thời Minh trị, theo tư tưởng đổi mới vĩ đại của Fukuzawa Yukichi
(1835-1901). Những nước Đông Á nào quyết tâm đổi mới tư duy để hiện đại hóa
đất nước, đều trở thành cường thịnh và có sức sống (như Nhật Bản, Hàn Quốc).
Chỉ 2 hay 3 thập kỷ sau chiến tranh bị tàn phá lớn, họ đã chấn hưng được đất
nước, trở thành cường quốc kinh tế hàng đầu thế giới.
Trong hơn
một nửa thế kỷ qua, Viêt Nam đã xa lầy vào quỹ đạo ý thức hệ Trung Quốc hai
lần. Lần thứ nhất là từ khi biên giới hai nước thông thương (1950) để hai bên
“núi liền núi, sông liền sông”, gắn bó như “môi với răng”, và để chủ nghĩa
Mao tràn vào Viêt Nam, gây bao đại họa (như cải cách ruộng đất, tập thể hóa
nông nghiệp, đàn áp phong trào nhân văn Giai phẩm…). Lần thứ hai là tại gặp
gỡ cấp cao Thành Đô (9/1990) khi hai “anh em tử thù” lại đột nhiên ôm chầm
lấy nhau như các đồng chí “bốn tốt” với phương châm “16 chữ vàng”. Việt Nam
đã bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc một cách “bất bình thường”, dại dột
tự chui đầu vào cái bẫy ý thức hệ của Trung Quốc, để bây giờ mới vỡ mộng khi
Trung Quốc công khai lộ bộ mặt thật. Hệ lụy nặng nề của sai lầm to lớn tại
Thành Đô đã được cố ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch dự báo, nay đang diễn ra tại
Biển Đông và những nơi khác.
Giữa hai
kinh nghiệm thảm họa đó khi Viêt Nam đi theo quỹ đạo Trung Quốc, thì Viêt Nam
đã cố “thoát Trung” một lần sau năm 1975, khi Viêt Nam xâm lược Campuchea để
đánh Khmer Đỏ là đồng minh của Trung Quốc (12/1978), và đánh trả Trung Quốc
xâm lược Viêt Nam để “dạy bài học” (2/1979). Viêt Nam đã coi Trung Quốc như
“kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm”, thậm chí ghi cả điều đó vào Hiến pháp (1980)
và Cương lĩnh Đảng (1982). Viêt Nam đã mắc sai lầm chiến lược to lớn, sập bẫy
của Trung Quốc, bị cô lập với thế giới (trừ Liên Xô), và xa lầy tại
Campuchea. Viêt Nam đã cố “thoát Trung” một cách lầm lẫn: chống Trung Quốc
(nhưng vẫn giữ nguyên ý thức hệ), chủ quan (tưởng Liên Xô là thành trì vững
chắc) và ngây thơ (đối đầu với Trung Quốc khi họ đã bắt tay được với Mỹ).
Nay nếu
Viêt Nam định “thoát Trung” bằng cách đi đêm với Mỹ như đối tác chiến lược để
chống Trung Quốc, trong khi không chịu từ bỏ ý thức hệ đã lỗi thời, thì sẽ
lặp lại sai lầm. Viêt Nam chỉ có thể dựa vào Mỹ để “căn bằng” với Trung Quốc,
chứ không thể “đối đầu” với họ. Chỉ có thể “thoát Trung” về ý thức hệ, chứ
không thể “thoát Trung” về địa chính trị. Về lâu dài, người Việt phải sống
khiêm tốn, tử tế, tương kính với người Hoa như những láng giềng thân thiện,
cùng nhau đổi mới kinh tế và chính trị, xây dựng một xã hội khá giả và dân
chủ. Độc tài và tham nhũng là kẻ thù chung của hai dân tộc. Vì vậy, muốn
“thoát Trung” trước hết phải phản tỉnh để thoát khỏi ý thức hệ đã lỗi thời,
là nguyên nhân chính dẫn đến mọi tai họa.
Làm thế nào
để sống bên cạnh Trung Quốc?
Phải thay
đổi hoặc mất hết.
Nhìn lại
quá khứ với những bài học đau đớn, Viêt Nam phải làm thế nào để sống được bên
cạnh một nước láng giềng khổng lồ có truyền thống bá quyền đại Hán (như Trung
Quốc)?
Thứ nhất,
lãnh đạo của nước nhỏ hơn phải giỏi hơn về thuật trị quốc, để nước láng giêng
lớn hơn không dễ bắt nạt. Để có lãnh đạo giỏi, phải biết trọng dụng nhân tài,
không phân biệt và kỳ thị nguồn gốc, như người Đức trọng dụng bà Angela
Markel gốc Đông Đức hay ông Philipp Koeller gốc Việt. Lãnh đạo quốc gia phải
vì lợi ích dân tộc, chứ không vì lợi ích nhóm hay cá nhân. Nếu lãnh đạo chạy
chức chạy quyền không theo luật pháp, thì các quan tham sẽ vơ vét tài sản
quốc gia làm giàu cho mình, làm đất nước khánh kiệt.
Thứ hai,
dân trí của nước nhỏ hơn phải cao hơn trong một xã hội dân sự, để nước láng
giềng lớn hơn không dễ lừa gạt. Phải khai tâm khai trí cho dân, và phải tôn
trọng quyền tự do dân chủ của người dân. Đất nước không thể có nhân tài nếu
người dân không được suy nghĩ sáng tạo và tự do tư tưởng. Không thể phát huy
được nội lực quốc gia để dựng nước và giữ nước nếu không có hòa giải dân tộc
và xã hội dân sự.
Thứ ba,
tiềm lực kinh tế và quốc phòng của nước nhỏ hơn phải có chất lượng cao hơn,
để nước láng giềng lớn hơn không dễ áp đặt. Trong quá trình dựng nước, phải
học bài học “quốc gia khởi nghiệp” của Israel, và kinh nghiệm phục hồi kinh
tế sau chiến tranh của Đức, Nhật và Hàn Quốc. Mặc dù Nhật và Đức thua trận
phải đầu hàng, nhưng chỉ hai-ba thập kỷ sau chiến tranh, họ đã phục hồi, trở
thành cường quốc kinh tế đứng thứ hai và thứ ba thế giới. Trong khi đó Việt
Nam tuy thắng trận, nhưng bốn thập kỷ sau chiến tranh, đất nươc vẫn nghèo nàn
lạc hậu và lệ thuộc. Muốn phát triển kinh tế bền vững, phải đổi mới thể chế
chính trị, để hậu thuẫn cho cải cách kinh tế và đổi mới công nghệ.
Bản đồ các nước tham gia TPP
Thứ tư,
quan hệ đối tác chiến lược của nước nhỏ hơn phải đủ mạnh để răn đe tham vọng
bá quyền của nước láng giềng lớn. Hiện nay, Viêt Nam có rất ít sự lựa chọn và
rất ít thời gian, không thể tiếp tục bắt cá hai tay để cân bằng quan hệ với
cả Trung Quốc và Mỹ. Sự kiện dàn khoan HD 981 là một bài học. Trong thế giới
đa cực ngày nay, quan hệ đối tác chiến lược không còn phụ thuộc vào ý thức hệ
mà chỉ dựa vào lợi ích quốc gia và địa chính trị. Nếu Viêt Nam không chịu thay
đổi tư duy thì sẽ trở thành tù binh của quá khứ, và thất bại.
Nếu thiếu
hụt những yếu tố trên, Viêt Nam dễ trở thành mồi ngon của chủ nghĩa bá quyền
đại Hán. Nguy cơ bắc thuộc ngày càng lớn lên cùng sự trỗi dậy của Trung Quốc
và tụt hậu của Viêt Nam. Để giữ độc lập và chủ quyền quốc gia, người Việt cần
phản tỉnh để thoát khỏi cái bẫy ý thức hệ và cải cách thể chế chính trị. Đã
đến lúc phải thay đổi hoặc mất hết.
NQD, 6/2014
(Nguyen
Quang Dy is a Harvard Nieman Fellow, 1993).
References:
1. Peril of
Pride and Prejudice, Philip Bowring, South China Morning Post, May 14, 2014
2. Beijing’s
actions in the South China Sea demand a U.S. response, Elizabeth Economy and
Michael Levi, World Policy, May 15, 2014
3. China’s
Push in South China Sea Divides the Region, Murray
Hiebert, CSIS, May 16, 2014
4. Hot oil
on troubled waters, Economist, May 17th 2014 |
5. Vài Đánh
giá Ban đầu về Cuộc Xung đột Viêt-Trung Hiện nay (Initial Assessments on
Sino-Vietnamese Conflict now), Trần Ngân, Viet-Studies, May 18, 2014
6. China
Miscalculates with its Drill Rig, Bill Hayton, Asia Sentinel, May 19, 2014
7. Mồi lửa & Đống củi (The Sparks & the Firewood), Huy Đức,
Viet-Studies, May19, 2014
8. Xi Jinping’s
Excellent adventure: A Calibrated Takeover of South China Sea, Nayan Chanda,
Yale Global online, May 20, 2014.
9. Kịch bản
Chiến tranh Viêt- Trung (Scenarios of a Sino-Vietnamese War), BBC interviewed
Carl Thayer, May 22, 2014
10. Vietnam
Won’t be Pushed Around by China, H.D.S. Greenway, Boston Globe, May 25, 2014
11. Vụ
Khoan dầu khiến Việt Nam Đi Trên Lộ trình Mới (China oil rig set Vietnam on a
new direction), Người Việt interviewed Jonathan London, May 28, 2014
12. Vietnam: Turning Point, David Brown, Asia Sentinel, June 2, 2014
http://www.viet-studies.info/kinhte/NguyenQuangDy_XungDotVietTrung.htm |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét