PHẠM NGỌC THẢO
Những giọt nước mắt của ông Mười Hương
20/12/2012 03:20
“Trong lịch sử tình báo ta, câu chuyện ly kỳ
như Phạm Ngọc Thảo là hãn hữu, nếu bỏ qua không nghiên cứu đến nơi đến chốn là
thiếu trách nhiệm đối với công cuộc tích tụ kho tàng tình báo Việt Nam” (Lời
tướng Nguyễn Đức Trí (Sáu Trí), nguyên Thủ trưởng Cơ quan tình báo Miền)
Tấm hình
đăng kèm theo đây do nhà báo Chin Kah Chong của hãng tin Pan-Asia Newspaper
Alliance (PANA News) của Nhật Bản chụp Phạm Ngọc Thảo mang lon đại tá quân đội
Sài Gòn lúc chỉ huy cuộc đảo chính ngày 19.2.1965 lật đổ chính quyền Nguyễn
Khánh. Ông Chin đã gửi tặng tấm hình cho chúng tôi trong dịp sang lại Việt Nam
cách đây không lâu. Ông bảo ông đã hai lần gặp Phạm Ngọc Thảo, ông kể lại không
khí của cuộc đảo chính mà ông trực tiếp chứng kiến hồi đó, nhưng ông không lý
giải được về hoạt động của vị đại tá này dù ông rất ngưỡng mộ.
|
|
|
Giữa một rừng gươm giáo
hiểm ác, ông như một nghệ sĩ xiếc đi trên dây, bên phải thì địch muốn giết,
bên trái thì ta cũng muốn giết. Ông hiên ngang lật ngửa ván bài và “chơi”
tới tận cùng
|
|
|
|
|
Cho đến
nay, Phạm Ngọc Thảo vẫn còn là một bí ẩn khó có thể giải mã. Không phải vì xung
quanh ông vẫn còn những bí mật quân sự, cũng không phải xung quanh ông có những
điều “nhạy cảm” khó nói. Khó giải mã là do tầng tầng lớp lớp những biến cố lịch
sử, những quan hệ, sự thiên biến vạn hóa của chiến lược, chiến thuật, kỹ thuật,
nghệ thuật chiến tranh tồn tại trên chiến trường, trên chính trường và trong
cuộc sống nhưng nằm ngoài sách vở và các bản tổng kết.
Sau khi bộ
phim nổi tiếng Ván bài lật ngửa bắt đầu công chiếu từ năm 1982, khi
biết nhân vật Nguyễn Thành Luân được nhà văn Trần Bạch Đằng xây dựng dựa trên
nguyên mẫu là Phạm Ngọc Thảo, những giai thoại về Phạm Ngọc Thảo dần dần lưu
truyền rộng rãi trong dân chúng. Nhà văn - nhà cách mạng Trần Bạch Đằng từng là
Bí thư Đặc khu ủy Sài Gòn - Gia Định trong kháng chiến chống Mỹ, là một trong
số rất ít người biết rất rõ Phạm Ngọc Thảo, nhưng Ván
bài lật ngửa vốn là
một cuốn tiểu thuyết được dựng thành phim, tất nhiên Nguyễn Thành Luân dù mang
dáng dấp Phạm Ngọc Thảo nhưng vẫn là một nhân vật hư cấu. Lúc ấy ngôi mộ của
Phạm Ngọc Thảo vẫn chỉ là một nấm mồ vô danh.
Mãi đến
ngày 30.8.1995, đại tá QĐND Việt Nam, liệt sĩ Phạm Ngọc Thảo mới được truy tặng
danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Lý do của sự chậm trễ này chưa
bao giờ được công bố chính thức.
Sau năm
1987, báo chí trong nước có viết một số bài về Phạm Ngọc Thảo, nội dung còn sơ
lược, chủ yếu dựa vào lý lịch và bản thành tích được công bố. Trong khi ở nước
ngoài, nhiều người từng ở “phía bên kia” quen biết Phạm Ngọc Thảo cũng viết về
ông, bên cạnh việc thuật lại các góc độ khác nhau những sự kiện mà họ chứng
kiến là những phỏng đoán, nhất là sự phỏng đoán xung quanh 2 vấn đề mà họ không
giải thích được: Vì sao mãi tới 12 năm sau ngày hòa bình Nhà nước Việt Nam mới
chính thức công nhận Phạm Ngọc Thảo là “người của mình”? Nếu Phạm Ngọc Thảo là
tình báo “Việt cộng” thì khi cuộc đảo chính tháng 2.1965 thất bại, ông hoàn
toàn có thể chạy ra căn cứ một cách an toàn, nhưng vì sao ông không đi mà ở lại
tại một xứ đạo để cuối cùng phải chết một cách bi thảm?
Đại tá quân đội Sài Gòn Phạm Ngọc Thảo chỉ huy cuộc đảo chính ngày 19.2.1965
lật đổ chính quyền Nguyễn Khánh - Ảnh: Chin Kah Chong
|
Không thể
đem những lý lẽ thông thường để luận giải cuộc đời bi tráng của người anh hùng
phi thường này. Giữa một rừng gươm giáo hiểm ác, ông như một nghệ sĩ xiếc đi
trên dây, bên phải thì địch muốn giết, bên trái thì ta cũng muốn giết. Ông hiên
ngang lật ngửa ván bài và “chơi” tới tận cùng. Địch coi ông là tên “Việt cộng”
nằm vùng nguy hiểm, ông không ngại, thậm chí còn viết báo công khai ca ngợi
tinh thần vì dân vì nước của Quân đội nhân dân Việt Nam trong chống Pháp. Ngại
nhất là ta, bởi vì ngay tại Sở Chỉ huy của kháng chiến cũng chỉ vài người được
biết ông là người của ta, nên khi ông thả hàng ngàn tù chính trị, cơ quan chỉ huy
kháng chiến cấp dưới lập tức kết luận ông là tên tỉnh trưởng mị dân nguy hiểm
nhất cần phải trừ khử. Ông đã nhiều lần thoát chết, không phải do sự nương tay
của ta, mà do may mắn.
Sinh thời
cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt bao giờ cũng rơm rớm nước mắt mỗi khi nhắc đến Phạm
Ngọc Thảo. Ông bảo Phạm Ngọc Thảo do đích thân ông Lê Duẩn giao nhiệm vụ ở lại
miền Nam làm tình báo chiến lược, không phải để cung cấp tin tức, mà đi sâu vào
hàng ngũ cao cấp của chính quyền Sài Gòn nhằm xoay chuyển thời cuộc, chuẩn bị
cho sự nghiệp thống nhất đất nước. Đối với ông Võ Văn Kiệt, Phạm Ngọc Thảo là
nhà tình báo kiệt xuất, là người anh hùng hội đủ nhân, trí, dũng. Ông vẫn tiếc
là không cứu được Phạm Ngọc Thảo mặc dù ông đã làm hết cách.
Còn ông
Mười Hương thì vừa nói đến Phạm Ngọc Thảo đã khóc như một đứa trẻ. Lần đầu gặp
ông, khi chúng tôi hỏi vì sao Phạm Ngọc Thảo được công nhận liệt sĩ và phong
anh hùng chậm như vậy, ông nức nở: “Phong anh hùng 10 lần cho Phạm Ngọc Thảo
cũng xứng đáng, nhưng chưa thể được, vì vợ con Thảo đang ở Mỹ. Khi chiếu phim Ván
bài lật ngửa, tôi gọi cho ông Trần Độ (lúc ấy làm Trưởng ban Văn
hóa Văn nghệ T.Ư - TN) bảo hãy cấm cái phim đó đi, đừng làm hại vợ con Phạm
Ngọc Thảo”. Ông Phạm Xuân Ẩn từng nói với chúng tôi rằng, sau khi Phạm Ngọc
Thảo bị giết chết, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu đã đề nghị chính quyền Mỹ trục
xuất vợ con ông Thảo, lúc đó ở Mỹ có một cuộc vận động bảo vệ vợ con ông Thảo,
ngay cả những nhà báo Mỹ chống cộng cũng phản đối sự trục xuất này, vì vậy mà
vợ con ông Thảo vẫn bình an vô sự cho đến bây giờ.
Sự lo xa
của ông Mười Hương là tình nghĩa rất đáng trân trọng. Giọt nước mắt của ông đủ
để giải thích lý do vì sao Phạm Ngọc Thảo chậm được thừa nhận một cách công
khai. Quốc gia đại sự không bao giờ bỏ sót cái tình, và suy cho cùng cũng vì
cái tình mà có quốc gia đại sự.
Trước khi viết loạt bài này, ngoài việc nghiên cứu những
tài liệu ghi chép từ các nhà tình báo lão thành hoạt động trong mạng lưới
tình báo Miền, chúng tôi đã có dịp tiếp xúc với ông Mười Hương (Trần Quốc
Hương), nguyên Bí thư T.Ư Đảng, người trực tiếp tổ chức hoạt động cho những
nhà tình báo lừng danh Phạm Ngọc Thảo, Phạm Xuân Ẩn, Vũ Ngọc Nhạ… sau Hiệp
định Genève, trao đổi với cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt, với ông Sáu Trí, ông
Mười Nho (người phụ trách công tác tình báo đặc khu Sài Gòn - Gia Định đầu
những năm 1960), chúng tôi còn gặp 1 trong 2 nhân vật được Tỉnh ủy Bến Tre
giao nhiệm vụ ám sát Phạm Ngọc Thảo. Chúng tôi cũng đã có dịp nói chuyện với
cựu Phó tổng thống chính quyền Sài Gòn cũ Nguyễn Cao Kỳ, người lên chức Chủ
tịch Ủy ban Hành pháp T.Ư (Thủ tướng) ngay sau khi cuộc đảo chính năm 1965
thất bại. Ngoài ra, chúng tôi còn tham khảo nhiều tài liệu liên quan đến ông
Thảo trên báo chí Sài Gòn trước năm 1975.
|
Gia thế
21/12/2012 03:55
Vì sao con cái một gia đình
“đại địa chủ”, đồng thời là “dân Tây” và là Công giáo toàn tòng, lại “đồng
loạt” đi tham gia kháng chiến, không chỉ tham gia kháng chiến mà còn đem hết
gia sản ra ủng hộ kháng chiến?
Phạm Ngọc Thảo xuất thân từ một
gia đình trí thức giàu có ở Vĩnh Long, theo đạo Công giáo toàn tòng. Thân sinh
của ông là cụ Adrian Phạm Ngọc Thuần, một kỹ sư trắc địa và là một điền chủ
giàu có nổi tiếng Nam bộ, mang quốc tịch Pháp. Anh chị em ông cũng có quốc tịch
Pháp nên sang Pháp du học, đều trở thành bác sĩ, kỹ sư, luật sư.
Dù học ở Pháp, dù là “dân Tây”,
dù có cuộc sống giàu sang nhưng anh chị em Phạm Ngọc Thảo đều hướng về đất
nước, đều khát khao giành độc lập cho Tổ quốc. Anh ruột ông, luật sư Gaston
Phạm Ngọc Thuần tham gia Thanh Niên Tiền phong chống Pháp cùng bác sĩ Phạm Ngọc
Thạch từ năm 1943, sau đó tham gia khởi nghĩa giành chính quyền và làm đến chức
Phó chủ tịch Ủy ban Hành chính kháng chiến Nam bộ, sau năm 1954 tập kết ra Bắc,
làm Đại sứ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tại CHDC Đức. Một người anh khác, ông
Lucien Phạm Ngọc Hùng cũng từ Pháp về nước tham gia kháng chiến, sau này là Ủy
viên Hội đồng Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam…
Phạm Ngọc Thảo trên tạp chí Life
|
Phạm Ngọc Thảo sinh ngày
14.2.1922, sau khi đỗ tú tài ở Sài Gòn, do Đại chiến thế giới 2 nổ ra, ông
không sang Pháp mà ra Hà Nội học, tốt nghiệp bằng kỹ sư công chánh năm
1942 và về làm việc tại Sài Gòn từ năm 1943. Theo chân người anh, ông tham gia
Cách mạng tháng Tám năm 1945 ngay từ những ngày đầu và khi Pháp quay lại xâm
chiếm Nam bộ, ông tuyên bố hủy bỏ quốc tịch Pháp, lên đường cầm súng đi kháng
chiến.
Vì sao con cái một gia đình “đại
địa chủ” (theo nhiều tài liệu thì gia đình Phạm Ngọc Thảo có tới hơn 4.000 mẫu
đất và hàng ngàn bất động sản ở Nam bộ), đồng thời là “dân Tây” và là Công giáo
toàn tòng, lại “đồng loạt” tham gia kháng chiến, không chỉ tham gia kháng chiến
mà còn đem hết gia sản ra ủng hộ kháng chiến?
Sự “đồng loạt” hiếm có đó là từ
chính nghĩa của cách mạng, là từ truyền thống yêu nước của gia đình, xuất phát
từ người ông của Phạm Ngọc Thảo. Ông nội của Phạm Ngọc Thảo là cụ Phạm Ngọc
Lành (cụ Lành có thể có nhiều tên khác), là một thương gia lớn ở Nam bộ thời
Pháp thuộc. Sau này cho con cháu gia nhập quốc tịch Pháp để “tự vệ”, song cụ
Lành sinh thời không những không dính dáng gì với người Pháp mà còn tích cực
ủng hộ, hậu thuẫn cho các phong trào yêu nước chống Pháp từ trước khi có cách
mạng. Ngay cả phong trào Cần Vương ở tận miền Trung cũng được cụ Lành gửi tiền
của hậu thuẫn. Nhiều bậc tiền bối của cách mạng ở Nam bộ đã dựa vào gia đình
này để nhen nhóm phong trào và khi cách mạng nổ ra, gia đình này đã nhẹ nhàng
đem hết gia sản và con cái ra cống hiến.
Thực ra, khi đất nước bị chia cắt
thì một gia đình bị phân hóa cũng là bình thường, mặt khác, sau này anh em ông
Ngô Đình Diệm đã trọng dụng Phạm Ngọc Thảo, không chỉ vì ông Thảo có tài năng,
có tư cách. Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu và Trần Kim Tuyến chắc chắn không “mù”,
họ biết rất rõ những người anh của Phạm Ngọc Thảo đang ở “phía bên kia”. Sau
khi lên cầm quyền ở miền Nam, Ngô Đình Diệm thực hiện khẩu hiệu “phản đế, bài
phong” để xây dựng chế độ quốc gia “cạnh tranh” với những người cộng sản, nhưng
điều mỉa mai là hầu hết các tướng lãnh, sĩ quan và quan chức cao cấp chính
quyền của họ đều là sản phẩm do người Pháp để lại. Anh em họ Ngô rất cần có
những trí thức từng tham gia chống Pháp ở bên cạnh mình và rất cần sự hậu thuẫn
của những gia đình có truyền thống yêu nước như gia đình Phạm Ngọc Thảo để làm
nền móng cho chế độ. Phạm Ngọc Thảo và cấp trên của ông không bao giờ đánh giá
thấp anh em Ngô Đình Diệm, nếu đánh giá thấp đối phương thì không thể có được
“ván bài lật ngửa” ngoạn mục như chúng ta đã biết. Nhưng đó là chuyện sau này.
Năm 1946, ông được cử đi học
Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn ở Sơn Tây. Sau khi tốt nghiệp khóa 1 trường này,
ông lập tức trở về miền Nam chiến đấu và đảm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng của
kháng chiến: Tiểu đoàn trưởng, Trung đoàn phó, Trưởng phòng Mật vụ Nam bộ (chức
vụ tương đương Trung đoàn trưởng). Năm 1949, Phạm Ngọc Thảo kết hôn với bà Phạm
Thị Nhiệm, cũng là một trí thức tham gia kháng chiến (bà Nhiệm là em gái Giáo
sư Phạm Thiều lúc đó là Giám đốc Nha Giáo dục phổ thông Nam bộ, sau khi tập kết
ra Bắc làm Đại sứ Việt Nam dân chủ cộng hòa tại một số nước Đông Âu).
Năm 1946 cũng là năm ông Lê Duẩn
được Trung ương cử vào Nam làm Bí thư Xứ ủy Nam bộ. Khi quân Pháp đổ bộ vào
miền Nam, giữa sự vây ráp ráo riết của địch, chính Phạm Ngọc Thảo là người trực
tiếp hộ vệ đưa ông Lê Duẩn từ Phú Yên, nơi đóng trụ sở Ủy ban Hành chính kháng
chiến miền Nam Việt Nam về chiến trường Nam bộ để lãnh đạo kháng chiến. Bản
lĩnh, tài năng, mưu trí và phẩm chất của Phạm Ngọc Thảo trên chiến trường đã
chinh phục niềm tin của vị Bí thư Xứ ủy. Cuộc hạnh ngộ này ảnh hưởng quyết định
đến sứ mệnh sau này của ông. Dùng một trí thức con nhà Công giáo đại địa chủ
làm tiểu đoàn trưởng, trung đoàn trưởng, thậm chí làm tướng cũng không có vấn
đề gì, nhưng làm Trưởng phòng Mật vụ của cả Nam bộ kháng chiến thì, trừ ông Lê
Duẩn, không ai dám và điều này thì quả thật, ông Lê Duẩn có con mắt anh hùng
đoán giữa trần ai. Trong những lúc nói chuyện với chúng tôi, ông Võ Văn Kiệt
trước sau đều khâm phục tầm nhìn chiến lược và sự trông xa thấy rộng của ông Lê
Duẩn và ông cũng nhớ lại: “Không ít anh em cũng lo ngại về cách dùng người như
vậy của anh Ba”.
Điều đáng chú ý là những nhân vật
như Trần Văn Đôn, Nguyễn Khánh, Lê Văn Kim… cũng có vào chiến khu tham gia
kháng chiến trong thời gian đầu và họ đều được Phạm Ngọc Thảo huấn luyện về
chiến tranh du kích, nhưng họ đã quay lưng theo Pháp và trở thành những tướng
lãnh quân đội Sài Gòn. “Những người quen cũ” đó sau này vừa nể phục Phạm Ngọc
Thảo vừa coi ông là một đối thủ đáng gờm.
Hiệp định Genève được ký kết, Phạm
Ngọc Thảo được đích thân Bí thư Xứ ủy Lê Duẩn chỉ định ở lại miền Nam với nhiệm
vụ chiến lược là thâm nhập vào hàng ngũ cao cấp của chính quyền Sài Gòn để
“phục vụ cho mục tiêu thống nhất đất nước”. Ông Lê Duẩn giới thiệu Phạm Ngọc
Thảo với ông Mai Chí Thọ, lúc ấy là người phụ trách Ban Đặc tình Xứ ủy (sau này
là đại tướng, Bộ trưởng Bộ Nội vụ). Hai người khác trong Ban cùng có mặt là ông
Mười Hương và ông Cao Đăng Chiếm (sau này là thượng tướng, Thứ trưởng Bộ Nội
vụ).
Tuy ở lại hoạt động ở miền Nam
nhưng ông Mai Chí Thọ là người lừng lẫy nên có quá nhiều người biết, ông Cao
Đăng Chiếm cũng vậy, Đảng không cho phép vào sống ở Sài Gòn, chỉ có ông Mười
Hương là có thể vào Sài Gòn sống hợp pháp vì ông là cán bộ từ ngoài Bắc vào,
không ai biết. Do đó, ông Mười Hương đã bàn bạc cụ thể với Phạm Ngọc Thảo về
đường hướng, phương thức hoạt động và trực tiếp liên lạc với Phạm Ngọc Thảo
ngay tại Sài Gòn. Ông Mười Hương trở thành “người chỉ huy” Phạm Ngọc Thảo trong
thời kỳ đầu, tuy nhiên thời gian này rất ngắn, vì sau đó ông Mười Hương bị
chính quyền Ngô Đình Diệm bắt giam ở Huế.
Hoàng Hải
Vân
(Còn tiếp)
Lật ngửa bài để tàng hình
22/12/2012 02:49
Phạm Ngọc
Thảo tất nhiên không thể giấu cái lý lịch kháng chiến ai cũng biết của ông,
nhưng ông không “hồi chánh” để “trở về với chính nghĩa quốc gia” như một số
người, vì làm như vậy là biến thành một “thây ma”, là tự vô hiệu hóa vai trò
của mình.
“Phục vụ
cho mục tiêu thống nhất đất nước” là làm nhiệm vụ cụ thể gì, không ai rõ chi
tiết. Ông Mai Chí Thọ xác nhận việc ông Lê Duẩn giới thiệu Phạm Ngọc Thảo cho
ông để bố trí ở lại miền Nam hoạt động, nhưng ông bảo ông chỉ nhận được chỉ thị
về nhiệm vụ của ông đối với Phạm Ngọc Thảo thôi, còn ông Lê Duẩn chỉ thị cho
Phạm Ngọc Thảo làm những việc gì thì ông không được thông báo.
|
|
|
Theo ông Mười Hương, nếu
không thừa nhận anh em Ngô Đình Diệm là những người yêu nước theo cách của
họ, nếu không thừa nhận họ là những người có tinh thần dân tộc, muốn xây
dựng một chế độ quốc gia không cộng sản, thì Phạm Ngọc Thảo khó mà dám
“ngửa bài”
|
|
|
|
|
|
Còn ông Võ
Văn Kiệt, ban đầu không liên quan đến Phạm Ngọc Thảo, ông chỉ biết ông Lê Duẩn
đã trọng dụng ông Thảo như thế nào mà thôi. Nhưng sau Hiệp định Genève, có một
thời gian ông Lê Duẩn vào sống ngay trong thành phố Sài Gòn, ông Kiệt có nhiệm
vụ tổ chức nơi ăn ở và bảo vệ an toàn, ông dần dần hiểu được những việc mà ông
Lê Duẩn giao cho Phạm Ngọc Thảo. Khi làm Bí thư Đặc khu ủy Sài Gòn - Gia Định,
ông Võ Văn Kiệt mới “liên quan” đến Phạm Ngọc Thảo. Ban đầu ông định cử ông
Mười Nho, Trưởng ban Đặc tình Đặc khu ủy, liên lạc với Phạm Ngọc Thảo, nhưng
xét thấy ông Mười Nho đã từng bị lộ tung tích, nên kế hoạch bị hủy bỏ. Ông Kiệt
gặp ông Thảo nhiều lần, từ sau cuộc đảo chính lật đổ Ngô Đình Diệm đến sau cuộc
đảo chính 19.2.1965.
Theo ông
Võ Văn Kiệt, nhiệm vụ mà ông Lê Duẩn giao cho ông Thảo là tìm cách thâm nhập
càng sâu càng tốt vào bộ máy chính quyền Sài Gòn và tùy cơ ứng biến; ông Thảo
không phải là một điệp viên, không có trách nhiệm báo cáo bất cứ chuyện gì với
bất kỳ ai, khi có việc cần thiết có thể trao đổi với người lãnh đạo nào mà ông
Thảo thấy đủ tin tưởng, nếu không thấy cần thiết thì không trao đổi. Ông Thảo
hoạt động độc lập, tự do hành động, không bị bất cứ một chế định nào. Việc ông
Kiệt gặp ông Thảo là do chính ông Thảo chủ động cho người thân liên lạc để bàn
bạc giải pháp, ông Kiệt không có “chỉ thị” ông Thảo phải gặp ông.
Sau khi
thống nhất đường hướng, phương thức hoạt động với ông Mười Hương, Phạm Ngọc
Thảo vào Sài Gòn, bắt đầu tàng hình bằng một “ván bài lật ngửa”.
Theo ông
Mười Hương, nếu không thừa nhận anh em Ngô Đình Diệm là những người yêu nước
theo cách của họ, nếu không thừa nhận họ là những người có tinh thần dân tộc,
muốn xây dựng một chế độ quốc gia không cộng sản, thì Phạm Ngọc Thảo khó mà dám
“ngửa bài”. Ông Mười Hương cho rằng, thực tế Ngô Đình Diệm luôn mơ ước có những
trí thức yêu nước có tầm cỡ bên cạnh mình, như cụ Hồ có những người như ông
Hoàng Minh Giám bên cạnh. Cần biết Ngô Đình Diệm nổi tiếng chống cộng, nhưng
Ngô Đình Diệm trong thâm tâm bao giờ cũng nể phục cụ Hồ và chưa bao giờ dám xúc
phạm đến cụ Hồ.
Phạm Ngọc
Thảo tất nhiên không thể giấu cái lý lịch kháng chiến ai cũng biết của ông,
nhưng ông không “hồi chánh” để “trở về với chính nghĩa quốc gia” như một số
người, vì làm như vậy là biến thành một “thây ma”, là tự vô hiệu hóa vai trò
của mình. Ngược lại, ông không những chủ động công khai cái lý lịch kháng chiến
đó mà còn công khai tự hào về quãng đường mình đã theo Việt Minh chống Pháp. Để
tiếp cận với gia đình họ Ngô, nguồn gốc trí thức Công giáo đã đành là một lợi
thế, nhưng chưa đủ. Ông đã khôn ngoan biến cái lý lịch kháng chiến thành một
lợi thế thứ hai, lợi hại hơn.
Khi về Sài
Gòn, sau khi thu xếp nơi ăn chốn ở cho gia đình, ông không vội tiếp cận với gia
đình họ Ngô mà ung dung đi dạy học. Vợ ông cũng vậy. Nhưng Sài Gòn lúc đó rất
rối ren. Chính quyền một mặt phải đối phó với lực lượng của các giáo phái và
các lực lượng thân Pháp, một mặt ráo riết lùng bắt những cán bộ Việt Minh không
đi tập kết nhưng không “hồi chánh” để trừ hậu họa. Phạm Ngọc Thảo không “hồi
chánh” nên tất nhiên không có giấy tờ “hồi chánh”, ông bị an ninh quân đội
nhiều lần truy bắt, phải rất khôn ngoan ông mới trốn thoát.
Phạm Ngọc Thảo nói chuyện với các chức sắc Cao Đài - Ảnh: LIFE
|
Không thể
ung dung ở Sài Gòn được nữa, ông về Vĩnh Long theo dự định ban đầu. Theo kế
hoạch, việc đầu tiên ông làm là đến thăm Giám mục Ngô Đình Thục, anh ruột Ngô
Đình Diệm, Ngô Đình Nhu. Đức cha Thục rất thân thiết với gia đình Phạm Ngọc
Thảo, từng là người làm lễ rửa tội cho ông và coi ông như con nuôi. Trong kháng
chiến chống Pháp, Phạm Ngọc Thảo từng mời Đức cha vào chiến khu để thông qua vị
giám mục này mà tranh thủ đồng bào Công giáo ủng hộ kháng chiến. Lần này Phạm
Ngọc Thảo đến thăm với sự lễ phép của một tín đồ ngoan đạo khiến vị giám mục vô
cùng cảm động. Ngô Đình Thục đã bảo lãnh cho Phạm Ngọc Thảo vào dạy tại một
trường trung học. Sau đó cũng từ sự giới thiệu của Đức cha Thục, Phạm Ngọc Thảo
quay lại Sài Gòn làm việc tại Viện Hối đoái do ông Huỳnh Văn Lang, một học trò
cũ của Đức cha Thục, làm Giám đốc. Trở lại Sài Gòn lần này ông hoàn toàn không
bị an ninh quân đội làm khó dễ, vì ai mà dám động đến người của Đức cha!
Sau khi
Ngô Đình Diệm phế truất Bảo Đại, lên làm Tổng thống, Giám mục Ngô Đình Thục
liền tiến cử ông Thảo với Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu, bảo đây là một nhân tài
cần được trọng dụng. Gia đình họ Ngô anh nói em nghe, rất có khuôn phép, nên
đương nhiên Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu chấp nhận sự tiến cử này. Tuy nhiên, do
chưa thấy ông Thảo có tài năng gì đặc biệt, nên họ cũng chỉ bố trí cho ông
những chức vụ khiêm tốn: đại úy đồng hóa, Tỉnh đoàn trưởng Bảo an…
Mối quan
hệ với Huỳnh Văn Lang tạo thêm cho Phạm Ngọc Thảo một lợi thế: viết báo để thể
hiện mình. Năm 1957, ông Huỳnh Văn Lang khi ấy là Giám đốc Viện Hối đoái và là
Bí thư liên kỳ Nam Bắc Việt Nam của Đảng Cần Lao, đã cho xuất bản Tạp chí Bách
Khoa. Phạm Ngọc Thảo được mời làm một thành viên sáng lập và tham gia Ban Biên
tập tạp chí. Tờ Bách Khoa qua nhiều thăng trầm nhưng vẫn tồn tại cho đến năm
1975. Phạm Ngọc Thảo có mặt từ số báo đầu tiên và chỉ tính riêng trong năm
1957-1958, ông đã cho đăng liên tục và dồn dập hàng loạt bài trên tạp chí này,
tập trung đề tài về quân sự: “Thế nào là một quân đội mạnh?” (BK số 1-1957);
“Đánh giặc mà không giết người” (BK số 2); “Góp ý kiến về thiên Mưu công trong
binh pháp Tôn Tử” (BK số 3); “Một số ý kiến về lãnh đạo tinh thần một đơn vị
quân đội” (BK số 4); “Vấn đề kinh tế tự túc trong quân đội” (BK số 5-6)…; “Lực
lượng quân sự cơ động và lực lượng địa phương” (BK số 13); “Quân đội và nhân
dân” (BK số 14); “Quân đội bình định đem lại bình an hay oán hận” (BK số 16);
“Quan niệm về quân sự hiện đại” (BK số 17)... Những bài báo đó thể hiện tác giả
của chúng có kiến thức uyên bác của một nhà chiến lược quân sự và thực tiễn
sinh động của một nhà cầm quân, nhưng lại gây sốc: công khai ca ngợi chiến công
chống ngoại xâm và hành động vì dân vì nước của quân đội nhân dân VN trong
kháng chiến chống Pháp, lên án những hành vi phi nghĩa của quân đội phản nhân
dân. (Còn tiếp)
Bị cách
mạng ám sát
24/12/2012 00:15
Ông Thảo chụp trái lựu đạn đang
xì khói, lúng túng không biết xử lý làm sao. Nếu liệng ra bên ngoài thì chết
dân, liệng bên phải bên trái thì chết dàn thiếu nhi nhà thờ...
Hành động của Phạm Ngọc Thảo tại
Bến Tre như thả tù chính trị và khôn khéo lái các cuộc hành quân tảo thanh vào
chỗ không người đã góp phần quan trọng vào việc bảo tồn lực lượng cách mạng,
tạo điều kiện mở rộng cuộc Đồng khởi ở miền Nam. Nhưng đó là nhận định sau này,
khi đã biết Phạm Ngọc Thảo là người của ta. Còn lúc đó, nhận định của Tỉnh ủy
Bến Tre thì hoàn toàn ngược lại.
|
|
|
Ám sát ông Thảo là làm
thiệt. Lựu đạn thối, có khả năng là có nội gián của địch trong công binh
xưởng lúc kiểm tra lựu đạn
|
|
|
|
|
|
Chúng tôi đã gặp một trong hai
người trực tiếp ném lựu đạn giết Phạm Ngọc Thảo. Đó là ông Đặng Quốc Tuấn (Sáu
Tuấn), sau này là Tỉnh ủy viên, Bí thư Tỉnh đoàn, rồi làm Giám đốc Đài phát
thanh - truyền hình tỉnh Bến Tre cho đến khi về hưu. Người kia là ông Ngô Văn
Thiều đã qua đời.
Hôm đó là ngày Quốc khánh VNCH
26.10.1961, một cuộc mít tinh lớn biểu dương lực lượng được tổ chức tại Quảng
trường An Hội, ngay đầu cầu Bến Tre 1 chợ Vườn Hoa bây giờ. Người giao nhiệm vụ
là ông Hai Trung, Tỉnh ủy viên phụ trách Thị ủy. Nhiệm vụ ông Hai Trung giao
trực tiếp cho ông Thiều, đã thoát ly, cùng 5 trái lựu đạn, 3 trái nội hóa, 2
trái MK2 của Mỹ. Ông Thiều giao nhiệm vụ lại cho ông Sáu Tuấn, lúc đó 17 tuổi,
đang học đệ tam (lớp 10). Mỗi ông cầm 1 trái lựu đạn MK2, 3 trái kia để ở nhà
ông Thiều. Ông Thiều đứng tại vị trí ngay trụ sở Báo Đồng Khởi bây giờ, còn ông
Sáu Tuấn đứng cách 10 m. Theo hợp đồng, ông Thiều ném trước, ông Sáu Tuấn ném
tiếp theo, ném xong chạy về tập kết tại nhà ông Thiều ở thị xã.
Ông Sáu Tuấn kể: “Sau khi ông
Thảo đọc diễn văn, lúc đó khoảng 8 giờ 30, tới phần diễu hành. Tất cả quan
khách đứng lên nhìn ra phía diễu hành. Ông Thiều liệng 1 trái, lựu đạn rơi cách
ông Thảo 1,5 m, không thấy nổ, tôi liệng tiếp 1 trái cách ông Thảo 5 m rồi bỏ
chạy, cũng không nổ luôn. Lúc đó bọn tôi bỏ chạy không để ý, sau giải phóng chị
Nhiệm vợ ông Thảo về Bến Tre gặp chúng tôi có nói lại mới biết lúc đó ông Thảo
chụp trái lựu đạn đang xì khói, lúng túng không biết xử lý làm sao. Nếu liệng
ra bên ngoài thì chết dân, liệng bên phải bên trái thì chết dàn thiếu nhi nhà
thờ. Đang không biết làm sao thì thấy khói dần dần mỏng ra, ổng biết lựu đạn
lép, nên nắm chặt luôn. Tôi chưa biết ông Thiều bị bắt tại chỗ, nên chạy về nhà
ông Thiều định lấy tiếp 3 trái còn lại. Rủi cho tôi, tại nhà ông Thiều đã có
mật báo dẫn người lên ém, tôi đến bọn chúng giữ lại, chưa bắt ngay. Chúng vô
nhà xét, lấy 3 trái lựu đạn và chiếc cặp da đi học tôi để ở nhà ông Thiều, vì
cái cặp da có dấu cây súng trước đây tôi để trong cặp, nên tôi bị bắt, bị đánh
tại chỗ. Tôi và ông Thiều bị giam riêng. Do không lường trước là bị bắt nên
chưa thống nhất cách khai, vì vậy mỗi người nói một phách. 20 ngày sau, khi
giam chung mới thống nhất lại”.
Phạm Ngọc Thảo lúc làm Tỉnh trưởng Kiến Hòa - Ảnh: LIFE
|
Sau khi bị bắt 1 tuần, ông Thảo
có gặp hai ông. Lần đó, một cố vấn Mỹ thẩm vấn, ông Thảo làm phiên dịch. Hỏi:
“Tại sao là học sinh mà đi ám sát tỉnh trưởng ngay tại ngày quốc khánh? Có phải
cộng sản giao việc không? Ai là người giao việc?”. Trả lời: “Do chính quyền độc
ác, đàn áp ức hiếp giết hại dân. Chúng tôi học tập gương của Phạm Hồng Thái,
Nguyễn Thái Học đứng lên đấu tranh, không liên quan gì tới cộng sản, không có
ai giao việc cả”. Ông Thảo dịch như thế nào ông Sáu Tuấn không biết. Ông Thảo
chỉ nói với hai ông: “Các em còn nhỏ, phải lo chuyện học hành, chính trị là
chuyện của người lớn, sau này lớn lên muốn làm gì thì làm”. Lần thứ hai, ông
Thảo đến hỏi thăm trước khi đưa về Chí Hòa.
Tháng 3 năm sau, Tòa án quân sự
đặc biệt mở phiên tòa xử hai ông theo luật 10/59, một đại tá tên Khoa làm công
tố. Do có sự vận động của phong trào yêu nước ở Sài Gòn, nên luật sư Trịnh Đình
Thảo đến bào chữa cho hai ông. Tuy nhiên, hai ông tự cãi là chính. Hai ông tố
cáo sự tàn bạo của chế độ và dõng dạc nói: “Tụi tôi không phải là Việt cộng,
nhưng nếu như được Việt cộng tổ chức làm như vậy tụi tôi cũng tham gia”. Hai
ông còn lên án phiên tòa vi phạm luật quốc tế, xử vị thành niên chưa tới 18
tuổi, đại tá Khoa rút gươm lệnh ra nói lớn: “18 tuổi là luật cộng sản, Việt Nam
cộng hòa xử 13 tuổi”. Do những gì cần cãi hai ông đã tự cãi rồi, nên luật sư
Trịnh Đình Thảo chỉ đề nghị khoan hồng.
Ông Đặng Quốc Tuấn - Ảnh: Nguyễn Khoa Chiến
|
Hai ông bị kết án mỗi người 20
năm tù, đưa về Chí Hòa, sau đó đưa ra Côn Đảo, chung một chuyến với những người
tù nổi tiếng Lê Quang Vịnh, Lê Hồng Tư. Ngoài Côn Đảo, hai ông đấu tranh, chống
chào cờ, được kết nạp Đảng trong tù. Năm 1965, sau khi ông Thảo bị sát hại,
bỗng nhiên hai ông được đưa về Chí Hòa, lúc ấy anh em trong tù nhận định hai
khả năng, hoặc là được thả hoặc tăng án lên tử hình. Lúc đó 2 ông đã chống chào
cờ rồi, về Chí Hòa chúng chỉ yêu cầu hai ông chào cờ, nhưng hai ông dứt khoát
không chịu, mà chống chào cờ là tự nhận là cộng sản, nên dù ông Thảo có là cộng
sản đi chăng nữa thì tội của hai ông cũng không nhẹ đi được, do đó sau 20 ngày
chúng đưa trở lại Côn Đảo. Ông Thiều được thả năm 1973, thoát ly lên chiến khu,
sau giải phóng làm cán bộ Ban Tổ chức Thành ủy TP.HCM, qua đời năm 1984 vì
bệnh. Còn ông Sáu Tuấn đến ngày giải phóng mới về.
Chúng tôi hỏi ông Sáu Tuấn: “Có
phải 2 trái lựu đạn không nổ là do tổ chức bố trí để ám sát giả?”. Trả lời:
“Không có chuyện đó. Ám sát ông Thảo là làm thiệt. Lựu đạn thối, có khả năng là
có nội gián của địch trong công binh xưởng lúc kiểm tra lựu đạn. Sau này ta đã
bắt được một ông. Làm cho lựu đạn không nổ rất đơn giản, chỉ cần nhúng sáp đèn
cầy vào tim cháy chậm, khi giật lửa cháy lên khiến cho sáp chảy ra bít ngòi
nổ”. Hỏi: “Tại sao Tỉnh ủy phải quyết giết ông Thảo?”. Trả lời: “Mãi sau này
mới biết ông Thảo có công lớn, chứ theo nhận định của Tỉnh ủy lúc đó thì khi
phong trào Đồng khởi đang lên mà ông Thảo lại thả tù, người mới bắt thì đối xử
tử tế, gom vào sân vận động giải thích rồi cho về hết, làm nhụt ý chí chiến đấu
của quần chúng. Đó là tên tỉnh trưởng mỵ dân rất nguy hiểm, cần phải trừ khử”.
Vì giết ông Thảo mà ông Sáu Tuấn
ở tù 14 năm, 17 tuổi vào tù, ra tù 31 tuổi. Bà Phạm Thị Nhiệm thỉnh thoảng về
nước đến Bến Tre thăm lại những kỷ niệm xưa, đều thăm ông Sáu Tuấn, bà nói:
“Ngày xưa anh Thảo vẫn nhắc đến tụi mày”. Các con ông Thảo cũng có về. Ông Tuấn
nói con ông Thảo một đứa sinh ở Bến Tre, một đứa khác vừa rồi về cưới vợ, nghe
đâu ở An Giang. (còn tiếp)
Suýt
làm Thủ tướng Việt Nam cộng hòa
25/12/2012 04:05
“Cái ông Phạm Ngọc Thảo này rất
lạ. Hồi đó nhiều người nghĩ ổng là cộng sản, nhưng lạ là không ai làm gì được
ổng. Ổng nói nhỏ nhẹ và rất thuyết phục, ai cũng nghe. Năm 1965, tôi mà không
ngăn cản thì ổng đã làm Thủ tướng rồi” - lời ông Nguyễn Cao Kỳ nói với Thanh
Niên.
Năm 1962, sau khi thôi làm Tỉnh
trưởng Kiến Hòa, sang Mỹ học một khóa quân sự cao cấp, Phạm Ngọc Thảo được bổ
nhiệm làm Thanh tra Ấp chiến lược, trực thuộc Phủ Tổng thống. Thời gian này mối
quan hệ giữa ông với ông Trần Kim Tuyến và Huỳnh Văn Lang càng thân thiết. Với
sức thuyết phục mạnh mẽ của một nhà quân sự vừa có trình độ, vừa chân thành vốn
có, ông được nhiều sĩ quan có tinh thần dân tộc ngưỡng mộ.
Phạm Ngọc Thảo (giữa) chỉ huy đảo chính - Ảnh: LIFE
|
Trong những năm 1962 - 1963, giữa
lúc phong trào Đồng khởi lan rộng ở nông thôn, chính trường miền Nam Việt Nam
trở nên rối ren. Gia đình họ Ngô vừa cai trị độc tài, vừa muốn thoát khỏi sự
can thiệp của người Mỹ, tình hình này khiến cho phong trào đấu tranh của quần
chúng ở đô thị dâng cao. Người Mỹ thì muốn gạt bỏ gia đình họ Ngô để thay vào
đó giới lãnh đạo thân Mỹ nhằm biến miền Nam thực sự là một tiền đồn chống cộng.
Biết trước sau gì gia đình họ Ngô cũng bị người Mỹ lật đổ để dựng lên một chính
quyền nguy hiểm hơn, Phạm Ngọc Thảo cùng với Trần Kim Tuyến và Huỳnh Văn Lang
lên một kế hoạch đảo chính với mục tiêu “cải sửa” chế độ nhằm vô hiệu hóa ý đồ
của người Mỹ. Theo kế hoạch này, lực lượng đảo chính sẽ vẫn giữ Ngô Đình Diệm
làm tổng thống, chỉ buộc Ngô Đình Nhu ra nước ngoài. Tuy nhiên, kế hoạch bị lộ,
Trần Kim Tuyến bị đưa đi làm lãnh sự ở Ai Cập. Ngô Đình Nhu không tin Phạm Ngọc
Thảo tham gia kế hoạch này, thứ nhất là ông Nhu không tin ông Thảo phản bội,
thứ hai là ông Thảo “không có quân”. Thực ra lúc đó ông Thảo đã được nhiều sĩ
quan chỉ huy ở Quân đoàn 3, Quân đoàn 4, một số đơn vị biệt động quân, bảo an
hậu thuẫn. Cuộc đảo chính không thành chủ yếu do thành phần đảo chính không
phải là những người mà người Mỹ có thể nắm được.
Và như chúng ta đã biết, ngày
1.11.1963, một nhóm tướng lĩnh do Mỹ bật đèn xanh, đã tiến hành đảo chính lật
đổ chế độ Ngô Đình Diệm. Anh em ông Diệm, ông Nhu bị chết thảm. “Hội đồng quân
nhân cách mạng” (HĐQNCM) do tướng Dương Văn Minh đứng đầu lên cầm quyền. Phạm
Ngọc Thảo dù không chủ động tham gia cuộc đảo chính này, vẫn được HĐQNCM cử làm
tùy viên báo chí, sau đó được cử sang Mỹ tu nghiệp. HĐQNCM cầm quyền được 2
tháng, đã bị tướng Nguyễn Khánh và tướng Trần Thiện Khiêm 2 lần “chỉnh lý”,
thâu tóm mọi quyền lực.
Lên cầm quyền, Nguyễn Khánh rút
Phạm Ngọc Thảo về nước, cử làm giám đốc báo chí, phát ngôn viên chính phủ, lúc
này ông đã được thăng đại tá. Mâu thuẫn giữa các tướng lĩnh trong giới cầm
quyền ngày càng gay gắt, Nguyễn Khánh tiếp tục loại Trần Thiện Khiêm, đưa ông
tướng này đi làm đại sứ tại Mỹ. Phạm Ngọc Thảo cũng được đưa sang Mỹ làm tùy
viên văn hóa, quân sự vào đầu tháng 10.1964. Ông đưa luôn vợ con sang (họ định
cư ở Mỹ cho đến ngày nay). Tuy nhiên, sau đó do nghi ngờ Phạm Ngọc Thảo, nên
cuối năm 1964, Nguyễn Khánh ra lệnh triệu hồi Phạm Ngọc Thảo về nước, với ý đồ
sẽ bắt ông tại sân bay Tân Sơn Nhất. Phạm Ngọc Thảo đã khôn khéo không về đúng
giờ bay dự định nên thoát. Có mặt ở Sài Gòn, ông bí mật móc nối tổ chức
lực lượng, kéo tướng Lâm Văn Phát và hàng chục sĩ quan khác tiến hành cuộc đảo
chính ngày 19.2.1965.
Điều kỳ lạ là lúc đó Phạm Ngọc
Thảo, tuy là đại tá nhưng không cầm quân và đang bị Nguyễn Khánh truy bắt, lại
có thể tổ chức và chỉ huy một lực lượng không dưới một sư đoàn làm binh biến
(gồm các đơn vị thiết giáp với 45 xe tăng và thiết giáp, các đơn vị địa phương
quân, lực lượng của Trường bộ binh Thủ Đức và chủ lực là trung đoàn 46 thuộc Sư
đoàn 25 bộ binh). Cuộc binh biến do tướng Lâm Văn Phát cầm đầu về danh nghĩa,
còn thực tế do Phạm Ngọc Thảo tổ chức và chỉ huy, sau này người ta gọi ông là
“Tư lệnh hành quân 19.2”.
Chỉ trong 1 ngày, lực lượng đảo
chính đã chiếm Bộ Tổng tham mưu, Bộ Tư lệnh biệt khu thủ đô (trại Lê Văn
Duyệt), Đài phát thanh Sài Gòn, bến Bạch Đằng và sân bay Tân Sơn Nhất. Đáng
tiếc là do một số sơ sót trong hợp đồng tác chiến, Nguyễn Khánh đã được Tư lệnh
Không quân lúc đó là Nguyễn Cao Kỳ cứu thoát.
Chúng tôi có dịp gặp ông Nguyễn
Cao Kỳ năm 2008. Hỏi về sự kiện này, ông Nguyễn Cao Kỳ nói: “Cái ông Phạm Ngọc
Thảo này rất lạ. Hồi đó nhiều người nghĩ ổng là cộng sản, nhưng lạ là không ai
làm gì được ổng. Ổng nói nhỏ nhẹ và rất thuyết phục, ai cũng nghe. Năm 1965,
tôi mà không ngăn cản thì ổng đã làm Thủ tướng rồi”. Ngẫm nghĩ một hồi, ông Kỳ
nhớ lại: “Cuộc đảo chính diễn ra bất ngờ đến mức tôi không kịp mặc áo, chỉ mặc
may ô chui hàng rào thép gai ra lấy máy bay chạy về Biên Hòa. Sau đó ông Thảo
lên Biên Hòa gặp tôi, cùng đi có một đại tá Mỹ. Ổng thuyết phục tôi ủng hộ quân
đảo chính. Nói thật là tôi không ưa gì Nguyễn Khánh, nhưng quân đội đánh nhau
tôi không đồng ý. Tôi bảo các anh phải cho quân về ngay doanh trại, đến 5 giờ
chiều mà không rút quân tôi sẽ cho máy bay ném bom”. Đó là lý do khiến cuộc đảo
chính thất bại.
Tuy nhiên, Nguyễn Khánh cũng bị
loại. Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ và một số tướng lãnh được sự hậu thuẫn
của người Mỹ đã lựa gió phất cờ, họp Hội đồng tướng lãnh buộc Nguyễn Khánh từ
chức và trục xuất ông này ra nước ngoài với danh nghĩa là “đại sứ lưu động”, cử
tướng Nguyễn Chánh Thi làm chỉ huy chống đảo chính, ra lệnh cho Phạm Ngọc Thảo,
Lâm Văn Phát cùng 13 sĩ quan “đầu sỏ” tham gia đảo chính trong vòng 24 giờ phải
ra trình diện. Phạm Ngọc Thảo, tướng Lâm Văn Phát, trung tá Lê Hoàng Thao
(Trung đoàn trưởng Trung đoàn 46) bỏ trốn.
Tháng 6.1965, Hội đồng tướng lĩnh
giải tán chính phủ dân sự của Phan Huy Quát, đưa tướng Nguyễn Văn Thiệu làm Chủ
tịch Ủy ban lãnh đạo quốc gia (tương đương quốc trưởng), tướng Nguyễn Cao Kỳ
làm Chủ tịch Ủy ban hành pháp trung ương (tương đương thủ tướng). Chính quyền
Thiệu - Kỳ lập tòa án quân sự để xử những người tham gia đảo chính. Phạm Ngọc
Thảo bị kết án tử hình vắng mặt, chúng treo giải thưởng 3 triệu đồng cho ai bắt
được ông.
Lúc này tuy ông phải lẩn tránh sự
truy bắt của chính quyền, nhưng vẫn còn nắm được 1 tiểu đoàn. Ông liên lạc với
ông Võ Văn Kiệt. Ông Kiệt gặp ông và gợi ý ông ra chiến khu cho an toàn, có thể
dẫn theo tiểu đoàn này với danh nghĩa binh biến ly khai. Tuy nhiên, ông cho
biết ông vẫn còn có khả năng tổ chức đảo chính để ngăn chặn chính quyền quân
phiệt rước quân viễn chinh Mỹ vào gây tội ác. Ông Võ Văn Kiệt đồng ý.
Phạm Ngọc Thảo tiếp tục hoạt động
bí mật ở Sài Gòn, cho xuất bản tờ “Việt Tiến” để tập hợp lực lượng. Ông được
các giám mục, linh mục, giáo dân Công giáo cùng nhiều bạn bè trong và ngoài
quân đội giúp đỡ, bảo vệ.
Còn Nguyễn Văn Thiệu, sau khi lên
nắm chính quyền, thấy rõ Phạm Ngọc Thảo là mối đe dọa nguy hiểm đến vị trí
quyền lực của mình, nên quyết tìm mọi cách tiêu diệt ông để trừ hậu họa. (còn tiếp)
Cái chết
bi thảm và sứ mệnh hoàn hảo
26/12/2012 00:25
“Tôi biết chắc những người có dụng ý loại trừ
Thảo không muốn chuyện bắt bớ kéo dài kéo theo nhiều chuyện lôi thôi. Bởi họ
không thể không biết đại tá Phạm Ngọc Thảo rất được cảm tình và sự che chở của
nhiều chức sắc cao cấp Công giáo” - linh mục Nguyễn Quang Lãm.
Chúng tôi hỏi ông Nguyễn Cao Kỳ:
“Ai đã giết Phạm Ngọc Thảo?”. Ông Kỳ: “Sau lần tiếp xúc ở Biên Hòa, tôi không
gặp Phạm Ngọc Thảo nữa và không quan tâm đến chuyện của ông ấy”. Hỏi: “Hồi đó
mọi người đều nói tướng Nguyễn Ngọc Loan tự tay giết chết Phạm Ngọc Thảo. Mà
tướng Loan từng là người thân cận của ông?”. Ông Kỳ: “Tôi không biết ông Loan
có giết ông Thảo hay không, nhưng mọi quyết định đều do ông Thiệu”.
|
|
|
Cuộc đời ông kết thúc bi
thảm, nhưng sứ mệnh ông thực hiện là hoàn hảo. Sự hoàn hảo không phải trên
vỏ bọc mà ở hành động vì nước vì dân không che giấu, ở cuộc sống chính trực
và tấm lòng chân thành
|
|
|
|
|
|
“Mọi quyết định đều do ông
Thiệu”, ông Kỳ nói đúng. Nhưng ông Kỳ nói ông không quan tâm đến ông Thảo thì
chưa chắc đúng.
Linh mục Nguyễn Quang Lãm, chủ
bút Báo Xây Dựng, là người có tình cảm đặc biệt đối với Phạm Ngọc Thảo. Ông
không những che chở, giữ liên lạc và làm tất cả những gì có thể làm được để
giúp Phạm Ngọc Thảo mọi lúc mọi nơi, mà còn đăng công khai trên báo chí những
điều tốt đẹp nhất về Phạm Ngọc Thảo, dù ai có nói ông Thảo là cộng sản ông cũng
mặc kệ. Sau khi ông Thảo bị giết hại, Báo Xây Dựng của cha Lãm đã đăng loạt bài
điều tra 40 kỳ về cái chết của ông. Chưa hết, gần 10 năm sau, vào năm 1974, cha
Lãm còn viết một loạt bài nhiều kỳ đăng trên Báo Hòa Bình, lại đề cập đến việc
ai đã giết Phạm Ngọc Thảo, ai đã bán đứng Phạm Ngọc Thảo.
Theo cha Lãm thì: “Đại tá Phạm
Ngọc Thảo là người can đảm, một kẻ dám làm một cái gì, một người có những tư
tưởng lạ, những tư tưởng lớn về chuyện Đất Nước”. Ông nghĩ vậy và ông nghĩ rằng
ông Nguyễn Cao Kỳ cũng có thể nghĩ như ông, vì ông biết ông Kỳ rất muốn gặp
Phạm Ngọc Thảo sau cuộc đảo chính. Cha Lãm muốn đưa ông Thảo đến trại Phi Long
(căn cứ không quân) gặp Nguyễn Cao Kỳ, nhưng vì mỗi lần gặp ông Kỳ cứ nhắc đi
nhắc lại “Anh ta đâu?” một cách sốt sắng, nên vị linh mục đâm ra cảnh giác:
“Nhỡ ra tướng Kỳ nổi hứng hay nổi đóa giữ Phạm Ngọc Thảo lại nộp cho cơ quan an
ninh thì sao?”. Vì vậy, thay vì đưa ông Thảo đến, cha Lãm đến gặp ông Kỳ đề
nghị đưa ông Kỳ đến gặp ông Thảo tại một địa điểm bí mật với điều kiện: đi một
mình, không cho cận vệ đi kèm, không dắt súng lục, không nhấc điện thoại gọi về
nhà dù chỉ bảo “Hôm nay không về ăn cơm nhà”. Hôm đó ông Kỳ “OK” nhưng bảo
“đang bận hôm nay không đi được”. Cha Lãm thuật lại chuyện này với Phạm Ngọc
Thảo, nhưng ông Thảo bảo cha không cần thận trọng như thế, rằng ông có thể đến
trại Phi Long gặp ông Kỳ được, rằng “mời ông ta ra chỉ cho thấy mình yếu bóng
vía và không tin cậy ông ta”. Hai hôm sau, cha Lãm tới nơi ông Thảo lánh nạn
(tại một cao ốc trên đường Ngô Đức Kế) để đưa ông Thảo vào trại Phi Long thì
ông Thảo đã rời khỏi chỗ này rồi, do bị lộ, an ninh đến lục xét. Một tuần sau,
cha Lãm mới hết lo lắng khi ông Thảo nhắn cha lên Biên Hòa và cho biết mình
đang ở chỗ xứ cha Cường. Vị linh mục kể lại chuyện này kèm theo những lời trìu
mến: “Chỉ tội ở đó không có điện thoại để con người làm cách mạng đó móc nối
liên lạc với các đồng chí và lúc buồn buồn có thể nói được dăm ba câu với một vài
người đẹp”. Nhưng 3 tuần sau, ngày 17.7.1965, cha Lãm nhận được điện thoại của
một ký giả làm cho một hãng thông tấn ngoại quốc báo tin ông Thảo đã bị giết
rồi.
Tài liệu chính thức của ta hiện
nay đều nói về cái chết của Phạm Ngọc Thảo: Ông bị an ninh chính quyền
Sài Gòn bắt đem đi thủ tiêu vào ngày 15.7 nhưng ông chỉ bị thương nặng, được
các linh mục và nữ tu đem về một tu viện chăm sóc, sau đó nhà cầm quyền truy
lùng tung tích và bắt ông đưa về cơ quan an ninh quân đội vào ngày 16.7. Tại
đây, Nguyễn Ngọc Loan và thuộc hạ đã tra tấn và bóp hạ bộ ông cho đến chết ngay
trong đêm hôm đó. Báo chí và dư luận ở Sài Gòn trước giải phóng cũng nói như
vậy. Chính cha Lãm đã trực tiếp gặp Nguyễn Ngọc Loan để hỏi cho ra nhẽ. Tướng
Loan chối, bảo rằng không có chuyện đó, rằng ông Thảo chết là do bị thương quá
nặng, thậm chí ông ta còn nói mình không liên quan đến chuyện bắt bớ ông Thảo.
Vị linh mục nói ông đã đem lời tướng Loan kể lại cho đàn em và bạn bè Phạm Ngọc
Thảo, nhưng không ai tin, “người ta sẵn sàng tin là tướng Loan nói thật, nhưng
đó là sự thật ghi trên các phúc trình, báo cáo, biên bản của bác sĩ”.
Phạm Ngọc Thảo bị sát hại - Ảnh: Tư Liệu
|
Cha Lãm còn cho hay, Phạm Ngọc
Thảo thường thay đổi chỗ ở với những hành tung lạ lùng, có khi ông ở ngay gần
bót cảnh sát, ở chỗ nào ông cũng cho cha Lãm biết. Cuối cùng, khi những nơi
khác không an toàn, ông về xứ Đa Minh của cha Cường ở Thủ Đức, rồi đến trú tại
tu viện Phước Sơn. Tại đây, cha Lãm cũng làm hết sức mình để ông được an toàn
nhất. Ông được các linh mục hết lòng bảo vệ, tuy nhiên, theo cha Lãm thì chính
lòng tốt và sự thiệt thà của các linh mục bảo vệ ông đã khiến ông bị lộ. Khi
ông bị thủ tiêu không chết, được các linh mục đưa về giáo xứ Đa Minh cứu chữa,
bọn chúng cũng lần theo các linh mục để truy tìm ông.
Cha Lãm cho biết thêm, khi bọn
chúng cấp tốc đưa Phạm Ngọc Thảo về Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 trong tình trạng bị
thương rất nặng, một chiếc trực thăng H-34 chở ông thẳng về Bộ Tổng tham mưu,
tại đây người của Nguyễn Ngọc Loan đã chờ sẵn, lúc đó là 7 giờ tối 16.7. Trên
quốc lộ 4, những người thân của Phạm Ngọc Thảo cũng rú ga xe chạy đến Mỹ Tho và
Cần Thơ gặp 2 vị giám mục, đã có những cú điện thoại gọi về trong đêm cho trung
tướng Thiệu, nhưng ngay trong đêm ông Thảo đã chết rồi. Vị linh mục còn viết
tiếp: “Tôi biết chắc những người có dụng ý loại trừ Thảo không muốn chuyện bắt
bớ kéo dài kéo theo nhiều chuyện lôi thôi. Bởi họ không thể không biết đại tá
Phạm Ngọc Thảo rất được cảm tình và sự che chở của nhiều chức sắc cao cấp Công
giáo. Nếu Phạm Ngọc Thảo bị giải về Sài Gòn, chờ ngày ra tòa lãnh án thì tất
nhiên sẽ có nhiều tiếng nói can thiệp, nhiều áp lực ngay cả do phía tòa đại sứ
Mỹ. Vì vậy biện pháp áp dụng là thủ tiêu ngay”.
Điều chắc chắn là Nguyễn Văn
Thiệu không tin ông Thảo là cộng sản, ông ta biết các vị chức sắc Công giáo
cùng nhiều sĩ quan thuộc quyền ông ta cũng không tin ông Thảo là cộng sản. Bởi
vậy mà Phạm Ngọc Thảo phải chết, vì ông là một đối thủ đáng gờm của người cầm
quyền. Một người được giới chức sắc Công giáo hậu thuẫn, được giới quân sự nể
phục, một người tay không mà tổ chức một cuộc binh biến khiến cho Nguyễn Khánh
đang nắm trong tay cả một quân đội phải chạy tóe khói, người ấy không đáng gờm
sao được! Nếu Nguyễn Văn Thiệu, nếu các vị giám mục, linh mục tin Phạm Ngọc
Thảo là cộng sản thì chưa chắc ông đã bị thủ tiêu. Những nhà tình báo lừng lẫy
như Vũ Ngọc Nhạ, Lê Hữu Thúy, Nguyễn Tài… cũng như nhiều cán bộ cách mạng cấp
cao bị bắt, giới cầm quyền biết chắc các vị là cộng sản, các vị bị đày ra Côn
Đảo, nhưng các vị có bị thủ tiêu đâu.
Phạm Ngọc Thảo chết khi mới 43
tuổi. Cuộc đời ông kết thúc bi thảm, nhưng sứ mệnh ông thực hiện là hoàn hảo.
Sự hoàn hảo không phải trên vỏ bọc mà ở hành động vì nước vì dân không che
giấu, ở cuộc sống chính trực và tấm lòng chân thành. Cho đến bây giờ, khi biết
ông là người của cách mạng, những bạn bè và những người quen biết ông từng ở
phía bên kia vẫn yêu mến, vẫn ngưỡng mộ ông.
Hoàng Hải
Vân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét