(Bài sưu tầm trên mạng internet)
Hồ Chí Minh, những ngày sinh và một lá số tử vi
Sắp đến 19/5 lại thấy báo chí,
truyền hình bắt đầu “nhớ về Bác”. Xét lại thì thấy mình chưa viết một bài
nào về ông cụ bởi bất cứ bài nào viết về ông cụ dù là bất cứ ai viết và viết
kiểu thì gì ở dưới cũng có rất nhiều tranh cãi thậm chí cắn xé lẫn nhau. Mình
không thích viết ra để người ta tranh cãi nên vẫn chưa viết. Hôm nay thử viết
một bài về cụ theo cách tiếp cận mới “ít tranh cãi” mà lại gắn với “sự kiện”
xem sao.
Ngày 19/5 cách đây 74 năm một tổ chức tên
không hề lạ là Việt Minh đã ra đời tại Pác Bó Cao Bằng, song cho đến nay chẳng
mấy ai chú ý tới cái ngày thành lập tổ chức này, tuy vậy không phải vì thế mà
ngày 19/5 bị lãng quên mà nó đã trở nên quá quen thuộc với người Việt Nam
với ý nghĩa là ngày sinh chủ tịch Hồ Chí Minh. Liệu rằng đây có phải là
một sự trùng hợp ngẫu nhiên của lịch sử giống như ngày mất của ông trùng
với ngày quốc khánh? Khi nói về cái ngẫu nhiên thường người ta bỏ qua
luôn lý do xuất hiện của nó vì đơn giản nó xảy ra một cách “không cố ý” tuy
nhiên lịch sử lại chưa đầy những hành động có chủ ý của con người. Và một trong
những chủ ý như thế của Hồ Chí Minh đã tạo ra một “ngày sinh nhân tạo”
cho mình.
Sinh nhật chính trị
Sẽ là không ngoa chút nào khi nói
ngày sinh nhật 19/5 của chủ tịch Hồ Chí Minh là là sinh nhật chính trị vì
nó tạo ra hoàn toàn vì mục đích chính trị.
Bây giờ chúng ta quay về thời điểm lịch sử
xung quanh tháng 5/1946.Vào ngày 6/3/1946 Hồ Chí Minh cùng Jean Sainteny
đã ký kết hiệp định sơ bộ Pháp-Việt. Theo đó Pháp thừa nhận Việt Nam là một quốc
gia tự do (état libre), có chính phủ riêng, nghị viện riêng và tài chính riêng
trong Liên Bang Đông Dương và trong khối Liên Hiệp Pháp. Việt Nam sẵn sàng
tiếp đón quân đội Pháp đến thay thế quân đội Trung Hoa Dân Quốc để giải giáp
quân đội Nhật . Hiệp định này được xem là một nước cờ chính trị của cả hai bên
nhằm mưu đồ lợi ích riêng. Chính vì thế mà nó bị các đảng phái khác ra sức công
kích dữ dội xem nó là “Hiệp ước bán nước” khiến ông Hồ phải đứng ra thề trước
quốc dân đồng bào trong một cuộc mit tinh ở Nhà hát lớn: “Hồ Chí Minh không bán nước!” Những diễn biến này đặt
ông trước những tình thế nhạy cảm tiếp theo.
Sau Hiệp định Sơ bộ, quân Pháp bắt đầu vào
miền Bắc và sớm gây sự. Quân Tưởng rút dần nhưng chậm. Cao ủy Pháp D’Argenlieu
đề nghị gặp Hồ Chí Minh trên Vịnh Hạ Long. Cuộc gặp gỡ đi đến các thỏa thuận:
Mở cuộc đàm phán trù bị ở Đà Lạt. Khi trù bị kết thúc sẽ mở đàm phán chính thức
ở Paris. Phía
Pháp đồng ý mời một đoàn đại biểu Quốc hội Việt Nam sang thăm Pháp. Cùng dịp này,
Chính phủ Pháp mời Hồ Chí Minh sang thăm Pháp với danh nghĩa thượng khách của
nước Pháp. Đây là cơ hội lớn để đề cao vị thế của Việt Nam, tranh thủ dư luận
Pháp, tranh thủ đấu tranh về vấn đề Việt Nam trực tiếp với Chính phủ Pháp,
tránh giáp mặt với thực dân Pháp ở Đông Dương.
Trong lúc Hồ Chí Minh chuẩn bị chuyến đi thì Cao ủy Pháp D’Argenlieu, mở cuộc kinh lý khu vực phía bắc vĩ tuyến 16 từ ngày 14/5/1946. D’Argenlieu đến Vientiane ngày 17/5/1946, đến Hà Nội chiều ngày 18/5/1946. Trên danh nghĩa, D’Argenlieu là cao uỷ, đại diện chính phủ Pháp tại Đông Dương. Việt Nam là một quốc gia trong Liên Bang Đông Dương nên theo nghi thức ngoại giao, để đón tiếp cao ủy, phía Việt Nam phải treo quốc kỳ trong ba ngày để đón D’Argenlieu. Dư luận trong nước thì vẫn còn đang sôi sục vì Pháp đã chiếm lại Nam Bộ, quả này mà dân thấy treo cờ ra với lý do chào đón “toàn quyền” thì thể nào “bọn phản động” cũng có cớ sẽ làm rùm beng lên công kích chính phủ Việt Minh bán nước cho mà xem :D. Đúng là một bài toán khó cho ông Hồ và các đồng chí của mình.
Quân đội Pháp thì muốn tổ chức lễ đón
D’Argenlieu thật long trọng để phô trương thanh thế và khẳng định sự quay trở
lại của Pháp. Họ mời Hồ Chí Minh tới dự vào ngày 19/5/1946. Ngày 18 sau
khi nhận được giấy mời ông Hồ liền cử bộ trưởng Phan Anh tới dự và sau đó yêu
cầu thư ký Vũ Đình Huỳnh mời các lãnh đạo trong chính phủ và các đoàn thể tới
Bắc Bộ Phủ dự lễ sinh nhật mình vào ngày hôm sau. Theo Hồi ký “Tháng tám
cờ bay” của Vũ Đình Huỳnh có đoạn:
“Khi tôi báo tin về ngày sinh
của Bác, mọi người cằn nhằn sao nước đến chân mới nhảy. Anh Trường Chinh nói
rằng tôi đã biết ngày sinh của Bác mà không nói trước. Tôi thưa lại: Bác vừa
bảo thì tôi đến đây ngay”.
Chi tiết này cho thấy ngày sinh nhật
đùng một cái được đẻ ra này chắc đến 100% là sinh nhật giả. Vì đâu mà ông Hồ
lại sinh khéo thế đúng vào dịp có “việc phải xử lý”.Hôm sau, cả Hà Nội
bừng lên màu cờ, biểu ngữ chúc mừng sinh nhật Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tối 19/5,
lễ mừng chính thức được tổ chức trọng thể tại Bắc Bộ Phủ. Không khí tưng bừng,
quan khách tấp nập. Các đoàn thiếu nhi gõ trống ca vang trong phủ. Trong không
khí rộn ràng đó, Cao ủy D’Argenlieu và Ủy viên Cộng hòa Sainteny mang hoa đến
“chúc mừng sinh nhật Hồ chủ tịch”.
Hiệu quả của việc lựa chọn ngày sinh
cho mình của Hồ Chí Minh đã giúp ông đi một nước cờ ngoại giao có ý nghĩa cả về
mặt đối nội và đối ngoại. Đối với dân chúng ông đã tìm được một lý do để
treo cờ “đón giặc Pháp” là để mừng thọ “cha già dân tộc”, tạo thêm hậu thuẫn
cho bản thân và Việt Minh, đo được sự ủng hộ của dân chúng đối với mình, cũng
như kiềng mặt các đảng phái đối lập. Đối với các đồng chí là cơ hội biểu dương
lực lượng chào mừng ngày thành lập Việt Minh. Còn đối với Pháp ông đã đảo
ngược thế cờ, đổi vị thế chủ và khách với phía Pháp, tránh không đến dự buổi lễ
phía Pháp tổ chức mà lại kéo hai đại diện chính của nước Pháp đến chào mình,
nói theo kiểu vẫn thấy trong phim Trung Quốc là “hạ thấp oai phong của
địch nâng cao uy thế của ta”, tạo bước đệm tốt cho chuyến thăm của ông
sang Pháp sắp tới. Nói chung là một mũi tên trúng nhiều con chim và từ
sau sự kiện đó thì ngày 19/5 được chính thức hóa trở thành ngày sinh Hồ Chí
Minh.
Tự vẽ rồng
Từ những dữ kiện trên có đủ kết luận là
ngày 19/5 thực tế là một ngày sinh nhật chính trị, vậy còn những dữ kiện nào
khác về ngày sinh Hồ Chí Minh đã được biết tới trong các hồ sơ lưu trữ?
Căn cứ theo lá thư Nguyễn Tất
Thành tại Marseille ngày 15/9/1911 gửi tổng thống Pháp để xin vào học trường
thuộc địa tại Paris lấy từ cuốn Ho Chi Minh: A Life của William
J.Duiker thì phía dưới lá thư ký: Nguyễn Tất Thành, Sinh tại Vinh, 1892
con trai ông Nguyễn Sinh Huy (tiến sĩ văn chương) sinh viên tiếng Pháp và Trung
Quốc.
Theo Jacques Dalloz trong cuốn
” Les Vietnamiens dans la Franc-Maçonnerie coloniale ” ( Người Việt trong hội
tam điểm thuộc địa ) thì trong đơn xin vào Hội Tam Điểm (Franc-Maçonnerie) vào
đầu năm 1922, Hồ Chí Minh, lúc đó có tên là Nguyễn Ái Quốc, ghi trong phiếu cá
nhân rằng ông sinh ngày 15/2/1895.
Trong tờ khai của ông tại Đại
sứ quán Liên Xô ở Berlin, vào tháng 6 năm 1923, thì ngày sinh là 15/2/1895 (
trùng với ngày khai ở trên ).
Hộ chiếu Tổng lãnh sự quán
Trung Hoa tại Singapore
cấp ngày 28/4/1930 cho Tống Văn Sơ ghi năm sinh là 1899.
Còn theo sử gia Daniel
Hémery, dựa theo các nguồn của kho lưu trữ của chính phủ Pháp có một tờ khai
tại sở cảnh sát Paris năm 1902, Hồ Chí Minh lại khai là sinh ngày
15/01/1894.
Cũng theo ông này thì có một
nguồn tin khác nữa là khai sinh của Hồ Chí Minh được những người làm chứng ở
Kim Liên xác nhận đã được cơ quan mật thám xác lập năm 1931 (tức khoảng 40 năm
sau) thì chỉ ra ngày sinh của Nguyễn Sinh Cung vào tháng 03 năm Thành Thái thứ
6, tức khoảng tháng 04 năm 1894.
Trong cuốn truyện “những mẩu chuyện về cuộc
đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch” dưới bút danh Trần Dân Tiên ông Hồ đã nêu ra một
triết lý:
“Một
nhà họa sĩ vẽ giỏi không bao giờ vẽ nguyên cả một con rồng, mà vẽ con rồng khi
ẩn, khi hiện giữa những đám mây”.
Có lẽ ông đã sử dụng nguyên lý này để chỉ
đạo các hành động của mình nên đã chủ động tạo ra rất nhiều đám mây xung quanh
bản thân mình cả trong điều kiện phải lẩn tránh sự theo dõi chú ý của kẻ thù
cũng như xây dựng hình ảnh vị lãnh tụ tối cao trong dân chúng. Qua sự sai khác
giữa các thông tin trong các hồ sơ mà ông tự khai cho thấy từ khi còn rất sớm
ông đã có ý thức “bảo mật thông tin” của một “điệp viên” khá rõ rệt.
Dữ liệu mà một điệp viên tự khai thì độ tin
cậy không thể cao vì mục đích của thông tin đó tự thân nó không phải cung cấp
sự thật. Vì thế muốn biết ngày sinh thực của Hồ Chí Minh thì giải pháp tốt nhất
là tìm kiếm gián tiếp qua thông tin của những người thân cận với ông.
Dữ liệu từ những ký ức
Khi nghiên cứu lịch sử ngoài các hồ sơ lưu
trữ, các tư liệu được giải mật thì các cuốn hồi ký cũng là một nguồn tư liệu
hết sức quan trọng. Trong số các cuốn hồi ký hot thì gần đây nhất là “Đèn cù”
của Trần Đĩnh cũng có nhắc đến chi tiết về năm sinh của Hồ Chí Minh:
“Tháng 3, Tố Hữu triệu tập mấy người lập nhóm viết tiểu sử Hồ Chí Minh với danh nghĩa Ban nghiên cứu lịch sử đảng. Gồm Tố Hữu, Phạm Bình (Ban nghiên cứu lịch sử đảng), Nguyễn Huy Tưởng, Hoài Thanh và tôi. Hai nhà văn vào tận quê Cụ sưu tầm tài liệu. Phạm Bình cung cấp tài liệu. Tôi viết. Cố nhiên cũng sưu tầm cả tài liệu. Hai nhà văn trở ra với nhiều điều giật gân. Cụ sinh năm 1891! Cụ Khiêm, anh trai Cụ nói thế, có bằng chứng hẳn hoi trong gia đình và họ hàng. Báo cáo với Cụ thì Cụ nói của người ta thế nào thì cứ để thế không sửa gì hết. Hai nhà văn và tôi bảo nhau: Bác muốn dân dễ nhớ nên lấy tròn 1890″.
Điểm lưu ý trong đoạn trên là Trần Đĩnh
khẳng định “có bằng chứng hẳn hoi trong gia đình và họ hàng” vậy bằng chứng đó
là gì? Chúng ta có thể tìm thấy một sự tương thích về mặt nội dung trong thông
tin của Trần Đĩnh và thông tin từ một người họ hàng của Hồ Chí Minh
là nhà văn Sơn Tùng.
Trong ký lục về buổi nói chuyện của Sơn
Tùng ngày 27/4/2001 tại Trường Cán bộ Quản lý Giáo dục Đào tạo có đoạn:
” Thế kỷ 19, Bác Hồ sinh ra năm
1891, tôi nói đây là nói nghiên cứu từ gốc. Bây giờ nói Bác sinh năm 1890,
nhưng tôi nghiên cứu tử vi của Bác thì Bác sinh năm 1891. Bác đi làm cách mạng,
Bác khai 1890, nhiều người chúng ta khi đi học, đi hoạt động cũng khai bớt hoặc
thêm tuổi như thế. Bác sinh năm 1891. 1895 Bác vào Huế, tuổi ta là 5 tuổi, tuổi
bắt đầu có trí nhớ, tuổi mà người ta dễ nhớ nhất là tuổi này, tuổi lên 5 đến
lên 10. Bác 5 tuổi đi theo cha mẹ vào Huế khi ông Nguyễn Sinh Khiêm đưa cho tôi
cuốn “Tất Đạt tự ngôn” là tháng 6-1950. Sau đó ít tháng thì cụ qua đời. Trong
“Tất Đạt tự ngôn” thì cụ có ghi ba bài thơ về thời niên thiếu của em trai mình,
tức Bác Hồ.”
Ông Sơn Tùng có nhắc đến cả tử vi của Hồ
Chí Minh như vậy thì ngoài chi tiết về năm sinh 1891 thì ông chắc chắn còn biết
cả ngày tháng thâm chí là giờ sinh ( không biết thì không thể lập được là số tử
vi ). Lá số tử vi này do ai lập? Ngay trong đoạn sau của bài nói chuyện trên
cũng có đề cập thêm một lần nữa về lá số tử vi của Hồ Chí Minh qua lời kể của
ông cả Khiêm trực tiếp kể cho ông ( Sơn Tùng) nghe:
“Lúc đến chân Đèo Ngang, đường
lúc đó có đoạn sát với biển, không như đường ô tô bây giờ. Đến chân Đèo Ngang,
có bãi cỏ rất bằng, mẹ bác mới đặt gánh xuống, cha bác xếp ô lại bảo: chỗ này
phằng phiu, nghỉ lại đây ăn cơm nắm, để rồi leo đèo, Bác ngồi xuống thì ôm bàn
chân rộp, còn chú Thành thì nhảy chơi, mới hỏi cha:
-Thưa cha, cái gì ở trên
kia mà đỏ, lại ngoằn ngèo như rứa? Cha bác nói:
Đó là con đường mòn vắt
qua đèo, tí nữa ta phải đi leo trèo lên đó, lên cái đường mòn đó.
Thế rồi chú Thành mới ứng
khẩu luôn một bài thơ. Sau này bác ghi lại trong cuốn sách “Tất Đại tự ngôn”
này:
“Núi cõng con đường mòn
Cha thì cõng theo con
Núi nằm ì một chỗ
Cha đi cúi lom khom
Đường bám lì lưng núi
Con tập chạy lon ton
Cha siêng hơn hòn núi
Con đường lười hơn con”
Nói về văn, thơ, tôi là anh thanh niên năm 1950 tiếp xúc với bài thơ này trong cuốn “Tất Đại tự ngôn” của người anh ruột Bác Hồ viết lúc 5 tuổi thì tôi hơi sững sờ. Ông Khiêm nói tiếp:
Lúc đó, cha bác mới mở
cái ví vải lấy lá số tử vi của con ra xem, bác mới biết cha đã lấy tử vi cho
các con. Cha bác nói với mẹ:
Với thiên tư này, thằng
bé sẽ khó nuôi, có lẽ, quan Đào Tấn với ông ngoại đã nói như thế không nhầm.
Như vậy là ông Nguyễn Sinh Sắc đã lập
là số tử vi cho cậu con trai của mình. Điều này cũng không có gì là khó hiểu
bởi Nguyễn Sinh Sắc vốn là bậc túc nho, nói đến Nho là nói đến “Tứ thư, ngũ
kinh”, trong mấy sách này “Dịch quán quần kinh chi thủ” đứng đầu bảng là Kinh
Dịch vốn là cha đẻ của mệnh lý học. Từ cái gốc Dịch thì tỏa ra là các môn lý số
khác như Tử vi, Thái Ất, Phong Thủy etc.., tầng lớp sĩ phu có danh vọng hồi xưa
có lẽ ông nào cũng thông thạo Nho, Y, Lý, Số cả. Cái tên chữ “Tất Thành”
ông đặt cho con trai phải chăng là đã ước đoán được con đường của cậu con trai
mình qua sơ đồ mệnh lý “Đa gian truân, hựu tất thành”?
Theo Thiếu Lăng Quân ( tên thật là Nguyễn
Tài Tư , còn có một tên khác là Hồ Chí Trung cũng là họ hàng gọi Hồ
Chí Minh bằng bác, tác giả của “Ba mươi năm mong đợi Bác về tập hồi ký
400 trang viết tay chưa xuất bản”) kể về vế lá số Tử Vi của cậu bé Nguyễn
Sinh Cung là:
“Cụ Nguyễn Sinh Sắc có lấy lá
số Tử Vi ngay và cụ Sắc cũng có đưa lá số này ra để giải đoán với các bạn
bè như cụ Phan Bội Châu, Vương Thúc Quý”.
Sau này ông Khiêm cải táng mộ cho mẹ là bà
Hoàng Thị Loan về núi Đại Huệ, người biết về Phong Thủy sẽ luận ra viễn án của
ngôi mộ bà Loan là dãy núi Hồng Lĩnh như một đàn ngựa đang rong ruổi,
minh đường là dòng sông Lam vắt qua, tiền án là ngọn rú Dầu, phân tích
này chứng tỏ là ông Khiêm cũng được truyền lại các kiến thức Phong Thủy từ cha
mình và các bậc tiên nho khác.
Tư duy dịch lý phương đông
Là một người có gốc cựu học vững vàng Hồ
Chí Minh có lẽ còn giỏi dịch lý hơn cha và anh trai mình. “Dĩ bất biến ứng vạn
biến” là câu nói khá nổi tiếng mà ông dặn dò một nhà nho khác là Huỳnh
Thúc Kháng trước khi lên đường sang Pháp dự Hội nghị Fontainebleau đã khắc họa
sâu sắc nguyên lý dịch học “Bất dịch, Biến dịch và Giản dịch”. Ông cũng đã vận
dụng điều này qua những phát biểu khác nhau, có nhiều cái bất biến được ông
khẳng định như:
“Nước Việt Nam là một, dân tộc
Việt Nam là một, sông có thể cạn núi có thể mòn nhưng chân lý ấy không bao giờ
thay đổi”.
“Dù có phải đốt cháy cả dãy
Trường Sơn cũng quyết phải giành cho được độc lập”.
“Không có gì quý hơn độc lập tự
do”.
Rõ ràng là với ông những khái niệm “Tự do,
Độc lập, Thống nhất” ở trong ông là những khái niệm bất di bất dịch, trong khi
đó ông lại khá sức uyển chuyển ( biến dịch ) trong sách lược chính trị ngoại
giao cũng như cách ứng xử. Vì đã đi khắp nơi, uống cả mực Tàu và mực Tây nên
trong số đồ nghề ông sử dụng có đầy đủ các thể loại Anh, Pháp, Mỹ, Nga, Hoa và
ông cũng không đề cao duy nhất một loại mực nào. Ông thường làm những
điều tưởng chừng như rất nghịch lý nhưng đem lại hiệu quả khá cao:
Dùng chủ nghĩa cộng sản làm phần mềm để xây
dựng và tập hợp lực lượng nhưng lại customize nó bằng cách viết ra một cương
lĩnh mang màu sắc dân tộc chủ nghĩa khi thành lập Đảng cộng sản
Đông Dương khiến ông bị các đồng chí của mình là Hà Huy Tập, Trần Phú phê phán
gay gắt là “chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh” kéo theo việc ông bị mất ảnh hưởng
trong đảng của mình thời gian sau đó. Tuy nhiên sau này nhờ vào đường lối dân
tộc và bộ máy tổ chức kiểu cộng sản mà ông giành được mục tiêu của mình còn
những người đã từng phê phán ông thì đều đi vào con đường thất bại và chết sớm.
Ông trích dẫn Tuyên ngôn độc lập Mỹ
và Tuyên ngôn nhân quyền dân quyền Pháp vào Tuyên ngôn độc lập Việt Nam chứ
không phải lời nói nào đó của Marx hay Lenine. Theo hồi ký “Con rồng An Nam”
thì Hồ Chí Minh nói với Bảo Đại là ông cho mấy lời đó vào để “làm đẹp
lòng người Pháp và người Mỹ” , ông cũng có lần đề nghị Bảo Đại phục vị còn
ông sẽ đứng sau làm thủ tướng với lý do mà ông thổ lộ với Bảo Đại là
người Pháp, người Mỹ họ không tin ông vì “họ thấy tôi quá đỏ” ông
sẵn sàng lùi lại sau để phương Tây thấy chính phủ của ông “bớt đỏ đi” . Trước
khi chết Bảo Đại còn trả lời nhà sử học Frédéric Mitterand ( cháu của
Tổng thống François Mitterand ) trong một cuộc phỏng vấn trực tiếp được
phát trên truyền hình Pháp nhiều lần trong đó có đoạn:
Bảo Đại: “Vâng, xin đừng quên
rằng cụ Hồ xuất thân từ một gia đình quan lại. Và cụ đã đối xử với tôi như tôi
còn làm vua. Cụ cấm những người xung quanh cụ gọi tôi bằng đồng chí, bằng những
tên gọi của giai cấp vô sản, và luôn luôn gọi tôi là Hoàng thượng.
Gửi thư cho cả 2 ông trùm của 2 phe thù
địch là Truman và Stalin đề nghị công nhận độc lập của Việt Nam.
Hợp tác với sĩ quan OSS của Mỹ và sau này là đi dây với cả Liên
Xô và Trung Quốc .
Về đối nội thì ông không thể hợp những
người “đồng chí cộng sản” Trotskyist khác đường lối như Tạ Thu Thâu nhưng lại
sẵn sàng sử dụng cựu đảng viên Quốc dân đảng như Nguyễn Bình làm tư lệnh thống
nhất các lực lượng vũ trang miền Nam.
Trong buổi phỏng vấn ngày 25/6/1946, Hồ Chí
Minh đã trả lời đảng viên Xã hội Daniel Guérin về cái chết của Tạ Thu Thâu như
sau: Ce fut un patriote et nous le pleurons… Mais tous ceux qui ne suivent pas la ligne tracée par moi
seront brisés. Tạ Thu Thâu là một nhà ái quốc, chúng tôi đau buồn khi hay
tin ông mất… Nhưng tất cả những ai không theo con đường tôi đã vạch đều sẽ bị
tiêu diệt ).
Trong “Tứ
trụ triều đình”: Giáp, Duẩn, Đồng, Chinh thì hai người có vẻ thân thiết với ông
hơn là Võ Nguyên Giáp và Phạm Văn Đồng đều là người của “Tân Việt cách mạng
đảng” trước rồi thành đảng viên CS sau chứ không phải đi theo CS ngay từ đầu
như các ông Trường Chinh và Lê Duẩn.
Ông có thể
một phát phong ngay cho một anh giáo Võ Nguyên Giáp hàm đại tướng tổng tư lệnh
trong khi sẵn sàng bỏ qua không cần dùng một anh “thừa tướng” đã từng trải qua
“Vạn lý trường chinh” như Nguyễn Sơn. Ông cũng đặt tên lại cho ông
Võ-Nguyên Giáp là Văn, phải chẳng đó chính là vì ông muốn nhắc nhở vị tướng của
mình một nguyên lý của Dịch là “Trong văn có võ, trong võ có văn”, “trong quân
sự có chính trị, trong chính trị có quân sự” và kẻ cầm quân không hiểu đạo lý
này sẽ không thể thành tướng tài được.
Tất cả những việc ông làm đều cho thấy ông
là người thực dụng không câu nệ hình thức, cái gì cũng có thể sử dụng được cốt
sao được việc, cốt sao đạt được những mục tiêu bất biến của mình, và qua mỗi
hành động đó đều có một nguyên lý nhất quán xuyên suốt mà ông cố gắng vận dụng
và thực hành đó là ” dung thông những cái trái khoáy, đối lập nhau, khai thác
những sự đối lập đó theo khía cạnh có lợi nhất trên toàn cục thay vì độc
tôn một mặt nào đó, loại bỏ cái còn lại”.
Người ta có thể lý giải cho những
hành đông này của ông bắt nguồn từ phép biện chứng của chủ nghĩa Marx vì chính
Engels đã từng nói “Everthing exists in pair” (mọi thứ tồn tại ở thế
lưỡng trị) tuy nhiên theo tôi có lẽ nó bắt nguồn từ lối tư duy “lưỡng tại
song hành” đẻ ra từ học thuyết âm dương thì đúng hơn, bởi phép biện chứng của
Marx không nhấn mạnh rằng các mặt đối lập có chứa đựng các yếu tố của của mặt
đối lập kia như học thuyết âm dương “Trong âm có dương và trong dương có âm” dù
nó có đề cập đến việc chuyển hóa lẫn nhau giữa các mặt đối lập.
Những dẫn chứng hơi dài dòng vừa rồi của
tôi là để chứng minh một niềm tin là Hồ Chí Minh là người am tường dịch lý một
cách sâu sắc và có vận dụng dịch học vào công việc của mình. Điều này chưa từng
đề cập đến trong các tài liệu nghiên cứu về ông do giới sử học trong và ngoài
nước tiến hành, có lẽ bởi với hệ thống lý luận XHCN thì dịch lý là sản
phẩm của chế độ phong kiến nên không thể đưa nó vào tài liệu nghiên cứu
chính thống, còn với giới nghiên cứu phương Tây thì “học thuật của phương Đông”
không phải là thứ được đánh giá cao.
Nếu không thừa nhận điều này thì sẽ khá khó
khăn trong việc lý giải tại sao Hồ Chí Minh có khả năng tiên đoán trước một số
điều ( vốn đã được kiểm chứng bằng dữ liệu chính xác ) . Ở đây tôi xin trích ra
một đoạn trong hồi ký của Nguyễn Đăng Mạnh, một cuốn hồi ký cũng từng gây xôn
xao văn đàn và xã hội cả ảo lẫn thực.
Một bí ẩn nữa là vì sao Hồ Chí
Minh đoán rất chính xác mấy thời điểm lịch sử quan trọng: năm 1945, chấm dứt
Đại chiến Thế giới thứ hai và Cách mạng tháng Tám thành công; năm 1954 chiến
thắng giặc Pháp (đoán từ năm 1950); năm 1975 chiến thắng giặc Mỹ (đoán năm
1960).
Theo Trần Quốc Vượng, vì ông có
tử vi.Năm 1943, khi Hồ Chí Minh viết câu kết bài “Diễn ca lịch sử nước ta”:
“Bốn nhăm sự nghiệp hoàn thành”, thì ở Hội nghị Téhéran, thủ lĩnh ba siêu cường
trong phe Đồng Minh là Stalin, Churchill, Roosevelt đoán, chiến tranh chấm dứt
năm1946.Không lẽ gì Hồ Chí Minh ở Việt Bắc, với một cái đài bán dẫn rất thô sơ,
lại đoán thời cuộc thế giới chính xác hơn ba tay trực tiếp chỉ đạo cuộc chiến
tranh chống phát-xít với những thông tin phong phú, cập nhật và những dữ kiện
đầy đủ. Mà ba tay này đâu có dốt nát gì!
Trần Quốc Vượng kết luận: cụ Hồ
có tử vi. Vượng cũng là tay rất sành sỏi tử vi. Anh nói, ở Thư viện Quốc gia có
cuốn Tử vi phú đoán của Lê Quý Đôn đã dịch. Vượng đến mượn. Cô thủ thư nói sách
không còn. Bố Trần Quốc Vượng có quen cụ Xước là giám đốc thư viện, Vượng đến
hỏi, cụ Xước nói: Ông Hoàng Minh Giám đến lấy cho cụ Hồ đọc rồi. Sách đang ở
chỗ cụ Hồ.
Anh Từ Sơn có tặng tôi tập Di
bút của Hoài Thanh (bản đánh máy lúc chưa xuất bản thành sách). Trong đó có
đoạn viết: “Năm 1945, khi quân Tưởng đã kéo vào dày đặc ở miền Bắc và quân Pháp
đã bắt đầu đánh phá ở miền Nam, anh Tố Hữu có dịp được gặp Bác. Anh thưa với
Bác:
‘Thưa cụ, một bên thì Tây, một
bên thì Tàu, bên nào đáng sợ hơn?’
‘Tây cũng không đáng sợ. Tàu
cũng không đáng sợ. Đáng sợ nhất là các chú.’ Ông Hồ trả lời như vậy”.
Ngẫm ra đây cũng là một tiên
đoán thiên tài của Hồ Chí Minh. Ngày nay Pháp, Mỹ đều rút hết rồi. Đất nước nếu
còn khốn khổ thì đúng là do “các chú”.
Chi tiết nói về khả năng tiên đoán tương
lai của Hồ Chí Minh không phải chỉ một mình Nguyễn Đăng Mạnh nhắc đến mà nó
được nhiều người khác từng tiếp xúc với ông nhắc lại nhiều lần trên các phương
tiện thông tin chính thống, chỉ có thông tin về việc ông Hồ Nghiên cứu tử vi là
lần thông tin mới .Dù rằng “môn dự đoán dựa trên dịch học” chưa được xác lập là
một môn khoa học thực sự bởi cái mã nguồn của nó vẫn chưa được mở
để trở thành open source mọi người cùng nghiên cứu nhưng có một thực tế
là công chúng vẫn đã và đang thừa nhận năng lực này ở một số nhân vật
lịch sử được tôn xưng là “Thượng thông thiên văn, hạ tường địa lý, trung
tri nhân sự, huyền cơ tham tạo hóa” như Thiệu Ung ở Trung Quốc và Nguyễn
Bình Khiêm ở Việt Nam. Khác với Thiệu Ung chuyên tâm vào học thuật, chú
trọng soạn thảo các trước tác dịch học, Nguyễn Bỉnh Khiêm không để lại
trước tác dịch học nào cả ( có một số tác phẩm để được cho là của cụ nhưng chưa
có bằng chứng xác thực, có thể người đời sau tạo ra mượn danh cụ để lấy uy )
nhưng ông lại được xem là người đã sắp xếp thế các thế lực chính trị tạo nên
cục diện lịch sử Việt Nam thế kỷ 16 qua việc “chỉ dẫn” cho các tập đoàn
Lê, Mạc, Trịnh, Nguyễn. Cũng có những ví dụ khác về những “trí thức cổ trang”
có bản lĩnh “Chọc trời khuấy nước, khuynh đảo thiên hạ” là “bậc thầy của
đế vương” từng dùng cái năng lực “thần cơ diệu toán” của mình can dự một cách
trực tiếp hoặc gián tiếp vào lịch sử lập nên các triều đại kéo dài mấy trăm năm
như Trương Lương, Gia Cát Lượng, Lưu Bá Ôn mà học thuật của mấy đồng chí
này không gì khác ngoài mấy món “Âm dương dịch lý, ngũ hành vật luận”.
Bất kể ai xuất phát từ quan điểm chính trị
nào mà nói mọi người đều phải thừa nhận rằng Hồ Chí Minh cũng là một nhân vật
“hùng tài đại lược” có tầm ảnh hưởng toàn cầu, căn cứ vào những hệ quả mà
ông tạo ra đối với lịch sử ( tôi không nói về việc nó là tiêu cực hay tích cực,
cái này tùy quan điểm lập trường của các phe phái theo các xu hướng chính
trị khác nhau, tôi chỉ nói về mức độ sâu và rộng của ảnh hưởng đó ) thì
bản lĩnh của ông so với các nhân vật đã nêu cũng không kém chút nào, thì không
có gì là phi lý nếu cho rằng bản lĩnh ấy một phần bắt nguồn từ học vấn về dịch
lý cũng như năng lực thực hành nó của ông.
Quay trở lại với chủ đề về ngày sinh,
tôi đồng tình với kết luận của Giáo sư Trần Quốc Vượng qua lời kể của
Nguyễn Đăng Mạnh, vì như tôi như đã dẫn chứng ở trên, tôi tin rằng
Hồ Chí Minh có căn bản dịch lý vững vàng và theo logic đó ông cũng
không am hiểu tư vi, tất nhiên ông là người biết rõ về ngày tháng
năm sinh của mình, chỉ có điều ông không muốn người khác biết. Song không
phải là không ai biết thông tin đó. Ngoài những người trong gia đình ông Hồ thì
trong giới nghiên cứu tử vi lý số Việt Nam nhiều người có biết những thông
tin này.
Giai thoại và thực tế
Có một lần tôi đọc được đâu đó trên một
trong các diễn đàn lý số mà người viết ( có lẽ đã cao tuổi và đang sống ở hải
ngoại ) kể được cụ Ba La ( người được xem là vua tử vi rất nổi tiếng ở Sài Gòn
trước 1975 lấy tên làng Ba La ( Hà Ðông ) làm tên hiệu, không ai biết được tên
tuổi thật của cụ, vốn là sĩ phu thế hệ Cần Vương, Duy Tân sau khi thất
bại chạy sang Tàu cụ Ba La sau lại về ngồi xem số ở chợ Hà Đông trước
1954 ) trực tiếp thuật lại là:
“Nhà tôi có vườn rộng, các ông ấy ông Võ -Nguyễn Giáp và ông Nguyễn – Hồ Chí Minh vẫn tới chơi xem số “, ” các ông ấy xuất thân ở miền đất xấu, gặp nhiều tai ương, chẳng được lâu, đất Việt ta thời xưa từ Thanh Hóa trở ra đất rộng sông dài, dựng nghiệp lâu dài được, miền Nghệ Tĩnh đất hẹp, bốc lên rồi tắt rất nhanh, chẳng quá hai ba giáp”.
Dữ kiện bỏ qua phán đoán của cụ Ba La thì có thể củng cố thêm khả năng Hồ Chí Minh có nghiên cứu tử vi của chính mình để ứng dụng nó vào sự nghiệp của mình là rất cao và có lẽ ông đã khá thành công trong việc này.
Một lá tử vi mẫu trong
sách
Vậy rốt cuộc thì Hồ Chí Minh sinh ngày nào
và lá số tử vi của ông ra sao?
Trong cuốn “Tử Vi Đẩu Số Tân Biên” của một
nhân vật tên tuổi trong làng tử vi là Vân Đằng Thái Thứ Lang ở phần phụ lục có
4 lá số mẫu dành cho những người nghiên cứu học cách lập đoán trong đó có 2 lá
số làm cho người ta chú ý bởi cách ám chỉ của tác giả. Dù không nói trắng ra
nhưng những thông tin mà tác giả đưa ra dường như khẳng định 100% rằng đó là lá
số của Bảo Đại và Hồ Chí Minh. Thái Thứ Lang vốn là người cùng quê Nam Đàn với Hồ
Chí Minh và cha của ông còn được cho là bạn của Nguyễn Sinh Sắc nên đó là lý do
mà những người đọc sách này tin tưởng rằng nguồn tin của ông là chân thực.
Ngoài ra còn một lý do nữa mà người ta tin vào thông tin của Thái Thứ Lang vì
ông này là nhà sư, người xuất gia thì sẽ không phạm giới luật vọng ngôn, tức là
ông sẽ nói những thông tin mà ông nghĩ trong đầu là đúng chứ không bịa đặt ( dù
có thể điều ông ấy nghĩ chưa chắc đã đúng :D ) . Đây là là số của Hồ Chí Minh
do tôi chụp lại từ cuốn sách xuất bản năm 1956 tại Sài Gòn này.
Theo những thông tin trên đó thì Hồ Chí
Minh sinh vào giờ Mão ngày 6/6 (Âm Lịch ) năm Tân Mão ( 1891).
Lá số này có một số điểm khá tương hợp
với miêu tả của Thiếu Lăng Quân về băn khoăn của các ông Nguyễn Sinh Sắc,
Phan Bội Châu, Vương Thúc Quý khi họ luận đoan lá số của Nguyễn Sinh Cung
rằng họ đều thừa nhận đây là lá số Tử Vi của một con người không bình thường,
song các ông không lý giải được vì sao với một con người an thủ Mệnh,
Tài, Quan là các chính tinh: Tử, Phủ, Vũ, Tướng, Liêm, Phá… như vậy mà Cung
Điền trạch lại Vô chính diệu.
Thực tế sau này đã cho thấy cho thấy
Hồ Chí Minh uy quyền bao trùm thiên hạ mà trong tay lại không có tài sản gì,
cung Điền Sản rất mờ nhạt thì có thể giải thích được băn khoăn ở trên.
Luận đoán thêm một chút là thấy cung Thiên
Di có phá quân thủ tọa đắc địa có vẻ ứng với cuộc đời suốt đời làm chuyện canh
cải, bôn ba khắp năm châu bốn biển đầy sóng gió của ông Hồ nhưng ông đều vượt
qua được.
Khả năng vượt khó của ông cũng thể hiện
trong sự nghiệp chính trị của mình. Nếu xem xét toàn bộ thế tam hợp của 3
cung: Mệnh, Tài, Quan thì cái thế tam hợp này là thế lấn lướt tình thế.
Thế tam hợp trong Tử vi có 4 thế: Thế bình
thuận, an hòa, Thế đối nghịch ; Thế bị lấn át và Thế lấn lướt ( hoàn cảnh ). Từ
lý “Quan phương thập dụ” ( mười nguyên tắc căn bản khi luận đoán lá số tử vi )
mà xét thì lá số này có bản phương “Do nội tự cường” ( Mạnh từ bên trong,
lực từ gốc rễ mà ra ) là thế của người bản lĩnh rất cao cường luôn chủ
động lấn lướt mọi hoàn cảnh, tức là không phụ thuộc hoàn cảnh để nó khuất
phục mà còn có khả năng áp đặt hoàn cảnh…Ở trên có mấy ví dụ về cách ông
Hồ ứng biến với tình thế hay nhìn thấy trước được cục diện chiến tranh.
Kết
Song đối với Tử vi mà nói thì cùng một lá
số nhưng mỗi ông luận một kiểu tùy vào trình độ, nhất là luận về mấy ông làm
chính trị thì yếu tố tình cảm yêu ghét, sùng bái hận thù các kiểu lại chi phối
rất nhiều, và có nhiều cách luận giải khác thì lại chỉ ra những điểm không
tương thích với vận mệnh của ông Hồ. Cá nhân tôi thì tuy không khẳng định
100% nhưng đánh giá rằng thông tin về ngày sinh của chủ tịch Hồ Chí Minh là 6/6
âm lịch 1891 có độ chân thực với xác suất khá cao.
Dù vậy nếu có được thêm các dữ kiện đầy đủ
hơn để có câu trả lời chính xác hơn nữa thì càng tốt, bởi tìm kiếm sự thật là
nhu cầu vốn có của con người, thông tin về một nhân vật lịch sử có tầm ảnh
hưởng toàn cầu như Hồ Chính Minh không đơn giản chỉ là ngày giờ ông đến với thế
giới này mà nó còn liên quan đến rất nhiều sự kiện lịch sử khác trước đây và
sau này nữa.
Chính vì lý do đó nên hôm nay tôi
viết bài này với mong muốn cung cấp thêm một số thông tin vốn dĩ chưa được hoặc
ít được nhắc tới về Hồ Chí Minh xem như một thao tác xử lý hình ảnh “xóa mờ,
khử nhiễu” bức chân dung của ông để những ai có cùng mối quan tâm có thể
thảo luận. Hy vọng các bạn yêu thích nghiên cứu lịch sử hay lý số dịch học và
tử vi sẽ cung cấp thêm cho tôi một số thông tin khác mà các bạn có, chẳng hạn
như lá số được cho là của Hồ Chí Minh mà 2 ông Sơn Tùng và Thiếu Lăng Quân đang
giữ. Tôi đã tìm thông tin liên lạc của họ trên mạng nhưng không tìm được để hỏi
trực tiếp.
P/S: Đối với các bạn chưa tìm hiểu về dịch học và tử vi, các bạn có thể bỏ qua các các đoạn dẫn giải của tôi về các nội dung này, không cần focus nhiều vào chúng bởi các bộ môn này được xếp vào loại huyền học chứ không phải khoa học, nó có cách tư duy và phương pháp luận hoàn toàn khác với phương pháp luận của khoa học hiện đại. Dưới con mắt của khoa học còn rất nhiều điều về các môn huyền học chưa được làm sáng tỏ. Dù sao với đại đa số mọi người mà nói thì chúng ta chỉ nên tin vào những thứ mà mình đã hiểu rõ và lấy nó làm căn cứ cho nhận thức của mình. Đối với cái ta chưa hiểu hãy xem nó có giá trị tham khảo. Ở đây là giá trị tham khảo hữu ích mà nó mang lại là có một logic dẫn đến dữ kiện về ngày sinh thực sự của Hồ Chí Minh, đó có thể là mối quan tâm chung của nhiều người ./.
NGUYỄN THÀNH
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét