Thứ Năm tuần trước nhận được bài mới của Nguyễn Quang Dy gửi. Vì bận nhiều việc, đến cuối tuần lại đi xa khỏi Sài Gòn, bữa nay về mới đưa bài của anh bạn lên blog được.
Hôm rồi đọc xong bài này, mình bảo ngay với Nguyễn Quang Dy (qua điện thoại) là ông bắt bệnh cho intellect vậy là trúng quá rồi đấy, vấn đề là ông có mách nước thuốc chữa gì không ? Chứ như câu kết của tác giả là: "Nhưng trước hết, giới trí thức Việt cần chữa trị các bệnh mãn tính nói trên" thì cũng như còn nguyên đó "một câu đố" quá khó !
Vệ Nhi
-----
Vài bệnh mãn tính của trí thức Việt
Ngày nay, các bác sỹ thường khuyên chúng ta phải kiểm tra sức khỏe định kỳ nếu không muốn bị đột tử (vì tim mạch) hay mắc các bệnh nan y (như ung thư). Trong “thế giới phẳng”, Tom Friedman cũng khuyên các doanh nghiệp phải kiểm tra sức khỏe thường xuyên, nếu muốn tồn tại và phát triển. Không biết giới trí thức Việt có kiểm tra sức khỏe và khám bệnh thường xuyên không, và có thừa nhận bệnh tật của mình không?
Có lẽ việc này cần hơn là “định
nghĩa lại trí thức”. Tại sao phải định nghĩa lại? Chẳng lẽ lâu nay chúng ta
không biết trí thức là gì, là ai, và làm gì. Đã qua rồi cái thời ông Mao điên
rồ và xảo quyệt nói bậy: “trí thức không giá trị bằng cục phân”,
hay cái thời mấy ông Việt Minh ngây ngô và cuồng tín, bắt chước ông Mao: “Trí phú địa hào, đào tận gốc, trốc tận
rễ”. Họ không hiểu vùi dập trí thức là
đồng nghĩa với tự sát quốc gia.
Tuy đã qua rồi, nhưng hệ quả của nó vẫn còn, bởi căn nguyên là cực đoan và cuồng tín chưa chết,
vẫn còn lẩn khuất trong chính chúng ta. Nếu chịu khó quan sát, ta có thể nhận diện một số căn
bệnh mãn tính điển hình của giới trí thức và văn nghệ sĩ Việt. Họ là thành phần
ưu tú của quốc gia, làm đầu tàu thúc đẩy tiến bộ xã hội, nên cần quan tâm và
khám bệnh, cả nghĩa bóng lẫn nghĩa đen (mấy ông này uống và hút dữ lắm!).
Những nhận xét
dưới đây có thể đúng, có thể sai, có thể bổ sung, có thể tranh luận, nhưng là
cần thiết. Đừng vội phủ định hay khẳng định ngay.
Hay định kiến
và chia rẽ
Người ta hay
nói (nửa đùa nửa thật) rằng một người Việt thì không thua kém một người nước khác,
nhưng ba người Việt thì chắc thua kém một người nước khác. Bởi vì ba người Việt
thường không hợp sức mà còn chia rẽ, tự phân hóa và vô hiệu hóa nhau. Không hiểu
vì sao tính cá thể của người Việt rất cao, nhưng tính cộng đồng rất thấp. Đây
là một nghịch lý mang bản sắc Việt Nam (không giống người Trung Hoa). Cũng chưa
thấy tài liệu nghiên cứu nào phân tích xem đây là do tính bản địa, hay là do
ảnh hưởng của văn hóa Pháp (xin lỗi mấy ông tây nhé!) Chỉ biết rằng người Việt có
tiếng là hay định kiến và chia rẽ, hay cãi nhau không ai chịu ai. Càng trí
thức, càng hay cố chấp và chia rẽ khỏe. Chưa thể lý giải ngay được, nhưng có
thể do cực đoan và bảo thủ. Làm việc nhóm rất khó, không phát huy được nội lực
và không kết nối được năng lượng (synergy). Rất khó đồng thuận để có tiếng nói
chung. Có lẽ vì biết như vậy nên cụ Hồ mới nhấn mạnh đoàn kết “như con ngươi
của mắt mình”, nghĩa là không đoàn kết thì mù luôn. Hy vọng Việt Nam không phải
là một “thung lũng mù”!
Gần đây, đáng
mừng là đã xuất hiện một số hội đoàn độc lập theo hướng dân chủ hóa và cởi mở hơn,
như xã hội công dân. Nhưng đáng buồn là các hội đoàn mới này cũng khó phát
triển nhanh và mạnh được. Không phải chỉ vì số lượng ít, nguồn lực thiếu thốn, bị
chính quyền ngăn cản, mà bản thân nội bộ cố chấp và chia rẽ, rất khó đồng thuận
để có tiếng nói chung. Nghe nói vừa mới hình thành đã cãi nhau rồi. Chưa cần
bên ngoài phá, bên trong đã tự phân hóa rồi. Có lẽ cũng vì vậy mà hòa hợp và
hòa giải dân tọc mới khó thế. Khi nói đến dân trí, người ta thường hiểu theo
nghĩa cộng đồng chứ không phải từng cá thể. Nếu cứ định kiến và chia rẽ như vậy
thì làm sao có thể nâng cao dân trí, làm sao có thể “thoát Trung”?
Không chịu lắng
nghe
Theo nguyên lý
truyền thông, lắng nghe quan trọng hơn cả nói, để thu lượm và sàng lọc thông
tin cần thiết. Phải bình tâm mới lắng nghe được người khác, để hiểu được cả
những điều người khác không nói ra. Điều này càng quan trọng trong thời đại
bùng nổ truyền thông kỹ thuật số. Muốn lắng nghe phải khiêm tốn, chân thành,
nhạy cảm. Người ta nói xã hội càng “high-tech” thì con người càng phải
“high-touch”. Ta thường làm ngược lại. Gần đây, Việt Nam được xếp vào nhóm nước
vô cảm nhất thế giới (trong khi chưa “high-tech”). Đa số người Việt, nhất là
giới trí thức, chỉ thích nói cho người khác nghe, mà không chịu lắng nghe người
khác nói. Một số người còn hay “xoa đầu” và dạy bảo người khác (nhất là đối với
lớp trẻ). Họ thường vô cảm, không hiểu được người khác muốn gì, nghĩ gì. Thế hệ
già không hiểu thế hệ trẻ. Bắc - Nam, trong - ngoài, không hiểu được nhau. Thói
quen không chịu lắng nghe có thể do thái độ ngạo mạn, coi thường người khác, luôn
cho mình là đúng, ai không giống mình là sai.
Trong bộ máy
công quyền trước đây, người ta quen độc quyền thông tin theo cấp bậc. Có một
thời, chỉ có lãnh đạo mới được đọc “bản tin tham khảo” (lấy từ các hãng thông
tấn nước ngoài). Thời ấy đã qua rồi, nhưng hệ quả của nó vẫn còn, vì hệ tư tưởng
cũ chưa thay đổi. Một khi trong đầu đã chứa định kiến gì, thì người ta hay cố
chấp, luôn phủ định hoặc khẳng định, mà không cần lắng nghe để tìm hiểu sự
thật. Không chịu lắng nghe và chia sẻ thông tin thường dẫn đến định kiến và
chia rẽ. Điều đáng nói là không phải chỉ có những người cộng sản (cuồng tín) mà
cả những người chống cộng (cực đoan) đều mắc phải căn bệnh mãn tính này. Trí
thức mà định kiến và cực đoan thì còn nguy hiểm hơn cả người khác.
Học giả nhiều
hơn học thật
Chưa thấy ở đâu
người ta coi trọng bằng cấp và học hàm học vị một cách cực đoan như ở Việt Nam.
Giới thiệu ông trí thức nào mà thiếu cái tít “GSTS” là toi. Trong khi đó dân
chúng gọi GSTS là “gà sống thiến sót” (xin lỗi không phải tôi nói!). Vì vậy,
nhu cầu “học giả” và làm “bằng giả” trở thành một thị trường ngầm phát đạt, như
một khối u mãn tính, làm mấy đời bộ trưởng giáo dục đành chào thua. Điều đáng
nói là nó không chỉ phổ biến trong nhà trường mà còn trong giới công chức và
trí thức. Một quốc gia có trên 90 triệu dân (một nguồn tài nguyên quý mà chắc
nhiều nước thèm muốn) nhưng chất lượng nguồn nhân lực đang khủng hoảng đến mức
báo động. Chúng ta không lo giới trí thức Việt nhỏ bé, nhưng rất lo chất lượng
dân trí còn thấp, bị phân hóa và vô hiệu hóa quá nhiều và quá lâu. Vì vậy, trí
thức thật thì ít, trí thức giả thì nhiều. Giới trí thức Việt giống như một bức
tranh “mosaic” nhiều màu sắc khó tả, rất đặc thù chẳng giống ai, mang đậm “bản
sắc” Việt Nam.
Nguồn gốc trí
thức Việt đại khái có mấy thế hệ. Thế hệ những người “học tây” thời trước (cả
Bắc lẫn Nam) là trí thức thật, nhưng vừa quá ít vừa “quá date” (passé rồi), nếu
chưa chết hoặc không nhanh chân ra nước ngoài thì cũng đã bị vô hiệu hóa bởi
thời thế hoặc thời gian. Thế hệ “thiếu sinh quân” (thời chống Pháp) được chọn
đi học Trung Quốc/Liên Xô, đa số đã trở thành quan chức, một số khác có tài đã
trở thành trí thức thật, nhưng nay đã về hưu. Thế hệ “học Đông Âu” (thời chiến
tranh với Mỹ), tuy đông nhưng bị phân hóa, đa số thực dụng buôn bán kinh doanh giàu
lên nhanh như “tướng soái”, một số trở thành tư bản đỏ (đang lũng đoạn thị
trường), nhưng vẫn giữ cái mũ phó tiến sĩ hoặc tiến sĩ dổm, một số khác có tài theo
đuổi khoa học nghệ thuật, thường bị vô hiệu hóa, hoặc phải nhập quốc tịch nước khác.
Thế hệ đi học các nước “phương tây” (sau chiến tranh) ngày càng đông và đa dạng,
đa số kinh doanh, một số làm công chức, một số khác làm cho nước ngoài hoặc ở
lại nước ngoài. Trí thức người Việt sống ở nước ngoài là một nguồn nhân lực
quan trọng, có nhiều nhân tài, có lòng ái quốc, có thể đóng góp nhiều hơn cho
đất nước và làm cầu nối với thế giới, nhưng chưa được thực sự trân
trọng.
Im lặng trùm chăn
Trong bối cảnh
xã hội chuyển đổi, đầy biến động và rủi ro, giới trí thức thường là đội ngũ
tiên phong dẫn dắt xã hội đổi mới và phát triển. Nhưng đáng tiếc, giới trí thức
văn nghệ sĩ Việt đã bị “thui chột” sau những kinh nghiệm đau buồn như “cải cách
ruộng đất” và “nhân văn gia phẩm”, nên đa số thường “trùm chăn”, không dám lên
tiếng, vì sợ. Đây là cái sợ tiềm tàng đã đi vào tiềm thức ít nhất hai thế hệ,
nên muốn thoát khỏi nó phải cam đảm để phản tỉnh. Đến nay, hệ thống kiểm soát
và kiểm duyệt (văn hóa tư tưởng) về cơ bản vẫn chưa thay đổi, với hồ sơ nhân
quyền đang là vấn nạn trong quan hệ với Mỹ và phương Tây (giống như vấn đề MIA
trước đây). Trong bối cảnh đó, giới trí thức văn nghệ sĩ “trùm chăn” là dễ
hiểu. Quá trình phản tỉnh để thoát khỏi nỗi sợ không đơn giản, tùy thuộc vào
hoàn cảnh mỗi người. Có những người đến cuối đời mới dám lên tiếng nói ra sự
thật (như tác giả “Đèn Cù”).
Bên cạnh đa số
im lặng trùm chăn (silent majority), có một thiểu số lớn tiếng (vocal
minority). Những người đã định cư ở nước ngoài thường “dũng cảm” hơn và “lớn
tiếng” hơn những người trong nước. Một số quá khích và nôn nóng muốn thay đổi
ngay. Một số khác trong lòng còn nặng hận thù và cố chấp, chỉ thích chửi nhưng
không đề ra được giải pháp. Ai cũng muốn thay đổi, nhưng nếu không có giải pháp
khả thi, thì thành viển vông. Vì vậy, cần tránh cả khuynh hướng “trùm chăn” lẫn
“quá khích”. Nếu bình tâm nhìn kỹ thì quá trình dân chủ hóa trên thế giới tuy
đa dạng và phức tạp, nhưng có quy luật, cần thời gian. Qua kinh nghiệm nhiều
nước đã chuyển đổi (trong 40 năm qua) người ta thấy cách tốt nhất là đấu tranh
ôn hòa, thông qua “Bất tuân Dân sự”. Phong trào dân chủ gần đây tại Hong Kong
là một ví dụ, khác nhiều so với thời Thiên An Môn. Trong thời đại toàn cầu hóa
và truyền thông kỹ thuật số, muốn đấu tranh hiệu quả phải có dân trí cao,
ứng dụng công nghệ cao, dùng “sức mạnh mềm” đối phó với “sức mạnh cứng”, biết
kết nối quốc tế để vận dụng sức mạnh toàn cầu (global synergy).
Hội nhập quốc
tế chậm
Trong thời đại
toàn cầu hóa, giới trí thức đáng lẽ phải hội nhập quốc tế nhanh hơn những nhóm
người khác, để dẫn dắt họ trong quá trình đổi mới và phát triển. Đáng tiếc,
giới trí thức Viêt hội nhập quốc tế hơi chậm so với các nước khác đang chuyển
đổi. Có nhiều nguyên nhân. Thứ nhất, chính sách kiểm soát và kiểm duyệt chặt
chẽ với các quy định lạc hậu, không khuyến khích và tạo điều kiện cho giao lưu,
hội nhập quốc tế. Thứ hai, bị đóng cửa quá lâu nên giới trí thức bị “nội địa
hóa” quá nhiều, một số mang tâm lý bài ngoại, không quen hội nhập. Thứ ba, hàng
rào ngôn ngữ và văn hóa cũng làm cho việc giao lưu, hội nhập của trí thức với
thế giới bên ngoài khó khăn. Tuy nhiên, thế hệ trí thức trẻ học tại các nước
Phương Tây sau này ngày càng đông, riêng học tại Mỹ đến nay là 16.500
người (sau 20 năm). Họ không bị hàng rào ngôn ngữ và văn hóa cản trở, giao lưu
và hội nhập dễ dàng. Đây là một nguồn nhân lực và một lớp trí thức mới quan
trọng, nhưng chưa được coi trọng đúng mức.
Trong thời đại toàn cầu hóa và
truyền thông kỹ thuật số, liên kết và
giao lưu quốc tế vô cùng quan trọng, giúp
cho những người trí thức mở rộng tầm nhìn, không kỳ thị dân tộc, ngăn ngừa xu
hướng dân tộc cực đoan và bạo lực giữa các quốc gia. Theo kinh nghiệm phát
triển của nhiều nước, chỉ khi nào giới trí thức trưởng thành như một thế lực
mạnh trong xã hội, và nhân tài được trọng dụng như tài sản quốc gia, thì đất
nước đó mới thực sự phát triển. Nhưng trước hết, giới trí thức Việt cần chữa
trị các bệnh mãn tính nói trên.
NQD. 7/7/2015
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét