Xin giới thiệu một bài mới viết vừa hoàn thành của tác giả mà ít lâu nay đang được nhiều người đọc, anh Nguyễn Quang Dy.
Bài viết nguyên bản có đầu đề: "Xoay trục sang châu Á: Tầm nhìn và Hành động".
Đây là bản cuối cùng anh gửi cho tôi với lời nhắn rằng "có chút sửa chữa" (sau khi một số trang mạng đã đưa lên trước thời điểm này). Bản dưới đây có một số chỗ đã được biên tập của chủ Blog, đó là chỉnh sửa cách viết cho thống nhất, về chính tả và các con số viết theo cách tiếng Việt dùng...
Vệ Nhi g-th
----
Xoay trục sang châu Á: Tầm nhìn và Hành động
Nguyễn Quang Dy*
“Tương lai chính trị sẽ được quyết định tại Châu Á, chứ không phải tại Afghanistan hay Iraq, và Mỹ sẽ ở ngay tại tâm điểm của hành động đó” (Hillary Clinton)
*
Từ Xoay trục đến Tái
cân bằng đến “Xoay trục 2.0”: “Tiếng kèn ngập ngừng”
Quan điểm của Hillary Clinton về châu Á có tầm nhìn chiến lược và được các nước châu Á hoan nghênh (trừ Trung Quốc). Nếu bà Clinton được bầu làm Tổng thống thì sẽ là tin mừng đối với châu Á (nhưng sẽ là tin buồn đối với Trung Quốc). Tuy nhiên, giữa tầm nhìn và hành động có một khoảng cách. Làm thế nào để thu hẹp khoảng cách này?
Gần đây người ta thường nói đến “Xoay trục sang Châu Á” như
một cụm từ thông dụng và là tâm điểm chính sách Châu Á của chính quyền Obama. Vậy
nó được hình thành như thế nào, thực chất là gì, và triển vọng ra sao? Thực ra ngay
từ đầu, nó không phải là kết quả nghiên cứu sâu sắc của một think tank nào cả,
mà là hệ quả của phản ứng linh hoạt và nhạy bén của các nhà ngoại giao Mỹ, đứng
đầu là ngoại trưởng Hillary Clinton.
Chính Hillary Clinton là người đầu tiên đã tuyên bố tại Hội
nghị Ngoại trưởng ASEAN (2009) rằng Mỹ có lợi ích chiến lược tại khu vực này (làm
Trung Quốc tức giận). Các nhà quan sát coi đó là khởi đầu chính sách “xoay
trục” hay “tái cân bằng”. Nhưng cả Trung Quốc lẫn các nước đồng minh của Mỹ tại
khu vực lúc đó chưa thực sự tin vào chủ trương này của Mỹ. Washington phải có tầm nhìn rõ ràng và hành
động mạnh mẽ hơn.
Tại Diễn đàn trong khuôn khổ ASEAN
và các đối tác (Hà Nội, 22/7/2011), ngoại trưởng Hillary Clinton đã chuẩn bị kỹ
hơn và đọc một bài diễn văn khẳng định lập trường của Mỹ tại châu Á (làm ngoại
trưởng Trung Quốc lúc đó là Dương Khiết Trì tức giận bỏ ra ngoài). Hội nghị đó là
một bước ngoặt, khi Mỹ khẳng định lợi ích chiến lược và vai trò lãnh đạo của mình,
xóa được phần nào nghi ngờ của đồng minh, và làm Trung Quốc lo ngại. Trong một
lần đối thoại với bà Clinton, ông Đới Bỉnh Quốc lúc phụ trách đối ngoại của Trung
Quốc đã hỏi, “Tại sao các vị không xoay trục đi chỗ nào khác ngoài khu vực này?”
Vào tháng 11/2011, trong một bài dài đăng trên tạp chí “Foreign Policy”, ngoại trưởng Hillary Clinton đã lý giải chính sách “xoay trục” bằng một quan điểm mới là Mỹ chủ động chứ không phải bị động: Mỹ quyết định rút quân khỏi Iraq và Afghanistan là nhằm “xoay trục” sang châu Á, chứ không phải là Mỹ bị động “thoái lui” trong thế yếu. Hillary Clinton đã đề xuất 6 hành động chủ chốt để “xoay trục” (trong đó có 4 điểm được “mượn” trong nội dung một báo cáo của CSIS). Nhưng tầm nhìn phải có hành đông kèm theo.
Dù sao, đó là khởi đầu tốt đẹp mà bà Hillary Clinton đã có công đề xướng nhằm khẳng định lợi ích chiến lược và vai trò lãnh đạo của Mỹ tại khu vực, làm các nước đồng minh tạm yên tâm trước đe dọa ngày càng tăng của Trung Quốc. Nhưng đáng tiếc sau đó, Washing ton đã không có hành động tiếp theo để biến nó thành một chiến lược nhất quán. Hơn nữa, Tổng thống Obama còn hoãn chuyến thăm 4 nước châu Á và không dự Hội nghị Thượng đỉnh châu Á tại Indonesia và Brunei (10/2013) vì chính phủ Mỹ “đóng cửa” (do hết kinh phí).
Quyết định không đúng lúc này đã làm cho Tổng thống “mất mặt”, gây hoang mang, nghi ngờ về chính sách “xoay trục” của Mỹ, gửi đi một tín hiệu xấu. Điều này làm người ta nhớ lại “Tiếng kèn Ngập ngừng” (Uncertain Trumpet, Maxwell Taylor, 1960). Tất nhiên Trung Quốc mừng ra mặt, tranh thủ phân hóa ASEAN, tuyên truyền là đừng tin vào Mỹ. Một khi đã mất lòng tin thì rất khó lấy lại. Đó là lý do một số nước ASEAN ngả theo Trung Quốc. Không phải họ chỉ sợ cái gậy của Trung Quốc, mà họ còn cần củ cà rốt của Trung Quốc.
Tháng 5/2014, Trung Quốc đột ngột đưa dàn khoan HD981 vào Biển Đông, và ráo riết xây dựng các căn cư quân sự và đảo nhân tạo tại các đảo ngầm mà họ chiếm tại Trường Sa và Hoàng Sa. Hành động ngang ngược này đã làm lãnh đạo Hà Nội bị sốc và bừng tỉnh khỏi cơn mê ngủ, và làm Washington giật mình. Trung Quốc đã bộc lộ bộ mặt thật là kẻ cướp muốn chiếm cả Biển Đông, không những đe dọa chủ quyền các nước khu vực mà còn đe dọa tự do hàng hải quốc tế, thách thức lợi ích chiến lược và vai trò cầm đầu của Mỹ.
Đây là bước ngoặt quan trọng làm người Mỹ phải điều chỉnh tư duy chiến lược, nhất là trong giới nghiên cứu và Quốc hội, buộc chính quyền Obama phải có thái độ cứng rắn hơn đối với Trung Quốc. Mỹ đã đưa máy bay trinh sát và tàu chiến đến Biển Đông để tuần tiễu, bất chấp Trung Quốc phản đối, đồng thời tăng cường quan hệ với Việt Nam, không chỉ về kinh tế chính trị mà còn cả về an ninh quốc phòng. Vừa rồi, Tổng thống Obama đã đón tiếp Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Phòng Bầu dục, bất chấp nhiều ý kiến phản đối. Tổng thống Obama cũng quyết tâm đẩy nhanh quá trình đàm phán TPP, và bỏ dần cấm vận bán vũ khí cho Việt Nam. Các nhà quan sát cho rằng bước ngoặt này đánh đấu “Xoay trục 2.0”.
Bản chất chính sách “xoay trục” hay “tái cân bằng” là nhằm “ngăn chăn” Trung Quốc trỗi dậy hung hãn như quái vật “Frankenstein” (Richard Nixon, 1994), đe dọa lợi ích chiến lược của Mỹ và thách thức vai trò lãnh đạo của Mỹ. Vì vậy, từ chỗ ban đầu tìm cách lý giải cho việc rút quân Mỹ khỏi Afghanistan và Iraq, nay Washington đã có lý do chính đáng để chuyển hướng ưu tiên chiến lược từ Trung Đông sang Châu Á-Thái Bình Dương. Có lẽ Mỹ nên cảm ơn Trung Quốc vì họ đã bộc lộ bản chất quái vật Frankenstein quá sớm.
Trước sức ép kinh tế và quân sự của Trung Quốc hiện nay, các nước châu Á rất cần Mỹ. Nhưng họ cần nhất một lập trường nhất quán (không phải là “tiếng kèn ngập ngừng”). Người Châu Á cần Mỹ không phải chỉ để đối phó với nguy cơ Trung Quốc trước măt, mà còn nhằm hợp tác lâu dài, giúp các nước khu vực phát triển và dân chủ hóa. Họ cần những người hiểu biết và đồng cảm với khu vực, để lắng nghe những mối quan tâm, lo lắng của họ. Đấy mới là ý nghĩa thực sự của “Xoay trục 2.0” và “Tham dự Tích cực 2.0”.
Nội dung “xoay trục” không phải chỉ có điều động binh lực Mỹ
(như điều lính thủy đánh bộ đến Darwin) mà còn phải
tăng cường sức mạnh quân sự cho các đồng minh tại khu vực (như bỏ cấm vận bán
vũ khí cho Việt Nam).
“Xoay trục” không phải chỉ tăng cường hợp tác kinh tế khu vực để tránh lệ thuộc
vào Trung Quốc (qua TPP) mà còn thúc đẩy hợp tác văn hóa giáo dục (như dự án Đại
học Fulbright). Tuy nhiên, muốn biến tầm nhìn thành hiện thực, phải hành động kịp
thời và quyết liệt hơn, vì nếu hành động quá ít và quá chậm (too little too
late) thì sẽ mất cơ hội hoặc phải trả giá đắt. Nên nhớ dự án Đại học Fulbright đã
bị chậm lại gần hai thập kỷ, và trường Fulbright (FETP) tại Việt Nam đã
suýt nữa bị xóa sổ.
Tầm nhìn và hành động
của Mỹ ở khu vực: Duy trì nguyên trạng
Lich sử tham dự của Mỹ tại châu Á-Thái bình Dương có thể tóm
tắt như sau. Trước và trong đại chiến thứ 2, đối thủ chính của Mỹ ở khu vực này
là Nhật, đã canh tân giàu mạnh và quân sự hóa trở thành phát xít. Bắt đầu cuộc
chiến, vì chủ quan khinh địch nên Mỹ đã bị Nhật bất ngờ nện cho một trận thua
nhục nhã tại Trân Châu Cảng. Đừng tưởng Nhật bắt chước Phương Tây để hiện đại
hóa thì sẽ giống phương Tây, không đánh Mỹ. Lúc kết thúc cuộc chiến, để ra oai
Mỹ đã nện cho Nhật 2 quả bom nguyên tử (tuy không cần thiết để bắt Nhật đầu
hàng).
Sau chiến tranh, trong khi Nhật trở thành đồng minh chính
của Mỹ thì Trung Quốc lại trở thành đối thủ chính của Mỹ tại khu vực này. Nhất
là sau 1949, Trung Quốc đã trở thành cơn ác mộng mới, làm Mỹ phải đau đầu “ngăn
chặn”, dẫn đến 2 cuộc chiến tranh đẫm máu tại Triều Tiên và Việt Nam, làm Mỹ
hao tổn bao xương máu, tiền của và thời gian. Nhưng chống Trung Quốc mãi không ổn,
Mỹ đã “xoay trục” bắt tay với Trung Quốc để rút khỏi Việt Nam, tập trung chống
Liên Xô, và chia sẻ quyền lực với Trung Quốc tại khu vực. Đó là “sáng kiến vĩ
đại” của tiến sĩ Henry Kissinger, dẫn đến Shanghai Communique (1972). Nhưng đừng
tưởng bắt tay với Trung Quốc thì Trung Quốc sẽ giống Nhật Bản, không chống Mỹ.
Không phải ông Kissinger không giỏi, và mưu kế của ông ấy không cao. Nhưng tầm nhìn của ông ấy khác với tầm nhìn của người Trung Quốc, và tư duy của người Mỹ khác với tư duy của người Trung Quốc. Ông Kissinger có thể chơi cờ vua giỏi, nhưng chắc không giỏi cờ tướng hay cờ vây. Ông ấy có thể thạo binh pháp Clausewitz, nhưng chắc không thạo binh pháp Tôn Tử. Không biết ông ấy có thực sự tin rằng “Constructive Engagement” là diệu kế có thể thuyết phục người Trung Quốc “trỗi dậy trong hòa bình” không, nhưng thực tế là ông ấy đã giúp Trung Quốc trở thành quái vật Frankenstein. Chính sếp của ông ấy là cố Tổng thống Nixon đã nghĩ như vậy, và chính đệ tử của ông ấy là Robert Blackwill nay cũng nghĩ như vậy.
Tôi nhớ là năm 1992-1993, tôi định tham gia một khóa học tại
Belfer Center (Harvard KSG) có cái tên rất kêu là “Đổi mới Tư duy Chiến lược
Mỹ” (Rethinking American Strategic Interests) do Robert Blackwill phụ trách.
Nhưng sau đó, tôi đã bỏ ý định này và quay sang nghiên cứu Nhật Bản (với Ezra
Vogel) vì 2 lý do đơn giản. Thứ nhất, ông Graham Allison (giám đốc trung tâm)
không còn phụ trách khóa học này (vì được gọi lên Washington làm việc khác); Thứ hai, khóa học
đó chẳng đề cập gì đến Trung Quốc và Đông Á (một lỗ hổng lớn). Chẳng lẽ chiến
lược của một siêu cường lại dựa trên những “lỗ hổng tư duy” như vậy? Mất gần
hai thập kỷ sau Robert Blackwill mới đổi mới tư duy về chính sách Trung Quốc.
Như vậy, đâu phải là “tầm nhìn xa”, càng không phải “phản ứng linh hoạt”. Nhưng
“muộn còn hơn không!”
Trong khi Mỹ rút quân chiến đấu khỏi Việt Nam (theo Hiệp
định Paris, 1973) và bỏ rơi Nam Việt Nam (30/4/1975) thì Trung Quốc đã lợi dụng
thời cơ “đục nước béo cò” đánh chiếm các đảo Hoàng Sa của Việt nam (1/1974). Mỹ
biết nhưng đã lờ đi, không giúp hải quân Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) chiếm lại. Chính
sách Trung Quốc của Mỹ lúc đó đã “Xoay trục” từ “Ngăn chặn” thành “Tham dự Tích
cực” (Constructive Engagement). Khi các “đại ca” đã bắt tay nhau, thì các “đàn
em” sẽ bị hy sinh hoặc bị bỏ rơi, dù Việt Cộng hay Chống Cộng cũng vậy.
Sau chiến tranh Việt Nam, Mỹ rút quân khỏi Thailand (Utapao,
Udon, Korat) và Philippines (Clark, Subic), chỉ giữ lại mấy căn cứ quân sự tại
Nhật Bản và Hàn Quốc. Sự có mặt của Mỹ tại khu vực này giảm xuống tới mức thấp
nhất, tạo ra một khoảng trống quyền lực, nhất là tại Đông Nam Á nơi các nước ASEAN
yếu và dễ phân hóa. Biển Đông hầu như bị bỏ ngỏ, là cơ hội vàng đối với Trung
Quốc. Nhưng lúc đó Trung Quốc còn yếu nên chưa dám liều, phải nghe theo Đặng
Tiểu Bình “lặng lẽ chờ thời” để “ngư ông đắc lợi”.
Nay Tập Cận Bình lên ngôi đã củng cố xong quyền lực, thấy
thời cơ tốt (hoặc vì nội bộ bất ổn) nên đã quyết định đẩy nhanh lấn chiếm và
kiểm soát Biển Đông (là nơi vừa xung yếu, vừa nhiều tài nguyên). Chính Tập Cận
Bình đã buộc người Mỹ phải mở mắt, tạm biệt chủ thuyết “Tham dự Tích cực”
(Constructive Engagement) của tiến sĩ Kissinger, để trở về tương lai với chủ
thuyết “Ngăn chặn” (Containment). Nhưng “Ngăn chặn” thế nào?
Tầm nhìn và hành động
của Trung Quốc: Thay đổi nguyên trạng
Các thế hệ lãnh đạo Trung Quốc đều có tham vọng bành trướng
bá quyền, muốn nhòm ngó và thôn tính các nước láng giềng. Vấn đề chỉ là chờ thời
gian và cơ hội. Không làm gì có chuyện Trung Quốc “trỗi dậy trong hòa bình” như
người Mỹ tưởng. Dưới thời Tập Cận Bình, Trung Quốc đã đủ mạnh, không những là
cường quốc hạt nhân và quân sự, mà còn vượt qua Nhật Bản trở thành cường quốc
kinh tế thứ hai thế giới. Lãnh đạo Trung Quốc cho rằng thời cơ đã đến, có thể
thách thức vai trò cầm đầu của Mỹ, nhân lúc Mỹ đang lúng túng đối phó với khủng
hoảng kéo dài tại Trung Đông và khủng hoảng mới tại châu Âu.
Về phía Tây, Trung Quốc muốn bành trướng ra khu vực Trung Á
giàu tài nguyên và khu vực Nam
Á-Ấn Độ Dương có vị trí chiến lược quan trọng. Trong một thời gian dài, Trung
Quốc đã thao túng được chính quyền quân sự Myanmar làm con bài để phân hóa ASEAN,
và bành trướng xuống Nam Á. Nhưng từ khi tình hình chính trị Myanmar thay đổi
bất lợi cho Trung Quốc và có lợi cho Mỹ, thì hướng bành trướng này bị ngăn
chặn. Không phải ngẫu nhiên Trung Quốc gần đây đã thỏa thuận tài trợ cho Pakistan
46 tỷ USD.
Về phía Bắc, Trung Quốc từ lâu đã nhòm ngó và thèm muốn
nguồn tài nguyên (dầu hỏa) tại khu vực Siberia
rộng lớn, nhưng Nga không phải là đối thủ dễ chơi. Gần đây Trung Quốc lợi dụng
cơ hội Nga bị Mỹ và Phương Tây cấm vận vì khủng hoảng Ukraine, để xich lại gần
Nga như một “lá bài răn đe” Mỹ và để tranh thủ mua rẻ dầu hỏa của Nga. Nhưng
Nga khó trở thành đồng minh chiến lược của Trung Quốc, vì Nga biết rõ tham vọng
của Trung Quốc, và không quên Trung Quốc đã từng liên kết với Mỹ để chống Liên
Xô.
Về phía Đông, sau khi “bình định” xong Hong Kong và Ma Cao,
Trung Quốc muốn thôn tính nốt Đài Loan (là “lợi ích cốt lõi”) và các hải đảo
tại Biển Hoa Đông. Việc Trung Quốc tuyên bố “khu vực nhận diện phòng không” tại
Biển Hoa Đông và tranh chấp đảo “Điếu Ngư” (Senkaku) với Nhật Bản đã làm khu
vực này nóng lên, và làm quan hệ Trung-Nhật căng thẳng. Tuy nhiên, lãnh đạo
Trung Quốc thừa hiểu Nhật Bản và Hàn Quốc không phải là những đối thủ dễ chơi
vì tiềm lực họ mạnh, và là đồng minh chiến lược của Mỹ.
Về phía Nam,
khu vực Đông Nam Á, nhất là bán đảo Đông Dương và Biển Đông là khâu yếu nhất,
dễ thôn tính nhất. Trong khi Việt Nam bị Trung Quốc thao túng, thì ASEAN
cũng yếu và dễ bị phân hóa. Vai trò Việt Nam trong ASEAN quan trọng không
phải vì tiềm lực kinh tế, mà vì địa chính trị đối với Trung Quốc. Trong lịch
sử, Việt Nam
không bao giờ chịu khuất phục Trung Quốc. Nhưng đáng tiếc là sau thỏa thuận dại
dột tại Thành Đô (9/1990) vị trí địa chính trị của Việt Nam đã bị vô hiệu hóa vì
bị mắc kẹt trong cái bẫy ý thức hệ với Trung Quốc, bị Trung Quốc khống chế mọi
mặt, cả kinh tế lẫn chính trị.
Không phải ngẫu nhiên Trung Quốc ngang ngược tuyên bố chủ
quyền “đường chín đoạn”, đem dàn khoan HD 981 đến Biển Đông xâm phạm chủ quyền Việt
Nam (5/2014), ráo riết xây dựng các căn cứ quân sự và đảo nhân tạo tại các đảo
đá ngầm mà họ chiếm tại Hoàng Sa và Trường Sa. Đây là một bước ngoặt mới trong
tầm nhìn của lãnh đạo Bắc Kinh, làm lãnh đạo Hà Nội bị sốc và bừng tỉnh khỏi
cơn mê ngủ, và làm cho lãnh đạo Washington cũng phải giật mình lo ngại, buộc
phải tỏ thái độ cứng rắn với Trung Quốc. Chính nước cờ thế (gambit) này của
Trung Quốc đang xô đẩy Việt Nam
vào vòng tay người Mỹ.
Ông Tập Cận Bình đã từ bỏ lời khuyên của ông Đăng Tiểu Bình, và làm ngược
lại các lãnh đạo trước đó. Bắc Kinh đã triển khai một chính sách đối ngoại và
chính sách kinh tế đầy tham vọng với “Giấc mộng Trung Hoa” (China Dream), “Giấc
mộng Châu Á-TBD” (Asia-Pacific Dream), “Con đường Tơ lụa Trên biển” (Maritime
Silk Road), “Vành đai Kinh tế CĐTL” (Silk Road Economic Belt), “Ngân hàng Đầu
tư Hạ tầng Châu Á” (Asian Infrastructure Investment Bank), “Ngân hàng Phát
triển Mới” (New Development Bank) để thách thức Mỹ và Phương Tây. Trung Quốc
không chỉ võ mồm, mà đầu tư rất lớn. Theo giáo sư David Shambaugh, nếu cộng tất
cả các khoản đầu tư của Trung Quốc vào các dự án lớn này, con số lên đến 1.410
tỷ USD. (Trong khi kế hoạch Marshal trước đây chỉ có 103 tỷ USD).Như một quy luật, Trung Quốc càng giàu mạnh thì lại càng hung hăng, càng muốn thách thức và thay đổi trật tự thế giới cũ do Mỹ cầm đầu. Việc Trung Quốc gấp rút xây dựng các căn cứ quân sự và đảo nhân tạo tại Biển Đông nhằm kiểm soát toàn bộ vùng biển này là hành động tất yếu, chỉ là vấn đề thời gian. Trung Quốc muốn độc chiếm Biển Đông bằng cách lấn dần từng mảng, như chuyện đã rồi, dù thiên hạ có phản đối nhưng chẳng ai làm gì được.
Nhiều người cho rằng Trung Quốc có tiềm lực kinh tế và quốc phòng rất mạnh (chỉ đứng sau Mỹ) nên có thể làm gì cũng được. Nhưng nếu xét kỹ thì “Gót chân Asin” của Trung Quốc không phải chỉ là vùng xa xôi hẻo lánh khó quản lý như Tây Tạng, Tân Cương, mà ở ngay tại các trung tâm lớn như Bắc Kinh, Thượng Hải, Thẩm Quyến. Thứ nhất, đó là khoảng cách giàu nghèo và sự bất bình ngày càng tăng của dân chúng, ở thành phố cũng như nông thôn. Số lượng các cuộc biểu tình và bạo động ngày càng tăng, cả về số lượng và quy mô. Bóng ma Thiên An Môn vẫn còn lảng vảng đâu đây, để một ngày nào đó có thể nổi lên bóp cổ chế độ.
Thứ hai, Trung
Quốc tuy giàu, nhưng thị trường tài chính/chứng khoán rất dễ bị tổn thương vì
nó liên thông toàn cầu. Chỉ trong 3 tuần tháng 6/2015, Trung Quốc đã mất 3.400 tỷ
USD (bằng 44% GDP quốc gia). Không biết sự kiện bán tháo chứng khoán gây náo
loạn gần đây có “bàn tay thù địch” nào không, nhưng đó là một lời cảnh báo,
chắc còn tiếp diễn. Chiến tranh mạng là con dao hai lưỡi đối với trung Quốc. Đó
là cuộc chiến không có tiếng súng, không cần tuyên bố, xảy ra chớp nhoáng,
nhưng hậu quả khôn lường. Thị trường chứng khoán có thể là mục tiêu đầu tiên
của một cuộc chiến tranh mạng giữa các cường quốc.
Thứ ba, chưa biết đấu
tranh quyền lực tại Trung Quốc do tập Cận Bình phát động dưới danh nghĩa chống
tham nhũng (“đả hổ diệt ruồi”) sẽ dẫn tới đâu, nhưng người ta bắt đầu liên
tưởng đến hệ quả “cách mạng văn hóa kiểu mới” như “quả bom nổ chậm”. Theo các giới
nghiên cứu, 64% dân giàu Trung Quốc (vốn trên 1,6 triệu USD) đã và đang di cư
ra nước ngoài. Nếu có biến động về chính trị hay tài chính thì cuộc di cư ồ ạt
này (“bỏ phiếu bằng chân”) sẽ làm nền kinh tế Trung Quốc kiệt quệ nhanh chóng. Có
lẽ những lý do nội bộ này là động cơ chính thúc đẩy Bắc Kinh triển khai một
chính sách đối ngoại hung hăng hơn, mặc dù tự làm cô lập mình, ngược lại với
chiến dịch lấy lòng thiên hạ (“Charm Offensive”).
Trung Quốc sẽ tiếp tục chơi nưóc cờ thế (gambit) đe dọa Việt
Nam và phân hóa ASEAN, nhằm vô hiệu hóa chiến lược mới của Mỹ. Những dấu hiệu
gần đây cho thấy, nếu Việt Nam xích lại gần Mỹ, họ sẽ dùng cái gậy to hơn để hù
dọa. Nếu thấy yếu bóng vía, họ sẽ hù dọa bằng “bên miệng hố chiến tranh”, gây
sức ép từ phía Bắc, phía Đông, và phía Tây Nam (dùng con bài Campuchia). Nếu thấy tham lam, họ sẽ dùng củ cà rốt to
hơn để mua tiếp. Cái gậy hay củ cà rốt đều là “sức mạnh cứng”, họ có thừa.
Nhưng cái họ thiếu là “sức mạnh mềm”.
Trung Quôc cũng đầu tư rất lớn vào “sức mạnh mềm” (David
Shambaugh ước tính 10 tỷ USD mỗi năm), bao gồm báo chí tuyên truyền, giao lưu
hoc thuật, văn hóa thể thao, v.v. với quy mô toàn cầu, thông qua cái gọi là “Charm
Offensive” (để thu “phục lòng người”). Nhưng có điều là họ kiêu ngạo quá nên không
hiểu thế nào là “sức mạnh mềm”. Người Trung Quốc nhầm lẫn “sức mạnh mềm” với
tuyên truyền, và tưởng có nhiều tiền là mua được (Joe Nye). Họ đầu tư vào “sức
mạnh mềm” kiểu như đầu tư làm đường sắt cao tốc! (David Shambaugh).
Tầm nhìn mới về khu
vực: Vượt ra khỏi ASEAN
ASEAN là một ý tưởng hay. Nhưng ASEAN 10 không phải là ASEAN
5, ASEAN 6 như trước đây nữa. Nay nó là một bức tranh Mosaic, lắp ghép bằng các
mảng miếng đa dạng có màu sắc khác nhau, rất dễ bị Trung Quốc phân hóa và thao
túng. Đoàn kết ASEAN đến nay vẫn là khẩu hiệu suông. Muốn có một ASEAN mạnh, có
tiếng nói chung, ép được Trung Quốc phải theo luật chơi (như “COC” và đàm phán
đa phương), thì các nước ASEAN phải ra khỏi “cái hộp thể chế”. Nguyên tắc không
can thiệp vào nội bộ nước khác là một điểm yếu hiện nay khi đối phó với Trung
Quốc.
“ARF” (Asian Regional Forum), “APEC”, hay “East Asia
Summit”, v.v. là những ý tưởng tốt. Nhưng đến nay, nó chỉ là câu lạc bộ để thảo
luận, chứ chưa phải để hành đông, trong khi đó cái bóng đen của con rồng Trung
Quốc đã phủ khắp Biển Đông. Những gì mà ARF làm được còn quá ít và quá muộn không
đủ đối phó với mối đe dọa của Trung Quốc. Phải có một khuôn khổ mới hiệu quả
hơn, làm nòng cốt cho an ninh tập thể khu vực.
“ASEAN + 1” là một ý tưởng đúng, nhưng đến nay chưa hiệu quả, vì còn thiếu khuân khổ thích hợp để gắn kết với TPP. Trong số các đối tác của ASEAN, Nhật Bản có vai trò quan trọng nhất Đông Á, nhưng trước đây còn rụt rè. Gần đây, trước sự đe dọa của Trung Quốc, chính phủ của thủ tướng Abe cứng rắn hơn, cuối cùng đã vượt ra khỏi được “cái hộp hiến pháp” để có vai trò an ninh khu vực. Tại Đối thoại Shangri-La, Singapore (29-31/5/2015) Bộ trưởng Quốc phòng Gen Nakatani đã đề xuất cùng 10 nước ASEAN tuần tra Biển Đông. Đây là một ý tưởng đúng, nhưng không khả thi (vì khó huy động cả 10 nước ASEAN).
Ngoài Nhật, Australia (Úc) cũng là một đối tác quan trọng, nhưng lâu nay bị coi là “người ngoài” (odd man out), vì lợi ích chưa thực sự gắn bó với khu vực. Gần đây, Australia còn tự nguyện bỏ tiền ra tìm kiếm chuyến bay Malaysia Airlines 370 bị mất tích tại Ấn Độ Dương (nghe nói là để lấy lòng Trung Quốc). Về thương mại và đầu tư, Australia rất cần Trung Quốc. Nhưng sau khi Chính quyền Obama có thái độ cứng rắn hơn đối với Trung Quốc, điều động máy bay trinh sát đến tuần tra Biển Đông, thì Canberra đã thay đổi hẳn thái độ. Ngày 1/6/2015, Bộ trưởng Quốc phòng Kevin Andrews đã tuyên bố Australia sẽ tiếp tục cho máy bay quân sự bay qua Biển Đông ngay cả khi Trung Quốc thiết lập vùng nhận dạng phòng không (ADIZ).
Nhưng để duy trì lập trường và vai trò tích cực của Nhật Bản
và Australia, gắn kết hai đối tác có tiềm lực kinh tế và quốc phòng mạnh tại châu
Á-Thái Bình Dương với an ninh tập thể khu vực này, phải có một cơ chế mới hiệu
quả hơn. Sự chuyển hóa tích cực của bức tranh địa chính trị tại khu vực này sẽ
phụ thuôc vào ba yếu tố thiết yếu sau đây.
Thứ nhất, “tam
giác đều” Mỹ-Trung-Việt phải chuyển hóa nhanh thành “tam giác lệch”, với chiều Mỹ-Việt
xích lại gần nhau hơn như “đối tác chiến lược trên thực tế” (de facto), đủ để
Việt Nam tin tưởng mà bỏ chính sách “ba không” (three no’s) đang làm vô hiệu
hóa khả năng bảo vệ chủ quyền của Việt Nam và vai trò của Việt Nam trong khu
vực. Nhưng muốn thực hiện được yếu tố thứ nhất, phải thực hiện nhanh yếu tố thứ
hai.
Thứ hai, phải mau
chóng lập “tứ giác chiến lược” (strategic rectangle) gồm Nhật-Việt-Úc-Phi, thành
nhóm nước “tiên phong” (frontline states) làm nòng cốt cho an ninh tập thể khu
vực. “Tứ giác chiến lược” này cần dựa trên “tầm nhìn Đông Á” và thể chế hóa như
một “liên minh chiến lược” (strategic alliance). “Tư giác chiến lược” này có 3 lợi
thế: (1) Dễ thực hiện vì cả bốn nước đã là đối tác chiến lược/toàn diện, (2) Không
sợ “quá nhạy cảm” với Trung Quốc (như đối tác chiến lược Mỹ-Việt). (3) Làm đầu tầu
kết nối các nước Đông Á, thực hiện “Tầm nhìn Đông Á” bằng hành động cụ thể (hợp
tác quân sự, tập trận và tuần tra chung).
Thứ ba, phải mau
chóng chuyển sang “fast track” để sớm biến TPP thành hiện thực, làm cơ sở hỗ
trợ những nước yếu như Việt Nam khỏi phụ thuộc vào Trung Quốc, và gắn kết các
nước khu vực Đông Á lại với nhau thành đồng minh “cùng hội cùng thuyền” (beyond
ASEAN).
Tiến tới “Xoay trục
3.0”: Sức mạnh thông minh
Từ “xoay trục” đến “tái cân bằng” và “xoay trục 2.0” là một
quãng đường dài, nhưng vẫn còn “quá ít và quá muôn” (too little too late). Nói
theo ngôn ngữ điện ảnh, thì “Chiếc cầu Còn xa” (a Bridge Too Far)” (tên một bộ
phim chuyện của Joseph Levine, 1977). Có lẽ đã đến lúc phải nghĩ đến “Xoay trục
3.0”, để đối phó với Trung Quốc, không phải chỉ bằng “sức mạnh cứng” mà còn
bằng “sức mạnh mềm” (vì đó chính là điểm yếu của Trung Quốc).
Về thực chất, chính sách “xoay trục” sang Châu Á là nhằm “tái
cân bằng” lực lượng để “ngăn chặn” Trung Quốc bành trướng. Việc điều động 2.500
lính thủy đánh bộ đến Darwin,
cho máy bay trinh sát và tàu chiến tuần tra Biển Đông, mới chỉ là bước dạo đầu.
Mỹ cam kết bố trí 60% lực lượng hải quân ở Châu Á-Thái Bình Dương (trong khi ở
Đại Tây Dương là 40%). Hiện nay tỉ lệ bố trí tại hai nơi này là 50-50. Ngoài ra
Mỹ phải giúp các nước đồng minh/bạn bè tại khu vực tăng cường lực lượng. Ví dụ,
Mỹ đang bỏ dần cấm vận bán vũ khí cho Việt Nam và từng bước nâng cấp quan hệ
lên “đối tác chiến lược”, để hải quân Mỹ có thể sử dụng căn cứ Cam Ranh, và hải
quân Việt Nam có thể tham gia tập trận và tuần tra Biển Đông.
Ngoài “xoay trục” bằng tái cân bằng “sức mạnh cứng” (hard
power), Mỹ phải tái cân bằng “sức mạnh mềm” (soft power) để có “sức mạnh thông
minh” (smart power). Muốn “xoay trục” nhanh và hiệu quả, thì cả hai bên phải “cùng
xoay”, vì chỉ có một bên “xoay” thì chẳng khác gì vỗ tay bằng một bàn tay. Mỹ vừa
phải “xoay trục” về kinh tế (như thúc đẩy nhanh triển khai TPP) nhằm cô lập
Trung Quốc, vừa phải “xoay trục” về văn hóa giáo dục (như triển khai nhanh dự
án Đại học Fullbright) và tăng cường giao lưu văn hóa nghệ thuật với các nước
(nhất là Việt Nam), để hỗ trợ quá trình dân chủ hóa và xã hội dân sự (là “sức
mạnh mềm”).
Có một bài học lịch sử đáng nhớ. Tuy những người Pháp thực
dân đã để lại một di sản thuộc địa đáng buồn tại Việt Nam, nhưng những người Pháp nhân văn
cũng đã để lại những di sản văn hóa đáng quý. Đó là “hệ quả không định trước”
(unintended consequences) cần trân trọng. Những cái tên như Alexandre De
Rhodes, Alexandre Yersin, Louis Pasteur, v.v. đã trở thành những “thánh nhân”
trong lòng người Việt. Trường Mỹ thuật Đông Dương đã để lại một thế hệ họa sĩ Việt
tài năng mà các tác phẩm của họ đã trở thành giá trị bất tử, không thể lặp lại.
Dù trải qua bao biến động cách mạng, những biệt thự Pháp tại Hà Nội vẫn là dấu
son của thành phố, và “văn hóa rượu vang” không thể thiếu trong một bữa tiệc.
Người ta hay nói đùa (hay thật) là “ăn cơm tàu, ở nhà tây, lấy vợ nhật” mới sành
điệu (high living).
Nhìn lại lịch sử giao lưu văn hóa với các cường quốc, không
hiểu tại sao chỉ có người Pháp để lại được một số di sản văn hóa có ý nghĩa sâu
đậm như vậy. Có lẽ vì vậy mà người Pháp đáng yêu hơn là đáng ghét. Trong khi người
Trung Hoa đáng ghét hơn là đáng yêu (mặc dù ai cũng thích ăn “cơm tàu” và đọc
“Tam Quốc”). Người Nga có nền văn hóa vĩ đại, đã từng là đồng minh chiến lược
của Việt Nam,
nhưng không hấp dẫn được thế hệ trẻ bằng Vodka và Tolstoy. Người Nhật đến Việt
nam rất sớm, nhưng không ở lâu, chỉ để lại vài hình tượng còn sót lại tại Faifo
(Hội An) và “văn hóa Honda” thời hậu chiến. Người Mỹ thời chiến tranh Việt Nam và thời hậu
chiến chỉ hấp dẫn người Việt bằng “văn hóa Hollywood và McDonald”.
Nhưng sau 20 năm, đã có 16.500 sinh viên Việt Nam sang Mỹ học
(đông nhất trong số các nước Đông Nam Á). Đó là một tin mừng (good news) và tài
sản quý (good assets) như là “sức mạnh mềm” để nối kết hai nước. Có lẽ đây là lý
do Trung Quốc sợ Việt Nam “diễn biến hòa bình” và sui ta chống Mỹ. Trong khi “China
Program” (tại Havard KSG) mỗi năm đào tạo 60 quan chức cao cấp cho Trung Quốc (gần
hai thập kỷ nay) thì Việt Nam vẫn nghe theo Trung Quốc chống “diễn biến hòa
bình”, làm “đứa em sinh đôi” là “Việt Nam Program” tụt hậu. Chính vì vậy mà Đại
học Fulbright càng có ý nghĩa (nhưng đừng quá muộn).
Gần đây, Tổng thống Obama đã thấy tầm quan trọng của châu
Á-Thái Bình Dương, và quyết tâm “xoay trục”, để bảo vệ lợi ích chiến lược và
vai trò lãnh đạo của Mỹ, đồng thời bảo vệ các nước đồng minh/bạn bè ở khu vực trước
mối đe dọa của Trung Quốc. Tầm nhìn mà bà Hillary Clinton đề xướng nay đang
được chính quyền Obama triển khai. Chỉ có điều là hành động như thế nào để tầm
nhìn có ý nghĩa và trở thành hiện thực (trước khi quá muộn). Bởi vì, trong khi
người Mỹ và người Việt vẫn đang nhảy điệu “slow waltz” theo “tiếng kèn ngập
ngừng”, thì người Trung Quốc không ngồi yên (đang nhảy “rock’n roll”).
Có người cho rằng, Tổng thống Obama có tầm nhìn và hiểu đúng
về Trung Quốc, nhưng đáng tiếc điều đó không còn thực sự có ý nghĩa nữa (“it
doen’t really matter anymore”). Những gì Trung Quốc đang làm tại Biển Đông và Việt
Nam có thể làm cho kết quả “xoay trục” của Mỹ trở thành quá ít và quá muộn. Chính
vì vậy, chuyến thăm châu Á và Việt Nam của Tổng thống Obama vào cuối năm nay càng
trở nên quan trọng, để đánh dấu một bước ngoặt mới, cần nâng cấp chiến lược châu
Á bằng “Xoay trục 3.0” và “Đối tác Chiến lược” với Việt Nam.
NQD. July18, 2015
* Nguyễn Quang Dy is a Harvard Nieman Fellow, 1993
-----
References
References
1. “A new era in US-Vietnam Relations”, A Report of the
Sumitro Chair, CSIS, June 2014
2. “The South China Sea – The Struggle for Power in Asia”, Bill
Hayton, Yale University Press, 2014. (Book
review, Ben Richardson, October 16, 2014).
3. “Pivot 2.0 : How the Administration
and Congress Can Work Together to sustain American Engagement in Asia to 2016”, A Report of the Asia Program, CSIS, January
2015
4. “The time is right for president Obama to visit Vietnam
in 2015”, Murray Hiebert & Phuong Nguyen, CSIS, February 19, 2015
5. “Obama got China right but it’s too late”.
Andrew Perk, Observer, Fabruary 6, 2015
6. “A new US Grand strategy towards China”, Robert
Blackwill & Ashley Tellis, The national Interest, April 13, 2015
7. “From Foe to Frenemy: Why the US is courting Vietnam”, David
Brown, Foreign Affairs, June 29, 2015
8. “With an absent US, China
marches on”, Fareed Zakaria,
Washington Post, July 2, 2015
9. “China’s
Soft Power Push”, David Shambaugh, Foreign Affairs, July-August 2015
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét