Một vành đai, Một con đường
Câu chuyện Một vành đai, Một con đường (Nhất đới Nhất lộ) chúng ta được nghe nói tới nhiều lần trên báo chí Trung Quốc và báo chí Việt Nam (mỗi khi có các đoàn cấp cao 2 nước đi thăm nhau). Nói và hiểu cho "rõ nghĩa" của cụm từ này (khái niệm, nội hàm của 4 từ tiếng Hán / 6 từ tiếng Việt) là khác nhau, không đơn giản. Với lãnh đạo TQ họ ẩn trong đó rất nhiều mưu lược, tính toán để thâu tóm thiên hạ. Còn với những nước mà họ (là TQ) "mời chào" đến với Nhất đới Nhất lộ này cũng có những cách tiếp cận, thực hiện khác nhau, chung quy lại hầu hết đã bước đầu kiểm chứng: lợi chưa thấy đâu cho đất nước dân tộc mà cái nguy cái hại nhỡn tiền: kinh tế quốc gia trồi sụt cùng với bẫy nợ không khéo sập xuống...
Bài viết đầu tháng 9 này post dưới đây của tác giả Nguyễn Quang Dy đã đáp ứng nhiều khúc mắc của người đọc và theo dõi tình hình một cách khái quát nhưng khá đầy đủ về 2 mệnh đề tác giả đã nêu lên: Nhất đới Nhất lộ và Thoát Trung.
Xin giới thiệu cùng bạn đọc và bạn bè cùng chia sẻ.
Vệ Nhi/Nguyễn Vĩnh.g-th
----
Nhất
đới Nhất lộ hay Thoát Trung
Tác giả: Nguyễn
Quang Dy
“Trí khôn của con người rất mạnh,
nhưng chúng ta không nên coi thường sự ngu xuẩn của con người” (“Human
wisdom is very powerful, but we should never underestimate human stupidity”
- Yaval Noah Harari, “It takes just one fool to start a war”).
Ba cơn địa chấn
Ngày 9/5/2018 đi vào lịch sử đương đại
Malaysia, như một “cơn địa chấn chính trị” (New York Times, May 17, 2018). Sự
kiện ông Mahathir Mohamad (93 tuổi) thắng cử còn là một “bước ngoặt chiến lược”
trong quan hệ giữa Malaysia với Trung Quốc và sáng kiến “Nhất đới Nhất lộ”, với
những hệ quả “không định trước” (unintended consequences). Trước đây, sáng kiến “Nhất đới Nhất Lộ” của Trung Quốc được triển khai thuận lợi tại Malaysia dưới thời ông Najib Razak, nay bỗng nhiên bị đảo lộn bởi ông Mahathir Mohamad. Hãy hình dung cái cầu khổng lồ “Nhất đới Nhất Nhất lộ” bắc ngang qua vùng Đông Nam Á, thì nay “nhịp cầu Malaysia” đang bị cơn địa chấn làm rung chuyển (tuy chưa sụp đổ).
Ông Mahathir trở lại chính trường ở tuổi “xưa nay hiếm”, liên minh với Anwar Brahim (là đối thủ chính trị) đánh bại Najib Razak để lên làm thủ tướng. Nhưng ông không chỉ điều tra để luận tội tham nhũng của Najib Razak, mà còn đang xoay trục để “thoát Trung”, đảo ngược nhiều chính sách của chính phủ cũ, trong đó có các dự án “Nhất đới Nhất lộ”.
Bước ngoặt này đang làm Bắc Kinh giật mình, đối phó lúng túng (vì bị bất ngờ). Tuy Bắc Kinh buộc phải xem xét lại để điều chỉnh chính sách, nhưng điều chỉnh như thế nào, và có kịp hay không lại là chuyện khác vì “thiệt hại đã xảy ra rồi” (damage is done). Làn sóng “thoát Trung” trước đây còn âm ỷ thì nay đang lan rộng nhanh sau cơn địa chấn Mahathir. Thực ra, trong năm 2018, Bắc Kinh đã giật mình và bị động đối phó với ba cơn địa chấn.
Thứ nhất, Kim Jung-un tìm cách xoay trục để “thoát Trung”, thông qua hòa hoãn Liên Triều và Mỹ-Triều nhằm “phi hạt nhân hóa” bán đảo Triều Tiên. Cuộc gặp cấp cao đầy kịch tính Moon-Kim (Panmunjion, 27/4) và Trump-Kim (Singapore, 12/6/2018) làm Bắc Kinh đau đầu vì để mất vai trò chủ đạo khi bị Mỹ và hai bên Triều Tiên gạt ra khỏi cuộc chơi mới.
Cơn địa chấn thứ hai là Mahathir lên cầm quyền tại Kuala Lumpur (9/5/2018), đang xoay trục để “thoát Trung”, và từng bước rút khỏi cuộc chơi “Nhất đới Nhất lộ”. Cơn địa chấn thứ ba là Trump bất ngờ quyết định (6/7/2018) đánh thuế 25% hàng hóa Trung Quốc trị giá 34 tỷ USD, mở màn cuộc chiến thương mại với Trung Quốc, sau khi phó thủ tướng Lưu Hạc sang Mỹ đàm phán nhưng thất bại. Đó là ba bước ngoặt lớn có ý nghĩa chiến lược.
Có thể nói, ba cơn địa chấn nói trên không chỉ làm Bắc Kinh đau đầu đối phó, mà còn làm nhiều nước khác (trong đó có Việt Nam) cũng giật mình, phải suy nghĩ lại để điều chỉnh chiến lược, (trước khi quá muộn). Tuy Malaysia và Bắc Triều Tiên khác nhau, nhưng ý định “thoát Trung” không phải là một hiện tượng ngẫu nhiên, mà là một xu hướng tất yếu. Trong một bài gần đây tôi có viết: “nếu một số nước ngả theo Trung Quốc là nhất thời do hoàn cảnh hay vì thực dụng nên có thể đảo ngược, thì xu hướng thoát Trung không thể đảo ngược”.
Xu hướng thoát Trung
Sau nhiều năm ngả theo Trung Quốc, nên bị mắc
kẹt vào cái “bẫy nợ” (debt trap) của kế hoạch “Nhất đới Nhất lộ”, ông Najib Razak đã đưa
Malaysia đến bờ vực phá sản. Nay ông Mahathir Mohamad lên cầm quyền, phải dọn
dẹp cái đống tham nhũng và nợ công (250 tỷ USD) do chính phủ cũ để lại.
Malaysia là một nước ASEAN có quá trình phát triển đầy ấn tượng (trong thập
niên 1980 và 1990), nhưng Malaysia nay đang suy thoái và có nguy cơ trở thành
nạn nhân của “chủ nghĩa thực dân mới” (neo-lolonialism) mang bản sắc Trung
Quốc. Trong chuyến thăm Trung Quốc (17-21/8/2018), Mahathir đã tuyên bố hủy bỏ hai dự án lớn “bất công” mà chính phủ cũ đã ký với Trung Quốc (trị giá hơn 22 tỷ USD), trong đó dự án đường sắt cao tốc phía Đông (trị giá 20 tỷ USD) và dự án đường ống dẫn khí đốt (trị giá 2,3 tỷ USD). Ngoài ra, Mahathir còn đang cân nhắc một số dự án lớn khác như khu đô thị Forest City (trị giá 100 tỷ USD) và dự án cảng Melaka (trị giá 10,5 tỷ USD). Forest City là một khu đô thị mới được xây trên 4 hòn đảo nhân tạo, có đủ diện tích cho 700,000 người (chủ yếu nhắm vào người Trung Quốc di cư) làm người ta lo ngại về sự đảo lộn cân bằng sắc tộc.
Tại cuộc họp báo cùng Thủ tướng Lý
Khắc Cường tại Băc Kinh (20/8/2018), Mahathir đã phát biểu thẳng thừng: “Chúng
ta phải luôn nhớ rằng trình độ phát triển của các nước không giống nhau. Chúng
tôi không muốn rơi vào tình huống có một loại chủ nghĩa thực dân kiểu mới diễn
ra vì các nước nghèo không thể cạnh tranh với các nước giàu, do đó chúng ta cần
thương mại công bằng”. Tuy đã 93 tuổi,
nhưng ông Mahathir làm người ta phải kính nể.
Thật là trớ trêu khi Mahathir chỉ
trích Trung Quốc là chủ nghĩa thực dân mới, vì trước đây khi còn đang cầm quyền
(trong thập niên 1980 và 1990) ông thường chỉ trích phương Tây đúng như vậy.
Lúc đó, chính Trung Quốc cũng hay dùng lá bài “chống chủ nghĩa thực dân mới” để
chỉ trích phương Tây, nhưng nay chính họ lại trở thành “thực dân mới”. “Nhất
đới Nhất lộ” chẳng khác gì các hiệp ước bất bình đẳng mà trước đây các nước phương
Tây áp đặt cho Trung Quốc. Nó còn nhằm răn đe không cho ai chống đối hay chỉ
trích Trung Quốc.
Tuy Mahathir không sợ Trung Quốc,
nhưng ông vẫn đủ khôn ngoan để không làm mất mặt Bắc Kinh, bằng cách đổ mọi
chuyện tồi tệ tại Malaysia cho Najib Razack. Chắc Bắc Kinh không hài lòng với
Mahathir, nhưng lúc này đành phải nhịn để cứu vãn tình thế, và điều chỉnh lại chính
sách “Nhất đới Nhất lộ” cho phù hợp hơn với các đối tượng khác nhau.
Sau
hội nghị Bắc Đới Hà, Tập Cận Bình đã dự môt cuộc họp tại Bắc Kinh (cuối 8/2018)
để xem lại chính sách. Tập nói, “Nhất đới Nhất lộ” là sáng kiến hợp tác kinh
tế, chứ không phải một liên minh quân sự hay địa chính trị. Đó là một quá trình
cởi mở và quy nạp, chứ không phải lập hội kín hay câu lạc bộ…”. Việc đầu tư sẽ
dựa trên “tham khảo rộng rãi, cùng nhau đóng góp, và chia sẻ lợi ích”
(extensive consultation, joint contributions, and shared benefits). (Mahathir, China and neo-colonialism, Richard McGregor,
Nikkei, August 30, 2018).
Tuy nhiên, có nhiều khả năng
Mahathir sẽ dùng “lá bài Nhật” để tránh dựa quá nhiều vào Trung Quốc. Mahathir
tin rằng trong khu vực chỉ có Nhật là thực sự có khả năng đối trọng với Trung
Quốc về đầu tư và xây dựng hạ tầng. Trước đây, Mahathir đã nổi tiếng là bài
ngoại và chống phương Tây, trong khi ngưỡng mộ và muốn hợp tác với Nhật. Nay
chắc Mahathir sẽ trở lại chính sách “Hướng Đông” (Look East) như trước, và có
thể tăng cường quan hệ với nhóm “tứ Cường” (Quad) gồm Mỹ-Nhật-Ấn-Úc (theo tầm
nhìn Indo-Pacific).
Nhất
đới nhất lộ và bẫy nợ
Theo
các nhà quan sát, sáng kiến “Nhất đới Nhất lộ” của Trung Quốc đang bị thụt lùi
(setbacks), vì các nước Đông Nam Á bắt đầu chống lại kế hoạch đó do Trung Quốc
dẫn dắt nhằm thay đổi trật tự khu vực. Bài học Sri Lanka làm nhiều người tỉnh
ngộ khi nước này nợ Trung Quốc quá nhiều, nên buộc phải cho thuê cảng
Hambantota tới 99 năm. (Backlash builds
against China as Belt and Road ties fray, Hiroyuki Akita, Nikkei, September 2, 2008).
Theo
Philip Bowring (Yale Global Online, August 30, 2018), có 75 nước lớn
nhỏ đã tham gia sáng kiến “Nhất đới Nhất lộ” của Trung Quốc. Nhưng một số nước đang
lo ngại gánh nợ ngày càng chồng chất, và một số dự án đang trở thành vấn đề chính
trị quốc gia. (Rethinking Belt and
Road Debt. Philip Bowring, Yale Global Online,
August 30, 2018).
Ngoài trường hợp Malaysia, các nước khác
trong khu vực ngả theo Trung Quốc nay đều đứng trước vấn đề tương tự về “bẫy
nợ”, chủ quyền quốc gia, và phản ứng của nhân dân, nên sớm muộn cũng sẽ đảo
chiều. Philippines là một ví dụ. Gần đây Tổng thống Duterte đã thay đổi thái độ
đối với Trung Quốc. Trong vòng 10 ngày tháng 8/2018, Duterte đã ba lần phát
biểu khác trước về Biển Đông, chứng tỏ có sự rạn nứt giữa Manila và Bắc Kinh.
Người Philippine ngày càng thất vọng
vì Manila đã thỏa hiệp nhiều với Trung quốc về Biển Đông, nhưng không được đáp
lại tương ứng. Vì bầu cử giữa kỳ sắp tới (5/2018) nên Duterte không thể bỏ qua
dư luận. Điều chỉnh của Manila phản ánh hai thực tế: Một là Bắc Kinh dùng lợi
ích kinh tế của các dự án “Nhất đới Nhất lộ” để lôi kéo các nước khu vực theo
họ không hề dễ dàng. Hai là Trung Quốc tuy không có vấn đề lớn về huy động vốn
để hỗ trợ các dự án này, nhưng triển khai kém, thiếu minh bạch, và làm nước chủ
nhà bất bình.
Điều này làm cho các nước vay tiền Trung
Quốc sẽ phản ứng lại mỗi khi bị lôi cuốn vào vòng ảnh hưởng của Trung Quốc. Trong
khu vực có một số nước láng giềng có vẻ thân Trung Quốc như Thailand, Myanmar, Lào
và Campuchea. Lúc đầu, Bắc Kinh muốn chia dự án “đường sắt cao tốc” Thái-Trung
(trị giá 5,5 tỷ USD) cho các nhà đầu tư, nhưng sau đó Bangkok quyết định tự làm
chủ, vì không muốn Bắc Kinh nắm quyền kiểm soát. Chính phủ quân sự Thái còn đề
nghị lập “ngân hàng phát triển khu vực Đông Nam Á” (Southeast Asian
regional development bank) làm đối trọng với sáng kiến “Nhất đới Nhất lộ” của Bắc
Kinh.
Myanmar cũng đòi Trung Quốc giảm quy
mô dự án cảng nước sâu Kyauk Pyu (trị giá 7,3 tỷ USD) vì giá quá cao và sợ sa vào
bẫy nợ Trung Quốc, và chưa nhất trí triển khai dự án đường sắt cao tốc nối liền
hai nước, vì lo ngại Bắc Kinh có thể sử dụng nó vào mục đích quân sự. Tại Lào,
đặc khu kinh tế Boten và tuyến đường sắt Boten-Vientiane (trị giá 6 tỷ USD), và
tại Campuchia, cảng Shihanoukville và dự án Koh Kong, cũng đang gây tranh cãi. Theo
ông Gareth Evans (cựu ngoại trưởng Úc) “Lào và campuchia, mỗi nước đã vay hơn 5
tỷ USD, nên hiện nay là “chi nhánh của Trung Quốc” (wholely owned subsidiaries
of China).
Theo Joshua
Kurlantzick
(Council on Foreign Relations) kế hoạch “Nhất đới Nhất lộ” của Trung Quốc tuy
làm các quan chức Mỹ kinh ngạc và lo ngại, nhưng nó chứa đựng những mầm mống bất
ổn, có thể làm cho các nước trong cuộc sẽ đảo chiều chống lại Bắc Kinh chứ không
giúp họ có được ảnh hưởng và uy tín như người ta vẫn tưởng. (Chinas Risky Play for Global Power, Joshua
Kurlantzick,
Washington Monthly, September/October
2018).
Theo
các chuyên gia kinh tế, kế hoạch “Nhất đới Nhất lộ” của Trung Quốc còn lớn hơn
cả Kế hoạch Marshall. Nhưng Kế hoạch Marshall viện trợ chủ yếu là không hoàn lại
(grants) trong khi Trung Quốc chủ yếu cho vay làm hạ tầng với lãi suất cao hơn
các nhà tài trợ chính (như Nhật). Theo ADB, các nền kinh tế mới nổi tại châu Á
cần khoảng 1.700 tỷ USD/năm để duy trì tăng trưởng, xóa đói giảm nghèo và đối
phó với biến đổi khí hậu, nhưng Mỹ không thể đáp ứng nhu cầu của các nước đó
như Trung Quốc với kế hoạch “Nhất đới Nhất lộ”.
Cuộc
chiến thương mại giai đoạn hai
Theo các chuyên
gia, cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung có ba
vấn đề chính: Thứ nhất là công nghệ, vì Trung Quốc vẫn lệ thuộc vào công nghệ
Mỹ (ví dụ ZTE); Thứ hai là tài chính (ví dụ Broadcom muốn mua Qualcomm); Thứ ba
là chiến lược, vì Bắc Kinh có thể dùng “bẫy nợ” để kiểm soát các cơ sở hạ tầng
quan trọng, thậm chí kiểm soát cả một nước. Trong khi chiến tranh thương mại
tiếp tục leo thang, thì kế hoạch “Nhất đới Nhất lộ” đang làm cho một số nước
phải nghĩ lại (second thought) và dẫn tới một làn sóng đảo ngược (backlash).
Về
lâu dài, “bẫy nợ” có thể thúc đẩy các nước khu vực phản kháng, làm Bắc Kinh khó
đạt được các mục tiêu kinh tế và chiến lược tại Châu Á như muốn đẩy Mỹ ra khỏi
khu vực này. Tuy Mỹ không có khả năng đáp ứng nhu cầu của các nước như Trung Quốc
(với “Nhất đới Nhất lộ”), nhưng sáng kiến này ẩn chứa nhiều bất ổn lâu dài đối
với Trung Quốc cũng như các nước vay vốn. Malaysia là một ví dụ về tâm lý dân
chúng có thể gây bất ngờ, và thái độ nghi ngại Trung Quốc có thể biến thành tâm
lý bài ngoại và xung đột sắc tộc nguy hiểm.
Theo Bloomberg
(30/8/2018), Trump đã nói với các trợ lý rằng ông sẵn sàng áp thuế 25% lên thêm
200 tỷ USD hàng Trung Quốc từ ngày 6/9 (sau khi lấy ý kiến dân chúng). Như vậy,
giai đoạn hai sẽ chính thức bắt đầu vào tuần tới, và chắc sẽ không dừng lại cho
đến sau bầu cử giữa kỳ (11/2018). Vừa qua, đàm
phán (cấp thứ trưởng) không có kết quả. Tuần trước, khi trả lời Reuters , Ông
Trump đã nói rằng việc giải quyết chiến tranh thương mại với Trung Quốc sẽ “mất
thời gian” và “chưa có khung thời gian” để kết thúc cuộc chiến này. Tuy dự trữ ngoại hối của Bắc Kinh lên đến 3.200 tỉ USD, nhưng nợ công đã vượt 250% GDP. Nay cuộc chiến thương mại đã làm thị trường chứng khoán Shanghai sụt 20%, làm vốn đầu tư đang chạy ra khỏi Trung Quốc, tăng trưởng không thể vượt mức 6%. Mới đấu hiệp một (trị giá 50 tỷ USD), Trung Quốc đã mất hơn 2.000 tỉ USD dự trữ ngoại hối. Nếu đấu hiệp hai (trị giá 200 tỉ USD) thì Trung Quốc sẽ mất bao nhiêu? Sẽ đến lúc Bắc Kinh không còn ddue tiền để đầu tư vào các dự án “Nhất đới Nhất lộ” tại khu vực (kể cả “ba đặc khu”).
Trong khi chờ các chuyên gia kinh tế và chuyên gia luật pháp phân tích kỹ hơn về hai vấn đề (hay quả bom) “Đặc khu Kinh tế” và “Nhân dân Tệ”, tôi xin chia sẻ vài nét về bối cảnh quốc tế hiện nay để cùng tham khảo. Thực ra, quyết định cho đồng NDT được chính thức lưu thông trên toàn tuyến biên giới, hay dự luật “ba đặc khu kinh tế”, hay ý tưởng lập các “khu hợp tác kinh tế qua biên giới” theo mô hình “hai nước một khu” là một chuỗi sự kiện có chung nguyên nhân và hệ quả như phương trình của một bài toán đã được cài đặt từ trước.
Đặc
khu kinh tế và nhân dân tệ
Gần hai tháng qua, dự luật ba đặc khu kinh tế
bị dư luận phản đối dữ dội nên Quốc hội phải hoãn (đến hết năm nay), như một quả
bom nổ chậm được hẹn giờ lùi lại, nhưng chưa tháo ngòi nên vẫn nguy hiểm, trong
tình thế “tiến thoái lưỡng nan”. Đúng lúc đó, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước lại
đổ thêm dầu vào lửa bằng thông tư 19/2018/TT-NHNN (28/8/2018) hướng dẫn thực
hiện điều 8 Hiệp định Thương mại Biên giới do Bộ trưởng Công thương ký
(12/9/2016). Thông tư 19 cho phép đồng Nhân dân Tệ (Yuan) được lưu thông và
thanh toán tại 7 tỉnh biên giới từ ngày 12/10/2018. Một tháng nữa quả bom này có
thể phát nổ. Thứ nhất, theo hiến pháp Việt Nam, trên toàn quốc chỉ được lưu hành một đồng tiền duy nhất (là VND). Chủ quyền tiền tệ là chủ quyền quốc gia, được hiến pháp quy định. Thông tư 19 của NHNN cho phép đồng NDT được lưu hành (cùng với VNĐ) có thể vi hiến và lạm quyền, cần phải xem lại. Trên thế giới không có nước nào làm như vậy (trừ Zimbabwe).
Thứ hai, trong khi cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung đang diễn ra (và sẽ kéo theo chiến tranh tiền tệ), việc NHNN cho phép đồng NDT được lưu hành hợp pháp (dọc biên giới), trong khi vẫn cấm đồng USD được lưu hành, thì đó là một hành động ủng hộ bên này (Trung Quốc) chống lại bên kia (Mỹ), vi phạm nguyên tắc “ba không” trong chủ trương đối ngoại.
Thứ ba, trong khi Mỹ đang leo thang trừng phạt Trung Quốc (giai đoạn hai), thì NHNN lại công khai hậu thuẫn Trung Quốc bằng cách mở toang cửa ngõ cho đồng NDT được lưu thông hợp pháp như “quốc tế hóa” NDT để thay thế đồng USD. Hành động này chẳng khác gì cung cấp cho Mỹ lý do chính đáng để trừng phạt Việt Nam và không hợp tác với Việt Nam nữa. Đó chính là điều mà Trung Quốc mong muốn, để Việt Nam mãi phụ thuộc vào họ.
Thứ tư, khi NNHN cho đồng NDT được chính thức lưu hành và thanh toán (song song với VNĐ) trên 7 tỉnh biên giới thì cũng đồng nghĩa cho đồng NDT được lưu hành trên khắp lãnh thổ Việt Nam, vì tiền tệ hầu như không biết biên giới. Trong khi đồng NDT mạnh hơn thì đương nhiên VND sẽ bị NDT bóp chết ngay trên sân nhà, đe dọa an ninh tiền tệ. Đây là quá trình “Nhân dân Tệ hóa” nền kinh tế Việt Nam, mà NHNN lẽ ra phải chống. Tại sao NHNN đã từng chống “Đô La Hóa”, nhưng nay lại tiếp tay cho “Nhân dân Tệ hóa”.
Thứ
năm, Sau khi Việt Nam đã mở toang cửa ngõ biên giới cho người Trung Quốc tự do
ra vào Việt Nam mà không cần thủ tục XNC, nay NHNN lại mở toang cổng tài chính cho
tiền và hàng Trung Quốc tràn vào Việt Nam như sân sau của họ. Để tránh thuế của Mỹ (đợt hai), chắc hàng hóa Trung Quốc sẽ
được tuồn sang Việt Nam nhiều hơn, và chủ trương cho phép thanh toán bằng đồng
NDT tại Việt Nam sẽ giúp Trung Quốc thúc đẩy quá trình này.
Thứ sáu, đáng chú ý là thông tư 19 được NHNN
ban hành một tuần sau khi ông Trần Quốc Vượng (Thường trực Ban Bí thư) sang thăm
Bắc Kinh và gặp Tập Cận Bình (20/8/2018), và ngay trước khi chính quyền Trump công
bố sẽ đánh thuế 25% lên hàng hóa Trung Quốc trị giá 200 tỷ USD, bắt đầu từ 6/9/2018
(giai đoạn hai). Đây là thời điểm rất nhạy cảm vì cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung
đang leo thang, bước vào một giai đoạn quyết liệt. Thứ bảy, trong một báo cáo gửi chính phủ (VNEconomy, 15/8/2018 ), Bộ Kế hoạch Đầu tư đã khuyến cáo “cần xem xét và cân nhắc” khi vay vốn Trung Quốc vì các dự án có nhiều vấn đề. Trong khi đó, Bộ Công Thương và NHNN lại mở toang cửa ngõ để đồng NDT có thể tràn vào trong một cuộc “xâm lăng mềm” về tiền tệ khó tránh, làm các chuyên gia kinh tế cũng ngỡ ngàng khó hiểu, vì chính phủ kiến tạo “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”.
Lời cuối
Trong khi các nước khác trong khu vực (như Malaysia) đang tỉnh ngộ để tìm cách thoát Trung và tránh cái “bẫy nợ” của “Nhất đới Nhất lộ”, thì Việt Nam vẫn chưa tỉnh và vẫn làm ngược lại bằng dự luật “Ba Đặc khu” và “Thông tư 19” cho phép đồng NDT được lưu hành hợp pháp tại Việt Nam. Đây là hai quả bom nổ chậm đang đe dọa an ninh kinh tế, an ninh tiền tệ, và an ninh quốc gia mà hệ quả trước mắt cũng như lâu dài chưa thể lường hết được.
Chiến tranh thương mại Mỹ-Trung đang đặt ra những vấn đề mới, với những thách thức và cơ hội mới về đối nội và đối ngoại chưa từng có. Đây là một bước ngoặt mà Việt Nam phải lựa chọn vì lợi ích dân tộc trên hết (Vietnam First) bằng cách tái cân bằng quan hệ quốc tế và điều chỉnh chiến lược, nhằm thoát khỏi cái vòng kim cô ý thức hệ đã kìm hãm Việt Nam quá lâu. Nếu không cải cách thể chế toàn diện (cả kinh tế và chính trị) thì sẽ quá muộn.
Trước đây, ông Nguyễn Văn Linh đã từng nói: “Đổi mới hay là chết”. Nay ông Trương Tấn Sang (đã nghỉ hưu) cũng nói: “Thời gian và cơ hội không chờ chúng ta”…
Tham khảo
1. China’s debt traps around the world are a trademark of its imperialist
ambitions, John Pomfret, Washington Post,
August 27, 2018
2.
Xi Jinping’s aggressive pursuit of global power
triggers a praiseworthy backlash, Editorial Board, Washington Post, August 30, 2018
3. Mahathir, China and neo-colonialism, Richard McGregor, Nikkei, Asian Review, August 30, 2018
4. Rethinking Belt and Road Debt. Philip Bowring, Yale Global Online, August 30, 2018
5. Backlash builds against China as Belt and Road ties fray, Hiroyuki
Akita, Nikkei Asian Review, September 2, 2008
6. Chinas
Risky Play for Global Power, Joshua Kurlantzick, Washington
Monthly, September/October 2018NQD. 4/9/2018
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét