Ông John McCain là một chính khách có hạng tại Hoa Kỳ trong nhiều năm nay. Là người xuất thân từ nghiệp nhà binh giống như ông nội và cha mình, J. MacCain đã có những năm tham chiến tại Việt Nam. Là tù binh Hilton-Hà Nội từ 1967 cho đến HĐ Paris 1973 thì được trả tự do và về Mỹ đã giải ngũ rồi mau chóng lao vào các hoạt động chính trị tại Hoa Kỳ.
Ảnh dưới: TNS John McCain
Ông đã cùng một TNS khác - cũng là tù binh của "Bắc Việt" - ông John Kerry, cả hai đều rất năng nổ vận động chính giới Mỹ bình thường hóa quan hệ với kẻ thù cũ là Việt Nam. Ông McCain có một quan điểm chính trị rất độc lập trong phe Cộng hòa và ông muốn Việt Nam là một đối trọng với sự bá quyền nước lớn của Trung Quốc trong khu vực ĐNA và châu Á.
Bài phát biểu mới đây của vị TNS Hoa Kỳ tôi nhận được từ email của người bạn - một nhà ngoại giao thâm niên đầy kinh nghiệm - tôi nghĩ rằng bài này rất đáng đọc tham khảo ttong tình hình căng thẳng ở Biển Đông gần đây, xin giới thiệu với các bạn dưới đây.
(Vệ Nhi gth)
{Xem trích ngang về vị Thượng nghị sĩ này đặt ở cuối bài phát biểu}.
Phát biểu của ông John McCain tại hội thảo về an ninh hàng hải trên biển Đông ởTrung tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế (CSIS) họp tại Washington .
20-06-2011
Cảm ơn John [Hamre] về lời giới thiệu hào phóng đó và cảm ơn tình bạn của anh trong nhiều năm qua. Luôn là điều tuyệt vời [để tôi] trở lại CSIS, nơi đã làm nhiều điều với mục đích thông báo suy nghĩ của Mỹ đến với thế giới và sự lãnh đạo của chúng tôi trong đó.
Đó là một điều kỳ quặc mà tôi đã trải qua. Và chắc chắn đó là một sự tương phản đáng buồn với sự nghèo đói khốn cùng ở Rangoon . Tôi đến thăm một phòng khám tư nhân [của những người bị bệnh] AIDS, mọi ngườiđông nghẹt, nhiều trẻ em mồ côi, những người cần sự chăm sóc nhiều hơn những người có sẵn để chăm sóc cho họ. Tôi đã đi đến một dịch vụ cung cấp tang lễmiễn phí cho các linh hồn quá cố của những gia đình quá nghèo, để cho những người thân yêu của họ được chôn cất đàng hoàng. Đau lòng lắm, và điều này làm cho các bạn ước muốn, phải chi chính phủ [Miến Điện] cũng dành [sự đầu tư] vềsựnhiệt tình và tài nguyên với mức độ tương tự để phát triển đất nước của họnhưlà việc xây dựng thủ đô.
Tuy nhiên, trong các cuộc họp của tôi với Phó Chủ tịch thứ nhất, hai người đứng đầu hai viện Quốc hội, và những người khác, rõ ràng rằng chính phủ này muốn có quan hệ tốt hơn với Hoa Kỳ. Tôi nhấn mạnh rằng chính phủ của tôi và tôi chia sẻ khát vọng này, và như vậy là điều đó không phải là không thể. Sau cùng, nếu Hoa Kỳvà Việt Nam có thể cải thiện quan hệ, mà tôi biết một hoặc hai điều về vấn đề này, bất cứ điều gì cũng có thể xảy ra.
Tuy nhiên, điểm chính tôi đã nhấn mạnh rằng bất kỳ sự cải thiện quan hệ nào cầnđược xây dựng, không những trên các cuộc nói chuyện vui vẻ, mà còn cần có hànhđộng từ cả hai phía. Hoa Kỳ cần sẵn sàng đặt mọi phương diện chính sách của chúng ta lên trên bàn, và để làm thay đổi những điều cụ thể mà chính phủ Nay Pyi Taw đã hỏi chúng tôi. Nhưng điều này chỉ có thể được thực hiện cùng với các hành động cụ thể vềphía họ, đặc biệt là những lời kêu gọi của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc: phóng thích tất cả các tù nhân lương tâm, cho phép Hội Chữthập đỏ được tự do vào thăm tất cả các nhà tù, bắt đầu một quá trình hòa giải quốc gia thực sự có liên quan đến các đảng đối lập chính trị và dân tộc, gồm Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ, và bảo đảm sự an toàn và tự do đi lại của bà Aung San Suu Kyi.
Tôi đã có cơ hội gặp Bà [Aung San Suu Kyi] trong chuyến thăm của tôi, và lý do tôi vẫn còn hy vọng cho người dân Miến Điện đó là vì bà. Hôm qua là sinh nhật của bà Aung San Suu Kyi, và bà bày tỏ niềm hy vọng này: “Nếu tôi được hỏi điều gì tôi mong muốn trong ngày sinh nhật của tôi, tôi muốn hòa bình, ổn định và thịnh vượng cho đất nước tôi”. Người phụ nữ tuyệt vời này vẫn còn là nguồn cảm hứng cho những người dân của bà và cho tôi. Và tôi đồng ý với bà rằng, đây không phải là lúc Hoa Kỳ dỡ bỏ lệnh trừng phạt. Chúng ta cũng nên làm việc để thiết lập một Ủy ban Điều tra Liên hợp quốc, mà điều này không liên quan gì đến sựtrừng phạt và tất cả mọi thứ liên quan đến sự thật và công lý cho người dân Miến Điện.
Từ Miến Điện, tôi đã đi đến Singapore tham dự Đối thoại Shangri La, nơi mà một trong những chủ đề chính của cuộc thảo luận là chủ đề của hội nghị này: an ninh hàng hải ở biển Đông. Vấn đề này gây xúc động mãnh liệt giữa các nước tuyên bố chủ quyền trên vùng biển và vùng lãnh thổ. Và các chuyên gia thực sự hiểu những vấn đề phức tạp về lịch sử và pháp lý của những tuyên bố chủ quyền này thì khá nhỏ. Tôi đến từ Arizona , nơi mà chúng ta biết việc tranhđấu sử dụng đất và nước phức tạp như thế nào. Tôi cũng là một cựu lính Hải quânđã dành phần lớn cuộc đời của mình đi đây đó và làm việc về các vấn đề an ninh trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Và tôi ngày càng lo ngại, rằng biểnĐôngđang trở thành một điểm nóng xung đột.
Những năm vừa qua cho thấy sự leo thang nhanh chóng về tình trạng căng thẳng giữa các quốc gia trong khu vực hàng hải đang tranh chấp và hay thay đổi này. Tôi không cần phải nói lại cho các cử tọa ở đây nghe tất cả các sự cố. Dĩ nhiên, điều quan trọng là tất cả các bên thực hiện sự kiềm chế. Và để chắc chắn rằng, cácđối tác ASEAN của chúng ta sẽ cần phải thỏa hiệp, đặc biệt là các nước thoảhiệp với nhau, để đạt được một kết quả hòa bình và cùng có lợi, như nhiều nước trong số các nước này thừa nhận.
Điều đó có nghĩa là, tình hình này cần phải nói thẳng một chút: Một trong những lực lượng chính làm cho các căng thẳng trên biển Đông trầm trọng hơn, và làm cho giải pháp hòa bình của các tranh chấp này khó khăn hơn để đạt được, đó là hành vi hung hăng của Trung Quốc và việc đòi chủ quyền lãnh thổ vô căn cứ mà họ tìm cách theođuổi.
Điều gây khó khăn cho tôi, và tôi cũng nghĩ rằng nó cũng gây khó khăn cho nhiều quý vị ở đây, đó là các tuyên bốmở rộng mà Trung Quốc tuyên bố trên biển Đông; các lý do căn bản cung cấp cho các tuyên bố này, không có cơ sở luật pháp quốc tế; và những hành động ngày càng quyết đoán mà Trung Quốc đang thực hiện để thực thi các quyền tự nhận của họ, gồm cả ở vùng biển trong vòng 200 hải lý ngoài khơi bờ biển của các nước ASEAN, như là trường hợp gần đây trong các sự cố riêng biệt liên quan đến Việt Nam và Philippines. Bản đồ về cái gọi là chín vạch của Trung Quốc tuyên bố tất cả các đảo trên biểnĐông là chủ quyền lãnh thổ Trung Quốc và tất cả các vùng lãnh hải của nó là vùng đặc quyền kinh tế của Trung Quốc. Hơn nữa, những giải thích cụ thể về luật pháp quốc tế của Trung Quốc sẽ làm xói mòn các nguyên tắc lâu dài về tự do hàng hải– bóp méo khái niệm gồm, mở rộng cho mọi người đi vào, khái niệm loại trừ,sẽhạn chế đi vào [vùng biển]. Một số người ở Trung Quốc thậm chí còn đề cậpđến học thuyết này, như trích dẫn, ‘chiến tranh pháp lý’.
Tại sao điều này quan trọng đối với Hoa Kỳ? Đây là câu hỏi mà nhiều người Mỹ sẽhỏi, đặc biệt là khi chúng tôi liên quan đến ba cuộc xung đột đã xảy ra, và khi nợ quốc gia của chúng tôi thực sự trở nên không bền vững. Tại sao Mỹ nên quan tâm đến tranh chấp lãnh hải của các nước bên cách xa nửa vòng trái đất?
Chắc chắn có lý do kinh tế để tham gia. Khu vực biển Đông là nguồn quan trọng về công việc làm và tài nguyên thiên nhiên có lợi cho nhiều người Mỹ. Tuy nhiên, có lẽ xét rộng hơn là yếu tố chiến lược. Trung tâm địa chính trị thế giới hấp dẫn đang chuyển sang khu vực châu Á-Thái Bình Dương -một khu vực, trong đó nhiều nước đang trỗi dậy cùng một lúc về sự giàu có và sức mạnh. Điều này tạo ra sự va chạm giữa các quốc gia, nơi các tranh chấp cũvẫn chưa được giải quyết. Hoa Kỳ có một lợi ích an ninh quốc gia trong việc duy trì một sự cân bằng chiến lược thuận lợi trong khu vực quan trọng này. Và trọng tâm đó là để bảo vệ sự tự do phổ quát trong việc đi lại vàđi vào các vùng biển như một nguyên tắc căn bản của trật tự quốc tế.
Những nỗ lực phủ nhận tự do hàng hải trên biển Đông đặt ra một thách thức nghiêm trọng đến trật tự quốc tế, dựa trên luật lệ, rằng Hoa Kỳ và đồng minh của chúng tôi đã duy trì trong nhiều thập kỷ. Nếu những nỗ lực này thành công - sẽ liên tục bắt nạt, cho phép một nước áp đặt tuyên bố chủ quyền lãnh thổ của mình bằng vũ lực và biến biển Đông thành một khu vực không cho các tàu thương mại và quân sự của các quốc gia khác, kể cả Hoa Kỳ, đi vào - hậu quả sẽ là thảm khốc. Điềuđó có thể thiết lập một tiền lệ nguy hiểm để làm suy yếu luật pháp quốc tế,theo cách mà những người có ý định bệnh hoạn, không còn nghi ngờ gì nữa, sẽ áp dụng ở nơi khác. Điều đó có thể tạo ra sự khuyến khích gia tăng quyền lực gây phiền hà khắp mọi nơi để sử dụng vũ lực, điều mà các phương tiện pháp lý và hoà bình không thể bảo đảm cho họ. Và nó sẽ đưa chúng ta đến gần hơn vào một ngày, khi hải quân Mỹ thấy rằng không thể đi vào và hoạt động một cách an toàn ở Tây Thái Bình Dương.
"Vậy thì Hoa Kỳ nên làm những gì? " Để tôi cung cấp một vài đề nghị để kết thúc.
Thứnhất, về lập trường của Mỹ trên biển Đông, chúng ta nhận thấy rằng, nếu có thể,một chính sách rõ ràng có thể ổn định hơn so với một chính sách không rõ ràng. Tôi hoan nghênh Ngoại trưởng Clinton khi tuyên bố rằng các bên tranh chấp trên biển Đông phải được giải quyết thông qua đàm phán đa phương, và chúng ta sẽ tìm cách tạo điều kiện cho các cuộc đàm phán. Đa số các nước châu Á hoan nghênh tuyên bố đó. Trên hết, đây là mối quan hệ của Trung Quốc với các nước láng giềng, không phải giữa Trung Quốc với Hoa Kỳ. Tuy nhiên, rất hữu ích cho chúng ta tiếp tục nói rõ quan điểm của Mỹ, đểcác nước khác có thể biết, Hoa Kỳ chấp nhận những yêu sách nào, yêu sách nào chúng ta không chấp nhận, và những hành động nào chúng ta chuẩn bị để hỗ trợcác chính sách và cácđối tác của chúng ta, đặc biệt là Philippines, một nướcđồng minh có ký hiệp ước.
Thứ hai, Hoa Kỳ nên hỗ trợ các đối tác ASEAN của chúng ta trong việc giải quyết tranh chấp của họ trên biển Đông, như một phương tiện cổvũ ASEAN đoàn kết hơn để đối mặt với Trung Quốc.Trung Quốc tìm cách khai thác sự chia rẽ giữa các thành viên ASEAN - làm cho họchống đối nhau, để phục vụ cho kế hoạch riêng của Trung Quốc. Giải quyết các tranh chấp trên biển giữa các nước ASEAN, như Malaysia và Brunei gần đây đã thực hiện, sẽ cho phép các đối tác của chúng ta thiết lập một mặt trận thống nhất hơn.
Thứ ba, Hoa Kỳ cần giúp đỡ các đối tác ASEAN của chúng ta tăng cường sự phòng thủ trên biển và khả năng phát hiện– để phát triển và triển khai các hệ thống cơ bản như radar cảnh báo sớm và các tàu an ninh ven biển. Bù đắp sự thiếu thốn này, và tăng cường tập trận chung với chúng ta, sẽ cung cấp một hình ảnh hoạt động phổ biến hơn ởbiển Đông và khả năng đối phó tốt hơn với các mối đe dọa.
Thứ tư, Thượng viện Mỹ cần quan tâm hơn đến Công ước LHQ về Luật Biển. Tôi biết điều này không phổ biến ở một số người bảo thủ. Tôi có nghi ngờ về chính bản thân mình. Nhưng thực tế là, chính phủ các nhiệm kỳ kế tiếp của cả hai đảng đã tôn trọng những nhận xét cơ bản của Công ước, mặc dù không cần phải ký. Trong khi đó, các nước như Trung Quốc đã ký công ước mà không thực hiện đúng, nhắm tới việc từ chối [không cho các nước] đi vào vùng biển quốc tế. Điều này làm cho Hoa Kỳ dựa vào ân huệ của các nước ngoài cũng như dựa vào sức mạnh lớn hơn của chính mình đểbảo đảm quyền đi lại của Mỹ. Nhưng những điều này là đặc ân, không thể được xem như lúc nào cũng có sẵn, đó là lý do Hải quân Mỹ hỗ trợ mạnh mẽ Công ước [LHQ về Luật Biển] và tính pháp lý của nó, để bảo đảm nó phục vụcho các hoạt động hải quân của chúng ta. Do đó, vì lý do an ninh quốc gia, Thượng viện cần phải quyết định, đã đến lúc phê chuẩn Hiệp ước Luật Biển.
Thứ năm, chúng ta cần phải chuyển sức mạnh của lực lượng Mỹ,chú trọng nhiều hơn vào những khu vực cạnh tranh mới trỗi dậy, đặc biệt là ẤnĐộ Dương và Biển Đông. Tôiđã tham gia với cácđồng nghiệp của tôi ở Hội đồng Quân sự Thượng viện, Thượng nghị sĩ Carl Levin và Jim Webb, để kêu gọi cho thêm thời gian đánh giá lại kếhoạch về các căn cứcủa chúng ta ở Nhật Bản và Guam . Và tôi đã làm như thế để Mỹ không phải rút khỏi châu Á, mà là tăng cường cam kết của chúng tađối với an ninh trong khu vực.
Không phải là Quốc hội có ý kiến về các thỏa thuận căn cứ trong khu vực, mà thực tếtình hình mới và chi phí vượt quá mức, đã đặt vấn đề về các kế hoạch hiện tại của chúng ta, Quốc hội phải đặt những câu hỏi khó. Mục tiêu của chúng ta nên chuyển tới nơi có vị thế địa lý hơn, đưa quân đội rải rác ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương, như Bộ trưởng Quốc phòng Gates đã mô tả, và trung tâm của nỗ lực đó sẽluôn luôn là những cam kết căn cứ của chúng ta với các đồng minh lịch sửnhưNhật Bản và Nam Hàn.
Cuối cùng, Hoa Kỳ phải tiếp tục các khoản đầu tư cần thiết vào khả năng phòng thủ của chúng ta, đặc biệt là lực lượng hải quân, để duy trì sức mạnh quân sự hàng đầu thế giới.Chúng tađang phải đối mặt với áp lực rất lớn trong nước để cắt giảm chi tiêu, gồm cảchi tiêu quốc phòng, và một số cắt giảm chắc chắn cần thiết. Những người có lý có thể không đồng ý về việc cắt giảm này, nên cắt thêm bao nhiêu. Nhưng gầnđây, khi Tổng thống cam kết cắt giảm 400 tỷ đô la về chi tiêu quốc phòng trong thời gian 12 năm - không có cơ sở chiến lược hợp lý về lý do tại sao con số nàyđã được lựa chọn hoặc những gì rủi ro gì nó sẽ gây ra, và Bộ trưởng Quốc phòng chỉ được nói về điều đó một ngày trước khi sự việc xảy ra - tôi nghĩ rằng những người có lý lẽ cũng có thể đồng ý rằng, điều này không có cách nào để lên kếhoạch quốc phòng của chúng ta. Chúng ta phải [lên kế hoạch] dựa vào chiến lược hướng dẫn, không thể [dựa vào] những con số tùy tiện.
Những sự kiện hiện đang xảy ra trên biển Đông sẽ đóng một vai trò quyết định trong việc định hình sự phát triển khu vực châu Á-Thái Bình Dương trong thế kỷ này. Và Hoa Kỳphải tiếp tục tham gia tích cực vào quá trình đó. Về vấn đề này, tôi gặp rắc rối do các báo cáo gần đây của một số đồng nghiệp của tôi trong Quốc hội và một số ứng cử viên tổng thống thuộc đảng Cộng hòa, cho thấy mong muốn rút khỏi thếgiới và giảm các cam kết của chúng tôi ở nước ngoài. Hoa Kỳ đã mắc phải sai lầmđó trước đây, và chúng ta nên học bài học lịch sử này, không để nó lặp lại. Cuối cùng, lịch sử cho chúng ta thấy rằng, chính Mỹ được hưởng lợi lớn nhất nhờtrật tự quốc tế dựa trên luật lệ, đó là duy trì bởi quyền lực và sựlãnh đạo của Mỹ. Chúng ta từ bỏ vai trò đó là nguy hiểm cho thế giới và cho chính chúng ta.
Nếu các bạn đến từ khu vực châu Á-Thái Bình Dương, chỉ để mang một thông điệp về nhà với các bạn, thông điệp đó sẽ là: Luôn có xu hướng cô lập ở Mỹ, nhưng người Mỹ đã bác bỏ nó trước đây, và tôi tin rằng bây giờ người Mỹ sẽ bác bỏ nó một lần nữa. Sẽluôn có một cơ sở vững chắc của Mỹ hỗ trợ cho một chính sách quốc tếmạnh mẽ ởnước ngoài. Chính sách đó sẽ không thay đổi, kể cả ở Mỹ. Chúng tôi sẽ không rút khỏi hoặc bị đẩy ra khỏi khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Chúng tôi sẽ ở lại đó, [thực hiện] cam kết với bạn bè và đồng minh của chúng tôi, và chúng ta sẽ cùng nhau thành công.
Ngọc Thu dịch từ:http://www.ustream.tv/recorded/15514848
---------
John Sidney McCain III (sinh ngày 29 tháng 8 năm 1936) là Thượng nghị sĩ thâm niên của Hoa Kỳ,người tiểu bang Arizonavà là người được Đảng Cộng hòa đề cử ra tranh chức tổng thống trong kỳ bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 2008. Ông là một trong hai nhân vật năng nổ (người thứ hai là John Kerry) trong việc hối thúc và vận động chính phủ Hoa Kỳ bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam, kẻ thù cũ của Hoa Kỳ với nhiều lý do, nhưng đặc biệt là việc nhìn xa trông rộng coi Việt Nam là một đối trọng đáng giá trong khu vực để đối với Trung Quốc.
Ông nội và cha của McCain từng là đô đốc Hải quân Hoa Kỳ. McCain cũng đã học tại Học viện Hải quân Hoa Kỳ và tốt nghiệp vào năm 1958. Ông trở thành phi công hải quân lái máy bay cường kích từ hàng không mẫu hạm. Trong lúc tham chiến trong Chiến tranh Việt Nam, ông thoát chết trong gang tấc tại vụ cháy trên Hàng không mẫu hạm USS Forrestal năm 1967. Cùng năm, trong chuyến thi hành nhiệm vụ đánh bom lần thứ 23 trên bầu trời miền Bắc Việt Nam sau đó, phi cơ của ông bị bắn rơi và ông bị thương nghiêm trọng. Năm năm rưỡi ông bị bắt làm tù binh chiến tranh tại miền bắc Việt Nam, sau Hiệp định Paris 1973 ông được thả tự do.
Không lâu, sau khi McCain giải ngũ khỏi Hải quân vào năm 1981 và chuyển vềArizona, ông bắt đầu tham gia chính trị. Năm 1982 ông được bầu vào Hạ viện Hoa Kỳ, đại diện cho Khu quốc hội 1, Arizona. Sau khi phục vụ hai nhiệm kỳ tại đó, ông được bầu vào Thượng viện Hoa Kỳ đại diện cho Arizona vào năm 1986. Ông tái đắc cử Thượng nghị sĩ những năm 1992, 1998, và 2004.
Tuy gắn bó với với các quan điểm bảo thủ, McCain nổi tiếng trong truyền thông với những phát biểu với tư cách “độc lập” của mình, phản đối nhiều vấn đề chủ chốt của Đảng Cộng hòa mà ông là thành viên. Thoát khỏi vụ tai tiếng Keating Five trong thập niên 1980, ông coi việc cải cách cơ chế tài trợ vận động tranh cử là một trong những mối quan tâm hàng đầu. Điều đó dẫn đến việc thông qua Đạo luật McCain-Feingold năm 2002.
McCainđã từng nỗ lực để trở thành ứng cử viên của Đảng Cộng hòa trong kỳ bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 2000, nhưng thua George W. Bush sau những cuộc tranh đua sát ván tại các cuộc bầu cử sơ bộ đầu tiên. Năm 2008, ông lần nữa chạyđua tìm sự đề cử của Đảng Cộng hòa. Ông được đề cử sau đó nhưng thất cử trướcứng viên Đảng Dân chủ là Barack Obama trong tổng tuyển cử.
(Theo Wikipedia)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét