Thất
bại quá khứ, bài học hiện tại
Xin giới thiệu một bài viết nhận được qua email. Bài viết có những phân tích và đánh giá sâu sát và khá sắc sảo. Đây là một cách nhìn độc lập, tôn trọng người viết chủ blog tôi đưa nguyên văn không cắt xén, không biên tập. Xin coi bài viết là một tài liệu tham khảo.
(Tác giả bài chưa rõ, thấy ký dưới bài là "Bách Việt", cũng có thể là tên một trang blog có xuất xứ từ nước ngoài?).
Vệ Nhi g-th
-----
Thất
bại trong quá khứ và bài học cho hôm nay
Bách Việt
Việc đưa giàn khoan vào khu vực biển
của Việt Nam, Trung Quốc đã gần như lật ngửa ván bài của một chính sách đối
ngoại dựa trên bạo lực hơn là đàm phán hòa bình. Trong khi đó, Việt Nam còn quá
yếu về mọi mặt để có thể tạo thế đối đầu có trọng lượng với Trung Quốc. Việt
Nam ở thế tiến thoái lưỡng nan vì không thể leo thang và chạy đua trong chính
sách ngoại giao bạo lực với Trung Quốc, nhưng cũng không có đường lùi và không
thể nhượng bộ.
Tóm lại, mọi động thái ứng xử của Việt
Nam hiện nay vẫn rất lúng túng, và mục đích chính vẫn chỉ để trì hoãn, hơn là
thực sự giải quyết vấn đề về lâu dài trên cơ sở hòa bình. Vận mệnh của Việt Nam
do vậy đang là “ngàn cân treo trên sợi tóc”. Câu trả lời hoàn toàn phụ thuộc vào
sự tỉnh táo của Việt Nam vào lúc này.
Để có được sự tỉnh táo, ngoài niềm tự
hào về lịch sử giữ nước vẻ vang, Việt Nam cũng cần nhìn vào những thất bại
trong lịch sử để từ đó rút ra bài học cho các quyết sách sáng suốt đối phó với
Trung Quốc.
Bài viết này tập trung vào thất bại
quân sự của triều Hồ năm 1407 và thất bại của Việt Nam năm 1975-1977 trong bình
thường hóa quan hệ với Mỹ và Tây Âu, vì những giai đoạn này có rất nhiều tương
đồng sâu sắc với thời điểm hiện nay.
QUÂN ĐỘI HỒ QUÝ LY VÀ NHỮNG BÀI HỌC VỚI
QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
Lịch sử chống ngoại xâm là đặc điểm nổi
bật của lịch sử Việt Nam và giữ vai trò định đoạt sự tồn vong của dân tộc trước
nguy cơ xâm lược và đô hộ. Chính cuộc đấu tranh sống còn này đã rèn luyện nên
nhiều phẩm giá cao quý và phát huy đến cao độ trí thông minh, sáng tạo của dân
tộc. Vì vậy, lịch sử chống ngoại xâm là niềm tự hào vô tận của dân tộc. Tuy
nhiên, trong nhiều giai đoạn, lịch sử Việt Nam không được thể hiện đầy đủ và
khách quan, quá nhấn mạnh các thắng lợi của các cuộc kháng chiến, dẫn đến việc
đơn giản và thậm chí không phản ảnh hết tính ác liệt đến tàn khốc của các cuộc
kháng chiến, và đặc biệt là những thất bại về quân sự của Việt Nam trước các
thế lực xâm lược phương bắc.
Một thất bại quân sự cay đắng trong
lịch sử vệ quốc của Việt Nam là của Hồ Quý Ly với cuộc xâm lăng của nhà Minh.
Một điểm đáng kinh ngạc là những thách thức của vương triều Hồ với quân xâm
lược phương bắc vào năm 1400-1407 là hoàn toàn giống với những gì Việt Nam đang
phải đổi mặt hiện nay, và rất nhiều khả năng thất bại của vương triều Hồ sẽ lặp
lại với Việt Nam hiện nay nếu không có sự thay đổi trong nội bộ của Việt Nam.
Hồ Quý Ly đã biết rõ âm mưu xâm lược
của nhà Minh từ năm 1400. Nhà Hồ đã một mặt áp dụng những biện pháp ngoại giao
khôn khéo đế trì hoãn chiến tranh, mặt khác tích cực lo chuẩn bị kháng chiến
chống xâm lược.
Nhà Minh liên tục gây sức ép và tạo bất
ổn với Việt Nam từ cả phía Bắc và phía Nam. Phía bắc, nhà Minh gây hấn và lấn
chiếm đất đai. Năm 1404, nhà Minh đòi chiếm đất Lộc Châu, Tây Bình, Vĩnh Bình,
lấy cớ những đất đó thuộc phủ Tư Minh (Quảng Tây). Năm 1405, nhà Minh lại sai
sứ đòi đất Lộc Châu (Lạng Sơn), và 7 trại Mãnh Man thuộc châu Ninh Viễn một
cách gay gắt. Hồ Quý Ly đã bất đắc dĩ phải nhượng đất để kéo dài thời gian hòa
hoãn, lo chuẩn bị kháng chiến, nhưng trước sau vẫn kiên quyết bảo vệ chủ quyền
quốc gia và lãnh thổ đất nước.
Ở phía Nam, giữa nhà Hồ và vương triều
Chăm Pa có những xung đột phức tạp. Nhà Minh tìm mọi cách khoét sâu và lợi dụng
những xung đột đó để quấy rối hậu phương nước ta. Năm 1403, nhà Minh phái 9
chiến thuyền vào giúp Chăm-pa chống lại nhà Hồ, và gây ra những vụ xung đột
biên giới để phân tán quân đội nhà Hồ.
Việc nhượng bộ đất của Hồ Quý Ly đã gây
bất mãn sâu rộng trong quần chúng. Tuy nhiên, mặt khác cũng tạo được một khoảng
thời gian gần 5 năm để vương triều Hồ xây dựng quân đội và trang bị vũ khí với
ảo tưởng rằng với quân đội hùng mạnh và vũ khí hiện đại (theo thời đó) thì sẽ
chặn được sự xâm lược của quân Minh.
Năm 1401 nhà Hồ ra lệnh kiểm kê dân số
và từ đó tiến hành tổng động viên. Quân đội được chia thành Nam Ban và Bắc Ban
với 12 vệ (tương đương sư đoàn), quân Điện Hậu Đông và Tây gồm 8 vệ. Ngoài quân
chủ lực, còn tổ chức thêm hương binh của làng xã, và quân dũng hãn chiêu mộ từ
nông dân lưu vong.
Hồ Quý Ly cũng tăng cường chế tạo vũ
khí và đạt được những thành tự khoa học quân sự đáng nể. Bên cạnh các loại vũ
khí thông thường như cung tên, giáo mác, kiếm lao, máy bắn đá…..còn có súng
thần cơ do Hồ Nguyên Trừng chế tạo có sức công phá và sát thương hơn hẳn các
loại súng của quân Minh.
Ngoài ra, nhà Hồ cũng lập những phòng
tuyến quân sự kiên cố như phòng tuyến phía bắc chạy dài từ chân núi Tản Viên,
Ba Vì, men theo sông Đà, tiếp theo sông Nhị qua Đông Đô, rồi theo sông Hải
Triều, sông Hy (sông Luộc) chuyển qua sông Ma Lao (sông Thái Bình) đến Chí
Linh, Hải Dương. Tất cả các phòng tuyến đều được đóng cọc dưới sông, cắm chông
dày đặc trên bờ, và phía ngoài có bẫy ngựa và quân lính.
Cho dù có sự chuẩn bị kỹ càng về quân
sự, nhà Hồ đã thất bại nặng nề trong cuộc chiến chống quân Minh. Với một đạo
quân gần một triệu (cả chủ lực lẫn tiếp vận), và bất chấp sự kháng cứ mãnh liệt
của quân đội vương triều Hồ, quân Minh đã thôn tính được Việt Nam vào năm 1407,
sau 6 tháng chiến đấu ác liệt.
Lịch sử phải công minh ghi nhận rằng
vương triều Hồ và Hồ Quý Ly đều chủ trương kiên quyết đánh giặc giữ nước, và đã
đánh đến cùng. Tuy nhiên, lịch sử cũng phải thừa nhận rằng nguyên nhân thất bại
chủ yếu của triều Hồ là không đoàn kết được toàn dân đánh giặc.
Một điểm đáng lưu ý là những mâu thuẫn
nội bộ giữa nhà Trần bị lật đổ và vương triều Hồ (tạm gọi là “ý thức hệ) rất
sâu sắc. Nhà Minh lợi dụng khoét sâu thêm mâu thuẫn này để gây rối trong nội bộ
nhà Hồ.
Trước tình hình đó, lẽ ra nhà Hồ phải
biết đặt lợi ích của đất nước lên trên hết, giải quyết các mâu thuẫn bên trong
theo hướng đáp ứng xu hướng chủ đạo của phát triển chính trị xã hội, để từ đó
thắt chặt sư đoàn kết của toàn dân, và huy động sức mạnh của cả nước vào chống
giặc cứu nước. Nhưng nhà Hồ đã không làm được như vậy.
Do đó, khi quân Minh tiến sang, triều
Hồ không thu phục được lòng dân, không dấy lên được sức mạnh của cả nước đánh
giặc, toàn dân đánh giặc, thực hiện một cuộc chiến tranh nhân dân yêu nước chống
ngoại xâm.
Từ hạn chế trên đã đưa nhà Hồ đến những
sai lầm về quân sự, đó là dựa chủ yếu vào quân mà không dựa vào dân, dựa chủ
yếu vào vũ khí và thành quách, mà không dựa vào lòng người và địa hình. Suy
nghĩ về những sai lầm và thất bại của nhà Hồ trong kháng chiến chống Minh,
Nguyễn Trãi viết:
Lớp lớp rào lim ngăn sóng biển,
Khóa sông xích sắt cũng vậy thôi.
Lật thuyền mới rõ dân như nước
(Quan Hải)
Những thất bại trong lịch sử chống
ngoại xâm Phương Bắc nói trên cho thấy không phải lúc nào Việt Nam cũng chiến
thắng. Những thất bại quân sự dẫn đến mất nước Việt Nam chỉ do một nguyên nhân
chính đó là: Mâu thuẫn, đấu đá tranh giành quyền lực nối bộ, thiếu dân chủ dẫn
đến mất lòng dân. Từ chỗ mất lòng dân, những triều đại thất bại trước đây buộc
phải dựa vào vũ khí (Nỏ Thần, Đại Thần Cơ) và quân chủ lực.
Trong chiến tranh với Phương Bắc, nếu
Việt Nam chỉ dựa vào quân đội và vũ khí thì thất bại là nắm chắc trong tay vì
Việt Nam ở bất cứ thời đại nào cũng không thể đủ lính và đủ vũ khí để áp đảo
Trung Quốc. Những gì đang diễn ra hiện nay cho thấy Việt Nam với Quân đội Nhân
dân Việt nam, đã và đang có những nét tương đồng đáng sợ với đội quân chủ lực
của Hồ Quý Ly.
Thứ nhất, Việt Nam cho dù đã và rất
kiên quyết, nhưng cũng đã và sẽ tiếp tục phải nhượng bộ với Trung Quốc với mục
đích là kéo dài thêm được thời gian hòa bình càng lâu càng tốt. Đây là điều nhà
Hồ đã làm, thậm chí phải nhượng cả một số đất của Việt Nam để kéo dài thời gian
hòa hoãn cho việc xây dựng quân đội.
Thứ hai, Việt Nam đang dốc tiền đầu tư
vào xây dựng quốc phòng như mua tầu ngầm, tầu chiến, máy bay chiến đấu,
v.v….đúng như những biện pháp hiện đại hóa quân sự mà nhà Hồ đã thực hiện vào
năm 1401-1405. Cái hơn của quân đội Hồ Quý Ly so với Quân đội Nhân dân Việt nam
hiện nay là nhà Hồ đã chế tạo ra đại thần công có uy lực công phá đáng sợ hơn
cả thần công của nhà Minh.
Việt Nam hiện nay không có vũ khí nào
có uy thế vượt trội so với Trung Quốc. Cái Việt Nam rất cần làm và phải làm
ngay hôm nay là xây dựng “lòng dân” vững mạnh, bên cạnh xây dựng quốc phòng.
Trung Quốc không sợ một Việt Nam mạnh về quốc phòng, mà Trung Quốc chỉ sợ một
Việt Nam đoàn kết, dân chủ, toàn dân một lòng.
Thứ ba, nội bộ nhà Hồ lủng củng, chia
rẽ và đây là điểm nhà Minh đã lợi dụng để làm yếu nhà Hồ. Nội bộ của Việt Nam
hiện nay cũng đang bị chia rẽ sâu sắc và Trung Quốc hiện nay cũng đã và đang
triệt để khoét sâu mâu thuẫn nội bộ này của Việt Nam để làm suy yếu Việt Nam.
Một điều phải khăng định rằng Quân đội
Nhân dân Việt nam sẽ chiến đấu mãnh liệt đến cùng để chống ngoại xâm Trung
Quốc, cũng giống như đội quân Hồ Quý Ly đã làm.
Nhưng liệu Quân đội Nhân dân Việt nam
có thể chiến thắng sự xâm lược của Trung Quốc hay không, hay lại lặp lại thất
bại mất giang sơn đau đớn của đội quân Hồ Quý Ly vào năm 1407.
Điều này hoàn toàn phụ thuộc Việt Nam
liệu có đủ can đảm để thực hiện những cải cách dân chủ ngay lập tức hay không.
Chỉ có một Việt Nam dân chủ thật sự mà trong đó người dân có quyền làm chủ thật
sự mới có thể chống lại được bành trướng Trung Quốc. Tiến trình cải tổ dân chủ
đó phải được bắt đầu ngay lập tức nếu không muốn mọi việc trở nên quá muộn.
THẤT BẠI TRONG BÌNH THƯỜNG HÓA QUAN HỆ
VỚI MỸ VÀ TÂY ÂU NĂM 1978
Trong lịch sử cận đại khi thế giới chia
làm đa cực, một nguyên tắc có tính quy luật với các nước nhỏ để tránh bị lôi
vào vòng cuốn gây ảnh hưởng của các nước lớn là tuyên bố chính sách phát triển
trung lập. Tuy nhiên, trên thế giới, rất ít nước nhỏ thực hiện được thành công
chính sách phát triển trung lập, ngoại trừ Thụy Sĩ ở Châu Âu, Thái Lan ở Đông Nam
Á, hay Nepal và Bhutan ỏ Nam Á do địa hình quá hiểm trở khiến hai nước này
không bị đô hộ.
Việt Nam nằm trong nhóm những nước nhỏ
đã liên tục thất bại trong việc theo đuối chính sách ngoại giao trung lập, độc
lập, và không bị phụ thuộc vào các nước lớn.
Phần này tập trung phân tích trong giai
đoạn 1975- 1979, vì đây là giai đoạn lịch sử có những nét tương đồng đáng kinh
ngạc với thời điểm hiện nay về bối cảnh lịch sử, về chính sách đối ngoại của
Việt Nam, và về các quyết sách của Trung Quốc và Mỹ với Việt Nam.
Ngay sau ngày 30/4/1975, và thậm chí
trước đó một năm vào năm 1974, Việt Nam đã có chủ trương bình thường hóa quan
hệ với Mỹ và phương Tây để làm đối trọng với Trung Quốc. Trong năm 1975 đã có
những biểu hiệu Trung Quốc và Pol Pot liên kết với nhau để chống Việt Nam.
Ngày 4/5/1975, chỉ bốn ngày sau khi Mỹ
rút khỏi Việt Nam, Pol Pot tấn công Việt Nam. Ba tháng sau, vào ngày 18/8/1975,
Trung Quốc tuyên bố viện trợ toàn diện cho Pol Pot. Để tranh thủ Trung Quốc,
TBT Lê Duẩn đã có chuyến viếng thăm chính thức Trung Quốc ngày 25/9/1975. Nhưng
chuyến thăm chính thức không đạt kết quả gì và Trung Quốc không có cam kết viện
trợ thêm cho Việt nam.
Cùng thời điểm, Liên Xô tăng cường lôi
kéo Việt Nam vào trong khối Đông Âu để chống Trung Quốc. Ngày 30/10/1975, Liên
Xô tuyên bố sẽ viện trợ kinh tế cho Việt Nam trị giá gần 2 tỉ đô la, một con số
khổng lồ vào thời điểm đó, với hy vọng Việt Nam sẽ bỏ Trung Quốc và theo Liên Xô.
Liên Xô cũng ra sức thuyết phục Việt Nam tham gia khối COMECOM, khối hợp tác
kinh tế XHCN.
Tuy nhiên, bất chấp những ve vãn của
Liên Xô để lôi kéo Việt Nam chống lại Trung Quốc, Việt Nam chủ trương bình
thường hóa quan hệ với Mỹ và phương Tây, hơn là tăng cường quan hệ với Trung
Quốc hoặc Liên Xô. Việt Nam muốn theo đuổi một chính sách cân bằng và độc lập
trong đối ngoại.
Vì vậy, trong năm 1976, cho dù Trung
Quốc và Liên Xô liên tục đòi Việt Nam cho mở Tổng Lãnh Sự Quán ở TP HCM, Việt
Nam không để hai nước này mở Tổng Lãnh Sự Quán ở TP HCM. Nhưng thay vào đó, đã
để Pháp, Ý, Đức và các nước phương Tây khác mở lãnh sự quán. Thậm chí hãng
thông tấn xã Sự Thật của Liên Xô cũng không được mở văn phòng đại diện ở TP
HCM, trong khi các hãng thông tấn của Mỹ và Phương Tây được mở lại văn phòng
báo chí thường trú.
Trong lúc Việt Nam treo cờ ở toàn bộ
các ĐSQ nước ngoài đang bị bỏ hoang ở TP HCM sau ngày 30/4/75, CP Việt Nam
không treo cờ Việt Nam ở Tòa Đại Sứ Mỹ (cũng đang bị bỏ trống) với hàm ý để ngỏ
chờ cơ hội mở cửa và bình thường hóa quan hệ.
Vì thế, vào năm 1976, cả Liên Xô và
Trung Quốc đã bày to thất vọng với Việt Nam và cả hai công khai chỉ trích Việt
Nam là một đất nước “vô ơn”.
Về kinh tế, Việt Nam cũng từ chối lời
mời tham gia COMECOM của Liên Xô. Thay vào đó, IMF và Ngân Hàng Thế giới đã đến
Việt Nam tháng 12/1976 và bắt đầu thiết kế khoản vay 60 triệu đô la đầu tiên
cho Việt Nam.
Năm 1977 khi Liên Xô ngỏ ý định không
hỗ trợ Việt Nam xây dựng nhà máy thủy điện sông Đã, Việt Nam đã liên hệ với
Ngân Hàng Phát Triển Châu Á (ADB) để tìm hiểu khoản vay xây dựng nhà máy thủy
điện Sông Đà.
Trong giai đoạn 1976 và 1977, Trung
Quốc và Pol Pot tăng cường hợp tác quân sự và kinh tế. Được Trung Quốc bật đèn
xanh, Pol Pot tiến hành các hoạt động tấn công hủy diệt tàn bạo ở các tỉnh biên
giới phía Nam của Việt Nam.
Đứng trước một nguy cơ một cuộc chiến
tranh tổng lực với Trung Quốc ở phía bắc và một cuộc chiến tranh ở biên giới
phía nam với Pol Pot, Việt Nam đã buộc phải vượt qua rào cản ý thức hệ để thúc
đẩy hết sức việc bình thường hóa quan hệ với Mỹ và các nước Tây Âu bằng mọi giá
với mục đích tạo đối trọng với Trung Quốc.
Nhận lời mời của Việt Nam, đặc phái
viên của Tổng Thống Carter, Đại sứ Leonard Woodcock đã tiến hành một chuyển
viếng thăm bí mật đến Hà Nội ngày 16/3/1977 để bàn về việc bình thường hóa quan
hệ ngoại giao.
Ngay sau đó, TTg Phạm Văn Đồng đã tiến
hành công du một loạt các nước Tây Âu vào ngày 25/4/1977.
Để đáp lại, dưới sự chỉ đạo của Trung
Quốc, Pol Pot đã tiến hành một cuộc tiến công toàn diện vào các tỉnh biên giới
phía Nam của Việt Nam ngày 30/4/1975 như một tín hiệu cảnh báo những nỗ lực
bình thường hóa quan hệ với phương Tây và Mỹ của Việt Nam
Tuy nhiên, Việt Nam vẫn quyết tâm đẩy
mạnh bình thường hóa quan hệ với Mỹ và ngày 3/5/1977, Việt Nam và Mỹ đã tiến
hành đàm phán bình thường hóa quan hệ ở Pháp.
Sau đó, trong suốt nửa cuối năm 1977
cho đến ngày 11/10/1978 là cuộc chạy đua giữa Việt Nam và Trung Quốc trong việc
bình thường hóa quan hệ với Mỹ.
Một mặt, Trung Quốc liên tục kích động
Pol Pot tấn công Việt Nam để buộc Việt Nam phải tự vệ và từ đó cáo buộc Việt
Nam gây hấn để tạo cớ gây sức ép với Tây Âu không bình thường hóa quan hệ với
Việt Nam.
Mặt khác, Trung Quốc tiến hành một
chiến dịch ngoại giao để gây sức ép với Mỹ và buộc Mỹ phải cân nhắc lựa chọn
giữa Trung Quốc hay Việt Nam trong chiến lược ngoại giao và quân sự của Mỹ.
Ngày 25/12/1977, Việt Nam phản công tự
vệ và chiếm một số tỉnh miền tây của Pol Pol. Sau đó, trong miền nam, Việt Nam
tiến hành chiến dịch “đánh tư sản”, thực ra là nhắm vào người Hoa vì phần lớn
tư sản và nhà giàu Sài Gòn là người Hoa.
Hậu quả của việc đánh tư sản đã kích
động làn sóng di tản của người Hoa vào tháng 3/1978 cả trên bộ, trên biển và
lan rộng khắp Việt Nam vào năm 1978-1980. Những phản ứng này của Việt Nam đã
mắc đúng vào bẫy của Trung Quốc.
Trung Quốc cáo buộc Việt Nam đã vi phạm
luật quốc tế bằng xử dụng vũ lực đánh lại một nước nhỏ là Cambodia, và đã vi
phạm nhân quyền trong việc đẩy đuổi người Hoa Kiều.
Do vậy, bất chấp sự nhượng bộ của Việt
Nam bỏ tất cả các yêu cầu về bồi thường chiến tranh trong buổi đàm phán với Mỹ
ngày 27/9/1978 ở New York, dưới sức ép của dư luận trong nước, chính quyền
Carter đã buộc phải đưa ra tuyên bố vào ngày 11/10/1978 đình chỉ toàn bộ việc
đàm phán bình thường hóa quan hệ với Việt Nam.
Quyết định này của Mỹ đã đẩy Việt Nam
vào thế buộc phải dựa vào Liên Xô như là một đối trọng với Trung Quốc. Sau
nhiều lần trì hoãn ký hiệp định hợp tác hữu nghị toàn diện với Liên Xô, ngay
sau tuyên bố của Mỹ không bình thường hóa quan hệ, Việt Nam lập tức cử một phái
đoàn cao cấp sang LX vào ngày 3/11/1978 để ký một Hiệp đinh hợp tác toàn diện
trong 25 năm.
Tóm lại, Trung Quốc đã đạt được ba
thắng lợi lớn sau năm 1975.
Một là cô lập và ngăn chặn quá trình
bình thường hóa quan hệ của Việt Nam với Mỹ. Đây là một đòn giáng rất nặng đến
Việt Nam và đã đẩy Việt Nam phải từ bỏ chính sách ngoại giao trung lập sau năm
1975.
Hai là, Trung Quốc đã cài Việt Nam vào
bẫy bằng cách xử dụng Pol Pot để buộc Việt Nam phải tự vệ bằng vũ lực, và tạo
ra làn xóng di cư của Hoa Kiều để bôi xấu hình ảnh của Việt Nam, từ đó dọn
đường dư luận thế giới ủng hộ Trung Quốc – hoặc làm ngơ với Trung Quốc – trong
cuộc chiến tranh biên giới 1979 để triệt phá toàn bộ cơ sở hạ tầng của các tỉnh
biên giới Việt Nam.
Ba là Trung Quốc đã thành công làm kiệt
quệ nền kinh tế Việt Nam. Trong khi Việt Nam lao đao vì cấm vận kinh tế, Trung
Quốc đã nhân cơ hội bình thường hóa quan hệ với Mỹ để tạo ra một thị trường
xuất khẩu rộng lớn cho phát triển kinh tế trong ba thập niên 70,80, và 90. Chỉ
trong vòng ba thập niên, nền kinh tế Trung Quốc nhờ tăng cường xuất khẩu vào Mỹ
và Tây Âu đã bứt phá mạnh mẽ, trong khi nền kinh tế Việt Nam liên tục suy thoái
trong ba thập kỷ 70, 80 và đầu những năm 90 do cấm vận kéo dài.
NHỮNG BÀI HỌC RÚT RA CHO VIỆT NAM HÔM
NAY
Việt Nam cần tấn công chính trị để phòng
thủ quân sự. Một trong các chiến
lược quân sự sáng tạo của chiến tranh nhân dân của Việt Nam là chiến lược tấn
công để phòng thủ của Lý Thường Kiệt. Việt Nam không thụ động đợi quân địch
tiến đánh, mà chủ động đánh thẳng vào hậu phương địch. Vào thời điểm hiện nay,
Việt Nam không thể áp dụng chiến lược quân sự này trong chiến tranh hiện đại.
Nhưng Việt Nam hoàn toàn có thể chủ
động tấn công Trung Quốc với biện pháp chính trị bằng cách thực hiện cải tổ
chính trị, hướng tới dân chủ ngay tại Việt Nam. Đây sẽ là đòn giáng nặng nhất
vào hậu phương chính trị và quân sự của Trung Quốc. Nó sẽ tiếp nguồn cho phong
trào đòi dân chủ hiện đang bị đàn áp ở Trung Quốc, và buộc Trung Quốc phải quay
ra đối đầu với nội bộ, không thể quấy nhiễu bên ngoài.
Hiện nay, ngoại trừ Bắc Triều Tiên là
một trường hợp ngoại lệ, chỉ có ba nước theo hệ thống chính trị đóng với quyền
lực tập trung vào một đảng, đó là Trung Quốc, Việt Nam và Miến Điện.
Miến Điện hiện đã thực sự cải tổ chính
trị và đang hướng tới dân chủ. Như vậy, chỉ còn Trung Quốc và Việt Nam. Trung
Quốc luôn tuyên truyền để trấn an các phong trào đòi dân chủ trong nước rằng
Trung Quốc có thể chế chính trị ưu việt hơn của Việt Nam vì Trung Quốc hiện có
9 đảng đối lập (cho dù là không có quyền lực).
Do vậy, nếu Việt Nam cải cách dân chủ,
Trung Quốc sẽ bị sức ép nội bộ rất nặng cho việc cải tổ, và sẽ làm phân tán sự
hung hăng gây hấn bên ngoài.
Nếu phải đặt lên bàn cân, các nước dân
chủ tiên tiến luôn sẽ chọn Trung Quốc cộng sản thay vì chọn Việt Nam cộng sản. Về kinh tế, nếu cùng một chủng hàng, cùng chất lượng, mẫu
mã giống nhau, và giá cả không chênh lệch nhiều, ai cũng sẽ chọn hàng có khối
lượng hoặc số lượng lớn.
Thất bại về bình thường hóa quan hệ với
Mỹ năm 1978 cho thấy khi phải đặt lên bàn cân giữa Trung Quốc cộng sản và Việt
Nam cộng sản, Mỹ đã chọn Trung Quốc.
Thế nhưng, các nước dân chủ tiên tiến
buộc phải cân nhắc khi phải lựa chọn giữa một Trung Quốc cộng sản với một Việt
Nam dân chủ.
Đây là một bài toán hoàn toàn khác vì
một Việt Nam dân chủ có tầm quan trọng trong toàn bộ chiến lược phát triển dân
chủ ở khu vực Châu Á. Trong khi một Việt Nam cộng sản với một ít tiềm năng về
kinh tế thì không thể so bì với những cơ hội kinh tế của một Trung Quốc cộng
sản, và do vậy họ sẽ sẵn sàng đánh đổi Trung Quốc cộng sản với Việt Nam cộng
sản.
Hiện nay, sự lựa chọn này đang diễn ra
rất gay gắt trong nội bộ của Mỹ. Vấn đề Ukraine và hạn chế ảnh hưởng của Nga
hiện nay là một trong vấn đề nóng nhất trong c/s đối ngoại của Mỹ.
Trung Quốc nắm được điều này nên đã
chơi con bài đúng như năm 1978 là gây sức ép với Mỹ phải lựa chọn giữa Trung
Quốc hay Việt Nam.
Nếu Mỹ lựa chọn Trung Quốc, Trung Quốc
sẽ hỗ trợ Mỹ trong việc làm trung gian giữa Mỹ và Nga. Nếu Mỹ lựa chọn Việt
Nam, Trung Quốc sẽ đẩy quan hệ chiến lược với Nga làm đối trọng với Mỹ.
Do vậy, đừng quá ảo tưởng về những
tuyên bố gần đây của Mỹ phản đối Trung Quốc về biển Đông. Việt Nam chỉ có thể
vượt trội trong bàn cân chiến lược nếu Việt Nam là một nước dân chủ tiến bộ.
Vì điều này sẽ tạo một làn sóng ủng hộ mạnh
mẽ trong nội bộ Quốc hội Mỹ và bất cứ tính toán thực dụng nào thiên về phía
Trung Quốc cũng sẽ vấp phải phản ứng của Quốc Hội Mỹ ủng hộ cho một Việt Nam
dân chủ.
Không thể áp đảo và thắng Trung Quốc
bằng số lượng quân đội và vũ khí.
Đây là bài học muôn thủa, nhưng vẫn bị quên lãng. Hiện đại quốc phòng là cần
thiết. Nhưng phải xác định không thể thắng Trung Quốc bằng số lượng quân hay vũ
khí. Thất bại của nhà Hồ là điển hình.
Thậm chí ngay cả An Dương Vương vì quá
coi trọng vào Nỏ Thần, và dựa vào thành Cổ Loa, mà không thật sự dựa vào dân,
đã để thua Triệu Đà và đẩy Việt Nam vào một nghìn năm Bắc thuộc.
Chiến tranh nhân dân, toàn bộ Việt Nam
là chiến trường, phi thành quách, toàn bộ người dân là quân, chỗ nào cũng đánh
khiến cho địch “không thể cởi giáp và bỏ cung kiếm trong nhiều năm, dẫn đến
kiệt quệ và bị tiêu diệt….” (Nguyễn Trãi). Nhưng để làm được như vậy thì phải
thực hiện dân chủ, phải thay đổi, nếu không muốn Việt Nam lại rơi vào một thời
kỳ Bắc thuộc thế kỷ 21.
Không bị sa bẫy làm “chảy máu kinh tế”. Trung Quốc đã áp dụng rất thành công chiến lược làm kiệt
quệ Việt Nam vào năm 1978. Với thành công trong việc ép Mỹ và Tây Âu cấm vận
Việt Nam vì lý do nhân quyền, và xử dụng vũ lực, Việt Nam đã bị rơi vào cô lập
kinh tế mà hậu quả cho đến nay vẫn còn nặng nề.
Những vụ manh động vừa qua đã làm tổn
hại nghiêm trọng đến đầu tư lâu dài của nước ngoài ở Việt Nam và những tác động
này là hết sức nghiêm trọng về kinh tế. Từ năm 2012 đến nay, nhà đầu tư dài hạn
đang có xu hướng chuyển sang xuất từ Trung Quốc đến các nước ASEAN do nhân công
ở Trung Quốc đã quá cao.
Nhưng những vụ biểu tình bạo lực tuần
trước đã là tiếng chuông báo động cho nhiều nhà đầu tư nước ngoài khi tính đến
khả năng đầu tư dài hạn ở Việt Nam. Họ đang tính chuyển dần sang Nam Á hơn là
Việt Nam, nhất là sau bầu cử thắng lợi của Ấn độ ngày 19/5/2014.
Trung Quốc sẽ liên tục gây sức ép căng
thẳng để kích động và tạo tâm lý chiến tranh để từ đó uy hiếp các nhà đầu tư
rút dần ra khỏi Việt Nam. Đây là một độc chiêu rất nguy hiểm của Trung Quốc.
Hiện nay, Trung Quốc cũng đã loan tin về sự bất ổn về đầu tư dài hạn ở Việt Nam
với các nhà đầu tư Đài Loan, và các nhà đầu tư nước ngoài khác.
Không thể ảo tưởng về ngoại giao “khôn
khéo và linh hoạt”. Nhà Hồ đã áp dụng các
biện pháp ngoại giao uyển chuyển và linh hoạt trong suốt 5 năm, 1401 – 1406,
thậm chí buộc phải nhượng lại một số đất đai phía bắc cho nhà Minh nhưng cũng
không tránh được một cuộc chiến tranh với Trung Quốc.
Xung đột vũ trang với Trung Quốc trước
sau cũng xảy ra, chỉ là vấn đề thời gian, phạm vi, và mức độ. Việc xử dụng vũ
lực đơn phương và không bị quốc tế trừng phạt – hoặc quốc tế không thể trừng
phạt – diễn ra như cơm bữa trong thế kỷ 20 và 21.
Mỹ đánh Iraq không cần nghị quyết LHQ
(Nghị quyết số 1441 của LHQ không đồng thuận cho Mỹ đánh Iraq đơn phương).
Việt Nam đánh Cambodia năm 1979 cũng
không được LHQ ủng hộ (mà lẽ ra LHQ phải ủng hộ vì Pol Pot thực sự là chế độ
diệt chủng).
Tuy nhiên, thực tế trên cho thấy Trung
Quốc có thể bất cứ lúc nào đánh Việt Nam, bất chấp dư luận quốc tế phản đối.
Cũng không thể có nước nào có thể áp
dụng trừng phạt kinh tế với Trung Quốc vì sự ràng buộc thương mại và đầu tư với
Trung Quốc là quá lớn với tất cả các nước có khả năng áp dụng trừng phạt kinh
tế.
Trung Quốc đã có thể chiếm các đảo của
Việt Nam ngay trong ngày mai, mà Việt Nam khó có thể đánh chiếm lại.
Điều này cho thấy sự khẩn cấp của việc
cải tổ chính trị ở Việt Nam càng sớm càng tốt để củng cố lòng tin của dân, củng
cố vị thế dân chủ của Việt Nam trên thế giới, từ đó Việt Nam sẽ nằm trong liên
minh của các nước dân chủ để đối trọng với Trung Quốc. Nếu không thực hiện việc
cải tổ chính trị ngay và quyết liệt, thì hậu quả với Dân Tộc và Tổ Quốc là khôn
lường.
------
Sách tham khảo
- Brezinski, Zbiniew, 1983. Power and Principle: Memoirs of the National Security Advisor, New York, 1977
- Chanda, Nayan, 1986 “Brother Enemy: The War After the War”
- Heder, Stephen, 1980. From Pol Pot to Pean Sovan. Chulalongkorn University
- Phan Huy Lê, 2012 “Lịch Sử và Văn Hóa Việt Nam “Tiếp Cận Bộ Phận”. Xuất Bản lần thứ hai. Nhà Xuất Bản Thế Giới
- Ngô Sỹ Liên, 2011 “Đại Việt Sử Ký Toàn Thư” Tập I và Tập II. In Lần Hai, có sửa chữa. Nhà Xuất Bản Văn Hóa Thông Tin
- Vance, Cyrus, 1983. Hard Choices: Critical Years in American Foreign Policy. New York: Simon and Schuster
- World Bank, 1977. Socialist Republic of Vietnam: An Introductory Economic Report
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét