Quốc
gia lâm nguy, sĩ phu hữu trách
Bài phỏng vấn Nguyên Đại sứ Việt Nam tại Myanmar Chu Công
Phùng về vụ giàn khoan Hải Dương 981 và quan hệ Việt
Nam-Trung Quốc đã đăng trên báo điện tử VietnamNet ngày 18/6.
Tuy nhiên vì những lý do
và yêu cầu riêng của tòa soạn nên có những chỗ những đoạn đã được biên tập lại,
cắt cúp cho phù hợp với báo VietnamNet.
Tác giả Chu Công Phùng đã
gửi cho Chủ blog tôi nguyên văn bài phỏng vấn. Xin trân trọng giới thiệu bài
phỏng vấn với bạn đọc.
Vệ Nhi
-----
Quốc
gia lâm nguy, sĩ phu hữu trách
Toàn văn trả lời của Nguyên Đại sứ Chu Công Phùng về vụ giàn
khoan Hải dương 981 và quan hệ Việt Nam-Trung quốc.
Phóng viên VietnamNet: Thưa ông Đại sứ! Ông đã giành cho VietnamNet nhiều
bài trả lời phỏng vấn rất thú vị về Myanmar. Được biết ông từng có thời gian
dài sống và làm việc tại Trung Quốc và Đài Loan, từng tham gia phái đoàn Việt
Nam đàm phán với Trung Quốc, nhân dịp này VietnamNet muốn phỏng vấn ông một số
vấn đề xung quanh sự kiện từ ngày 1/5/2014 Trung Quốc phi pháp đưa dàn khoan
Hải Dương - 981 vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam, đe dọa
toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ nước ta.
Ông Chu Công Phùng: Xin cám ơn sự tin
cậy của VietnamNet. Ông cha ta đã dạy “Quốc gia lâm nguy, sĩ phu hữu trách”, với
những kiến thức nghiên cứu về Trung Quốc và quan hệ Việt – Trung, tôi sẵn sàng
chia sẻ với các bạn.
1/ Xin ông lý giải vì
sao TQ rầm rộ tiến hành chiến dịch xâm lấn, đặt giàn khoan Hải Dương - 981
trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam vào thời điểm đầu tháng
5/2014? Mục đích chính của chiến dịch này là gì?
Trả lời: Hơn một tháng qua không ít nhà phân tích trong nước
và ngoài nước đã phân tích từ nhiều góc độ về nguyên nhân và mục đích Trung
Quốc tiến hành chiến dịch hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương - 981 trong
vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam. Kết hợp các yếu tố quốc tế,
khu vực và nội bộ Trung Quốc, tôi cho rằng có 3 nguyên nhân chính khiến nhà cầm
quyền Trung Quốc hạ quyết tâm và hung hăng thực hiện chiến dịch xâm lược vào
thời điểm hiện tại, đó là:
Thứ nhất: Công
khai thách thức vai trò của Mỹ ở Châu Á.
Các bạn đều đã biết, trong cuộc khủng hoảng ở Ucraina, quan hệ giữa Mỹ và EU
với Nga trở lên căng thẳng, quan hệ Mỹ - Trung cũng xuất hiện cũng xuất hiện
nhiều trục trặc do Trung Quốc thực dụng nghiêng về ủng hộ Nga để được Nga giành
cho các hợp đồng khí đốt béo bở (trị giá tới 400 tỉ USD).
Trước
thực tế này, cuối tháng 4/2014 Tổng thống Mỹ Obama đã thực hiện chuyến thăm
Châu Á gồm 4 nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Philipinnes và Malaysia với 2 mục đích rõ
ràng: (1) phớt lờ Trung Quốc, cùng các nước đối tác thúc đẩy hoàn tất Hiệp ước
Đối tác xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Strategic Economic Partnership
Agreement - TPP); (2) cam kết bảo vệ các đồng minh của Mỹ là Nhật Bản,
Philippinnes trước các mối đe dọa quân sự ngày càng tăng từ Trung Quốc.
Bị
mất mặt trước việc Mỹ phớt lờ vai trò của Trung Quốc ở Châu Á và công khai ủng
hộ quân sự đối với các đồng minh Nhật Bản và Philippines, chỉ chưa đầy một tuần
sau chuyến công du Châu Á của Tổng thống Obama, Trung Quốc đã phản ứng tiêu cực
bằng cách thách thức vai trò của Mỹ ở Biển Đông, ngang nhiên và hung hăng đưa
giàn khoan khủng Hải Dương - 918 vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa
Việt Nam vừa nhằm gián tiếp thách thức Mỹ, Nhật vừa dằn mặt các nước Châu Á
đồng minh của Mỹ và những nước có tranh chấp biển đảo với Trung Quốc. Tuy
nhiên, Trung Quốc cũng đủ tỉnh táo để không đưa giàn khoan trên vào vùng biển
Hoa Đông tranh chấp với Nhật Bản và vùng biển Philippines vì như vậy Trung Quốc
sẽ trực tiếp khiêu khích Mỹ - đối thủ hơn hẳn Trung Quốc về mọi mặt.
Đáp
lại thách thức này của Trung Quốc, không chỉ các Nghị sĩ Quốc hội Mỹ đều gay
gắt phê phán Trung Quốc mà ngày 28/5/2014, khi phát biểu về chính sách đối
ngoại trước các học viên tại Học viện quân sự ở West Point, New York, Tổng
thống Mỹ Barack Obama cảnh báo rằng, quân đội nước này sẵn sàng đáp trả
"sự gây hấn" của Trung Quốc với các nước láng giềng trên Biển Đông và
ủng hộ các quốc gia Đông Nam Á trong quá trình đàm phán giải quyết tranh chấp
với Bắc Kinh.
Thứ hai, Chia rẽ ASEAN trong vấn đề Biển Đông. Trung
Quốc đưa giàn khoan Hải Dương - 981 vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa
Việt Nam 10 ngày trước khi khai mạc Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 24 tổ chức
tại Myanmar. Chúng ta còn nhớ cách đây 2 năm, khi Campuchia là nước chủ nhà tổ
chức Hội nghị cấp cao ASEAN 22. Trung Quốc đã dùng khoản viện trợ kinh tế khổng
lồ (430 triệu USD) mua chuộc Campuchia khiến lần đầu tiên trong lịch sử Hội
nghị cấp cao ASEAN không ra được Thông cáo chung về vấn đề Biển Đông. (Sau đó
Campuchia bị hứng chịu rất nhiều búa rìu dư luận quốc tế và khu vực vì vụ việc
“ngậm miệng ăn tiền” này). Năm nay, Trung Quốc hy vọng Myanmar – nước không có
biên giới biển với Trung Quốc và đang tiếp nhận nhiều dự án đầu tư từ Trung
Quốc sẽ “nể mặt” Trung Quốc, cộng với sự ủng hộ ngầm của Campuchia (Trung Quốc
cử Phó Chủ tịch quân ủy trung ương Hứa Kỳ Lượng thăm Campuchia từ 8-13/5/2014)
sẽ khiến Hội nghị cấp cao ASEAN tại Myanmar tiếp tục bị chia rẽ, không ra được
Tuyên bố chung về vấn đề Biển Đông cho dù Việt Nam có tố cáo Trung Quốc tại
Diễn đàn này.
Nhưng
lần này thủ đoạn “liên hoành” của Trung Quốc để phá thế “hợp tung” của ASEAN đã
phá sản, với sự chủ trì đầy bản lĩnh của nước chủ nhà Myanmar, các nước ASEAN
đã có tiếng nói chung về vấn đề Biển Đông. Tuyên bố của Chủ tịch Hội nghị cấp
cao ASEAN 24 về tình hình Biển Đông và Tuyên bố chung của các Bộ trưởng
Ngoại giao ASEAN đều đã bày tỏ quan ngại sâu sắc về các vụ việc đang diễn ra
trên Biển Đông, kêu gọi tất cả các bên tham gia Tuyên bố về ứng xử ở Biển Đông
(DOC) thực hiện đầy đủ và hiệu quả tuyên bố này nhằm tạo môi trường tin cậy
và xây dựng lòng tin; thực hiện kiềm chế, không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ
lực, giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, tuân thủ các nguyên tắc
đã được thừa nhận chung của luật pháp quốc tế và Công ước Liên hợp quốc về Luật
biển năm 1982 (UNCLOS), tiến tới hình thành và ký kết Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển
Đông (COC). Tuy không nêu đích danh Trung Quốc, nhưng nội dung 2 Tuyên bố kể
trên đều chĩa thẳng vào Bắc Kinh.
Thứ ba, Chuyển mâu thuẫn nội bộ ra bên ngoài biên giới. Cuộc
đấu tranh quyền lực trong giới lãnh đạo chóp bu Trung Quốc đang diễn ra rất
phức tạp. Để khẳng định vị trí độc tôn của mình và giành quyền kiểm soát quân
đội, Tập Cận Bình đã thẳng tay thanh toán các đối thủ lớn từ Bí thư thành ủy
Trùng Khánh Bạc Hy Lai đến Ủy viên thường vụ Bộ Chính trị, Bộ trưởng Công an
Chu Vĩnh Khang… Tuy nhiên, nội bộ Ban lãnh đạo cấp cao Trung Quốc vẫn lục đục
cộng với cuộc khủng hoảng về sắc tộc tôn giáo tại Tân Cương, Tây Tạng... khiến
nội bộ Đảng cộng sản Trung Quốc rối bời, xã hội Trung Quốc bất ổn trước các vụ
khủng bố đẫm máu.
Để
tranh thủ sự ủng hộ của quân đội, với thủ đoạn truyền thống “gắp lửa bỏ tay
người”, ban lãnh đạo Tập Cận Bình đã chuyển hướng dư luận trong nước ra bên
ngoài bằng thủ đoạn đưa giàn khoan Hải Dương - 981 xâm phạm vùng đặc quyền kinh
tế và thềm lục địa Việt Nam, huy động bộ máy tuyên truyền đồ sộ “tố cáo ngược”
Việt Nam khiêu khích Trung Quốc nhằm kích động tư tưởng Đại Hán trong dân
chúng, qua đó xoa dịu các mâu thuẫn nội bộ.
Chúng
ta còn nhớ, trong cuộc Cách mạng văn hóa nồi da nấu thịt, giết chết hàng chục
triệu người ở Trung Quốc trong thập kỷ 60 thế kỷ XX, Mao Trạch Đông cũng sử
dụng thủ đoạn truyền thống này để “đổ lửa” ra ngoài biên giới quốc gia như: hò
hét “giải phóng Đài Loan”, pháo kích các đảo Kim Môn, Mã Tổ của Đài Loan, gây
chiến tranh biên giới với Ấn Độ (1962) và gây chiến tranh biên giới với Liên Xô
(1968)....
Thế
nhưng, thủ đoạn của nhà cầm quyền Trung Quốc “đổ lửa” sang hàng xóm vẫn không
làm nguội bớt “lò lửa” bên trong Trung Quốc. Vào đúng thời điềm dàn khoan Hải
Dương - 918 nghênh ngang hạ đặt phi pháp tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục
địa Việt Nam thì ngày 22/5/2014 lại xảy ra vụ nổ bom khủng bố đẫm máu tại Tân
Cương càng khiến cuộc khủng hoảng sắc tộc và tôn giáo ở Trung Quốc thêm trầm
trọng.
Mục
đích của nhà cầm quyền Trung Quốc đưa giàn khoan Hải Dương - 981 vào vùng đặc
quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam đã rõ như ban ngày. Đó là từng bước thực
hiện cái gọi là “chủ quyền” của Bắc Kinh trong vùng biên giới “lưỡi bò” liếm
trọn gần hết Biển Đông. Nếu như Trung Quốc thực hiện được tham vọng đó, họ sẽ
kiểm soát hoàn toàn tuyến giao thông trên Biển Đông và các dịch vụ khai thác
tài nguyên ở Biển Đông. Xa hơn nữa sẽ vươn tới Ấn Độ Dương, thực hiện “giấc mơ
Trung Hoa” chi phối và khống chế thế giới.
2/ Xin ông cho biết
thêm về tham vọng biển đảo của Trung Quốc đối với các nước láng giềng?
Trả lời: Tôi có thể khẳng định với các bạn rằng, là một nước lớn với
diện tích hơn 9 triệu km2, nhưng lòng tham của Trung Quốc về lãnh thổ đúng là
“vô đáy”. Lần này tôi chưa nói tới tham vọng của Trung Quốc về biên giới trên
đất liền với các nước láng giềng mà chỉ giới thiệu tham vọng của họ về biên
giới trên biển. Trung Quốc có rất nhiều tài liệu viết về việc này, tôi xin
trích dẫn một tài liệu chính thống của Trung Quốc.
Trong
cuốn sách “Trầm tư trước Thái Bình Dương” của 2 học giả quân sự Trung
Quốc là Tào Bảo Kiện và Quách Phú Văn do Nhà xuất bản Đại học quốc phòng Trung
Quốc xuất bản năm 1989, đã ghi rõ Trung Quốc bị tất cả các nước láng giềng có
chung biên giới biển “cướp đoạt” hàng triệu km2 biển đảo của Trung Quốc. Cụ thể
là:
+ Ở Bắc Hoàng Hải: Trung Quốc cho rằng, Trung Quốc và CHDCND Triều Tiên cùng
chung thềm lục địa. Khi chia ranh giới vùng biển Bắc Hoàng Hải, mặc dù hai nước
đã thỏa thuận nguyên tắc chia theo đường trung tuyến, nhưng Triều Tiên lại đòi
chia tới nửa đường phân tuyến để chiếm phần biển hơn Trung Quốc chí ít 3.000
km2 biển.
+ Ở Nam Hoàng Hải
và Bắc Đông Hải: Trung Quốc và Hàn Quốc
cùng có chung thềm lục địa. Theo nguyên tắc kéo dài vị trí tự nhiên của sông
Hoàng Hà đổ ra biển, đáng lẽ Trung Quốc được chia phần lãnh hải nhiều hơn,
nhưng Hàn Quốc kiên quyết đòi chia theo đường trung tuyến nên đã “chiếm của
Trung Quốc” 180.000 km2 biển.
+ Ở Đông Hải: Trung Quốc và Nhật Bản không cùng thềm lục địa, nhưng Nhật
Bản không chịu, nói bừa là cùng thềm lục địa để chiếm của Trung Quốc dãy đảo
Điếu Ngư (Senkaku) và 210.000 km2 lãnh hải. Tháng 1/1974, Nhật Bản ký với Hàn
Quốc “Hiệp định khai thác chung thềm lục địa” lại chiếm thêm một phần lớn thềm
lục địa của Trung Quốc.
+ Ở Nam Hải
(Biển Đông):
-
Philippines: bá chiếm hầu hết
vùng biển quần đảo Nam Sa (Trường Sa), ngoài ra còn lấy danh nghĩa vùng đặc
quyền kinh tế chiếm luôn cả vùng biển từ đảo Hoàng Nham tới phần biển phía Đông
Đài Loan đáng lẽ thuộc về Trung Quốc. Tổng cộng Philippines đã phi pháp đưa vào
bản đồ của họ 420.000 km2 biển của Trung Quốc.
-
Malaysia: Năm 1979 tuyên bố phạm vi thềm lục địa,
đưa đảo Anba và một phần Nam Hải (Biển Đông) vào bản đồ của họ, phi pháp chiếm
của Trung Quốc 240.000 km2 biển.
-
Brunei: kéo dài thềm lục địa của họ tới đáy
sâu Nam Hải (Biển Đông), lấn vào đường biên giới truyền thống (đường “lưỡi bò”)
của Trung Quốc khoảng 3.000 km2.
-
Indonesia: vạch khu vực lãnh hải của họ vào sâu
đường biên giới truyền thống (đường “lưỡi bò”) của Trung Quốc khoảng 40.000 -
50.000 km2.
-
Mỹ: chiếm đảo Hoàng Nham của Trung Quốc ở
phía Bắc Philippines, lập trường bắn cho hải quân Mỹ ở đó.
-
Việt Nam: không những phi pháp chiếm đóng hơn 20
đảo của Trung Quốc ở Nam Sa (Trường Sa) và hơn 400.000 km2 vùng biển phụ cận mà
còn đưa ra yêu cầu hoang đường đòi chủ quyền toàn bộ đối với quần đảo Tây Sa
(Hoàng Sa) và quần đảo Nam Sa (Trường Sa) của Trung Quốc.
Hỡi
ôi! Đọc những dòng tài liệu trên của Nhà xuất bản Đại học Quốc phòng Trung Quốc
có lẽ đứa trẻ chăn trâu ở bất kỳ nước Châu Á nào (trừ Trung Quốc) cũng phải phì
cười về giọng lưỡi “miệng nam mô, bụng bồ dao găm” của các học giả quân đội
Trung Quốc. Tuy nhiên, với chính sách tuyên truyền nhồi sọ, kích động tư tưởng
Đại Hán của nhà cầm quyền Trung Quốc, không ít người dân Trung Quốc đã cả tin
vào những luận điệu mị dân đó, họ tin rằng chính phủ Trung Quốc quá hiền lành,
hữu nghị đến nỗi bị tất cả các nước láng giềng kể cả nước Brunei nhỏ xíu cũng
“cướp đoạt” biển của Trung Quốc. Và lẽ tất nhiên, nhà cầm quyền Trung Quốc đã
và đang kích động họ “bằng mọi giá phải giành lại quốc thổ của tổ quốc Trung
Hoa”. Chắc chắn những thủy thủ, những sĩ quan và binh lính trên giàn khoan HD 981
và trên các tàu chiến Trung Quốc đang hung hăng khiêu khích các tàu chấp pháp
Việt Nam trong vùng biển Việt Nam hẳn đã được lãnh đạo họ nhồi sọ những luận
điệu nham hiểm kể trên.
Tôi
không biết các nước Đông Bắc Á, Đông Nam Á và Mỹ có biết những tư liệu tuyên
truyền kể trên của Trung Quốc không? Nếu biết được họ sẽ suy nghĩ gì về tham
vọng lãnh thổ của Trung Quốc? Tôi mong Vietnamnet sẽ cung cấp thông tin trên
cho các bạn bè quốc tế biết. Đó là cuốn sách “Diện đối Thái Bình Dương trầm
tư” nguyên bản tiếng Trung – NXB Đại học Quốc phòng Trung Quốc xuất bản năm
1989, trang 111-112, đang lưu giữ tại Thư viện Học viện Quan hệ quốc tế
Bộ Ngoại giao.
Với
tham vọng vô đáy về biển đảo của nhà cầm quyền Trung Quốc và với những luận
điệu tuyên truyền nhồi sọ như vậy, chúng ta có thể dự báo trước, sớm muộn Trung
Quốc sẽ đưa giàn khoan và tàu chiến lần lượt xâm phạm vùng biển của tất cả các
nước láng giềng Đông Bắc Á và Đông Nam Á mà Trung Quốc coi là có “tranh chấp”
biển đảo với họ.
3/ Ông có thể
cho biết trong chiến dịch xâm lấn vùng biển của Việt Nam lần này, Trung Quốc sử
dụng chiến thuật gì khác so với các lần xâm lấn trước đây?
Trả lời: Khác chứ, khác xa các lần trước kể cả về quy
mô và thủ đoạn chính trị.
Trước đây, mỗi lần xâm phạm gặm nhấm biển đảo của Việt Nam, cắt cáp tàu khảo
sát của Việt Nam, thậm chí bắn chìm tàu và giết chết 9 ngư dân Thanh Hóa đang
đánh cá tại vùng biển Việt Nam và bị Việt Nam phản đối, nhà cầm quyền Trung
Quốc luôn giở thủ đoạn “vì đại cục”, vì “thỏa thuận cấp cao”, vì “16 chữ”, vì
“4 tốt”, “không cho nước thứ ba biết”, “không quốc tế hóa vấn đề Biển Đông” để
xoa dịu Việt Nam ngồi vào đàm phán song phương với họ. Lần này, phía Trung Quốc
không lặp lại thủ đoạn đó mà ngang nhiên xâm phạm chủ quyền biển đảo của Việt
Nam. Họ đã tự làm rơi chiếc mặt nạ lừa bịp, tự cắt bỏ “giây thần kinh xấu hổ”
để công khai đối đầu với Việt Nam và dư luận quốc tế.
Về quy mô, lần này Trung Quốc nghênh ngang đưa giàn khoan khủng Hải Dương – 981
và hàng trăm tàu lớn kể cả tàu chiến vào sâu vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục
địa Việt Nam, hung hăng bắn vòi rồng và đâm vào các tàu chấp pháp của Việt Nam,
thậm chí họ còn táng tận lương tâm đâm chìm một tàu đánh cá của ngư dân Việt
Nam, sẵn sàng tạo cớ gây xung đột với Việt Nam.
Về tuyên truyền, họ dùng thủ đoạn cùn như Chí Phèo vừa ăn cướp vừa la làng, lớn
tiếng vu cáo tàu thuyền Việt Nam quấy rối và đâm vào tàu của họ nên mới bị
chìm. Những ngày vừa qua các phóng viên nước ngoài như Nhật Bản, CNN... đã tới
hiện trường và trực tiếp chứng kiến, đưa tin về thủ đoạn vừa ăn cướp vừa la
làng của Trung Quốc.
4/ Theo suy nghĩ của
ông, sau chiến dịch xâm lấn này, Trung Quốc được gì, mất gì?
Trả lời: Đã có nhiều bài báo trong và ngoài nước viết về việc này.
Theo cá nhân tôi, sau hơn một tháng hung hăng xâm lấn và gây hấn đối với chủ
quyền lãnh thổ của Việt Nam, Trung Quốc đã bị mất quá nhiều so với những cái họ
đạt được.
Cái mà họ đạt được là:
Thứ nhất: Trên thực địa, đã trơ tráo đưa được giàn khoan Hải Dương -
981 vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, công khai thách
thức dư luận quốc tế. Nói cách khác Trung Quốc đã thực hiện cuộc xâm lược Việt
Nam từ phía biển.
Thứ hai: Về dư luận, đã xì van được một phần mâu thuẫn nội bộ ra bên
ngoài biên giới quốc gia, kích động tư tưởng sô vanh nước lớn trong trong nước
họ.
Nhưng Trung Quốc đã mất rất nhiều, nhiều lắm:
Thứ nhất: Chiến lược “trỗi dậy hòa bình” mà Trung Quốc dày công
chuẩn bị từ Đại hội 16 và ra rả tuyên truyền suốt chục năm qua nay đã bị phá
sản hoàn toàn. Trung Quốc đã hiện nguyên hình là một đế quốc hung hăng đầy tham
vọng về biên giới lãnh thổ, về chi phối thế giới bằng bất cứ giá nào. Trên thế
giới không còn ai tin vào những lời nói và việc làm của Trung Quốc.
Thứ hai: Với sự ngang ngược đưa giàn khoan vào sâu vùng biển Việt
Nam, Trung Quốc đã bị hầu hết các nước lớn và cộng đồng thế giới phản đối, phê
phán gay gắt, không hề có một quốc gia nào dù là bạn hữu thường nhận viện trợ ưu
ái của Trung Quốc lên tiếng bênh vực và ủng hộ Trung Quốc trong sự kiện này.
Một thực tế cay đắng đã bày ra trước mặt Trung Quốc, đó là: trên con đường phát
triển từ nước lớn thành cường quốc thế giới, Trung Quốc ngày càng bị cô lập,
không có đồng minh, cũng không có bạn bè. Tôi hoàn toàn đồng ý với bình luận
của ông Nguyễn Hùng Sơn – Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu Biển Đông, Bộ Ngoại
giao đăng trên báo Straitstimes của Singapore tháng 5/2014: “Nếu Trung Quốc
để mất niềm tin và tình bạn của ASEAN, Trung Quốc sẽ trở thành quốc gia cô độc
nhất trong lịch sử trên đường trở thành cường quốc, vì sẽ không có người bạn
thực thụ nào trong số tất cả các nước láng giềng”.
Thứ ba: Hàng chục năm nay Trung Quốc tốn rất nhiều tiền của thực
hiện chính sách “bẻ từng chiếc đũa” mua chuộc một số nước Đông Nam Á ủng hộ
Trung Quốc chỉ đàm phán song phương với từng nước ASEN có tranh chấp biển đảo
với Trung Quốc, không đưa vấn đề Biển Đông ra các diễn đàn khu vực và quốc tế.
Nhưng với các hành động hung hăng của Trung Quốc xâm phạm biển đảo của
Philippines và đưa dàn khoan Hải Dương - 981 vào sâu trong vùng biển Việt Nam
đã khiến các nước ASEAN xích lại gần nhau hơn, tạo được tiếng nói chung yêu cầu
Trung Quốc nghiêm chỉnh thực hiện Tuyên bố chung giữa ASEAN với Trung Quốc về Biển
Đông (DOC) và gây sức ép yêu cầu Trung Quốc phải sớm đàm phán với ASEAN để đạt
được Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC). Qua sự kiện này, tất cả các nước
ASEAN có tranh chấp biển đảo với Trung Quốc đều mong muốn quốc tế hóa vấn đề
Biển Đông và đều muốn Mỹ can dự nhiều hơn nữa để kiềm chế và ngăn chặn tham
vọng bành trướng của Trung Quốc ở Biển Đông.
Thứ tư: Trung Quốc đã mất đi tất cả những gì họ toan tính gây dựng
ở Việt Nam kể từ khi hai nước Việt – Trung bình thường hóa quan hệ (1991) đến
nay. Suốt 23 năm qua, các lớp lãnh đạo Trung Quốc dày công thực hiện “diễn biến
hòa bình kiểu Trung Quốc” tại Việt Nam, họ vuốt ve hòng ru ngủ Việt Nam bằng
tất cả các mỹ từ có được, nào là “16 chữ” (láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn
diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”, nào là “4 tốt” (láng giềng
tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”, nào là “4 tương” (sơn thủy
tương liên, văn hóa tương đồng, lý tưởng tương thông, vận mệnh tương quan).
Họ luôn dùng nhóm từ “vì đại cục”, “không ảnh hưởng đại cục” để xoa dịu Việt
Nam mỗi khi họ xâm lấn chủ quyền lãnh thổ Việt Nam.
Hơn một tháng qua, nhà cầm quyền Trung Quốc đã tự đánh rơi chiếc mặt nạ mà họ
đã đeo suốt 23 năm. Họ đã hiện nguyên hình từ người “đồng chí anh em” thành kẻ
xâm lược hung hăng hiếu chiến. Lòng tham vô đáy của đã làm lu mờ lý trí của
những kẻ đáng ra xứng đáng là những chính trị gia tầm cỡ thế giới.
Liệu đến bao giờ nhà cầm quyền Trung Quốc mới lấy lại được một phần lòng tin
của hơn 90 triệu nhân dân Việt Nam? Chắc chắn là không. Tôi rất tâm đắc với
bình luận của tác giả Kim Tuấn đăng trên báo điện tử “Dân trí”: “Người Việt
vẫn dặn nhau “ăn ở như bát nước đầy” và trong quan hệ với Trung Quốc, Việt Nam
luôn thực tâm giữ gìn, thậm chí nâng niu bát nước tình nghĩa ấy. Nhưng đáng tiếc
là bát nước đang bị người láng giềng lớn hơn tìm cách hắt đi và như một câu nói
khác, khi bát nước đã đổ đi thì không thể lấy lại được nữa”.
5/ Cũng xin hỏi ông,
trong cuộc đấu tranh chủ quyền biển đảo với Trung Quốc lần này, Việt Nam đã mất
gì và được gì?
Trả lời: Câu hỏi rất hay và tôi cũng xin trả lời không chỉ bằng suy
nghĩ của tôi mà bằng cả những điều tôi học được qua những buổi trao đổi sôi nổi
với bạn bè những ngày vừa qua.
Vậy chúng ta mất gì? Theo tôi, chúng ta có một cái “mất” lớn, “mất” nhưng lại
“mừng”. Đó là:
Chúng
ta đã “mất” đi một “đối tác chiến lược”, mất đi một “đồng chí anh em”
viển vông là Trung Quốc. Trên thế giới này thử hỏi có “đối tác chiến
lược” nào, người “đồng chí anh em” nào lại nỡ lòng đi xâm lấn lãnh thổ của “đối
tác chiến lược” và “đồng chí anh em” của mình rồi lại lật mặt “ngậm máu phun
người” tố cáo ngược “đồng chí anh em” bằng những lời lẽ hằn học và đê tiện.
Chúng ta đã “mất” đi một “tình hữu nghị viển vông” tồn tại suốt hơn 20 năm qua
với Trung Quốc. Cái gọi là “tình hữu nghị” gồm một mớ ngôn từ sáo rỗng do phía
Trung Quốc nêu ra từ “16 chữ” đến “4 tốt”, “4 tương”, “đại cục”... thực chất
chỉ là những lời ru ngủ của Trung Quốc mà thôi. Nói cách khác chúng ta đã mất
đi “ảo tưởng”, mất đi một “niềm tin” về một nước láng giềng XHCN lớn mạnh có
thể sát cánh cùng chúng ta thực hiện lý tưởng của chủ nghĩa Mac – Lenin.
Tôi
rất tâm đắc với lời bình của một học giả Việt Nam đăng trên mạng internet“chúng
ta phải cám ơn nhà cầm quyền Bắc Kinh đã sử dụng cơ bắp của họ húc vỡ cái “cục
to” (đại cục) được ngụy trang bằng “16 chữ” đen sì”.
Ngược lại, qua sự
kiện 1/5/2014, chúng ta đã được rất nhiều. Đó là:
Thứ nhất: Mỗi khi Tổ quốc bị lâm nguy, dân tộc Việt Nam muôn người
như một lại đoàn kết tạo thành một khối thống nhất sẵn sàng nhấn chìm kè thù
xâm lược. Hơn 90 triệu trái tim dân chúng Việt Nam và kiều bào ngoài nước đang
hướng về Biển Đông. Hình ảnh hàng triệu người dân Việt Nam trong và ngoài nước
sát cánh biểu tình hô vang khẩu hiệu đòi Trung Quốc rút giàn khoan Hải Dương -
981 ra khỏi vùng biển Việt Nam đang chứng minh điều đó.
Thứ hai: Trong cuộc đấu tranh pháp lý với Trung Quốc, tuy Trung Quốc
“to mồm”, “cãi chầy cãi cối” nhưng họ không giành được sự ủng hộ nào từ dư luận
quốc tế, kể cả Đài Loan có chung lập trường với Trung Quốc về Biển Đông. Phát
biểu càn quấy của viên tướng Trung Quốc Vương Quán Trung – Phó Tổng tham mưu
trưởng quân đội Trung Quốc tại Diễn đàn Shangri-la – Singapore ngày 1/6/2014
càng khiến dư luận quốc tế và khu vực phản cảm với Trung Quốc. Ngược lại,
chúng ta đã giành được sự ủng hộ tuyệt đối của dư luận từ các nước lớn Mỹ,
Nhật, Tây Âu, Ấn Độ, Úc... và hầu hết các nước ASEAN. Chưa bao giờ trên trang
web của Nhà Trắng lại xuất hiện một kiến nghị rất hay, đề nghị chính phủ Mỹ
trừng phạt Trung Quốc vì đã đặt giàn khoan Hải Dương - 981 ở thềm lục địa Việt
Nam, tính đến cuối tháng 5/2014 đã thu hút hơn 130.000 chữ ký. Theo quy định
của Mỹ, một kiến nghị đạt được 100.000 chữ ký thì trong vòng 30 ngày sẽ được
chính quyền Tổng thống Obama xem xét.
Tôi đã so sánh và thấy rõ, dư luận quốc tế ủng hộ Việt Nam lần này mạnh hơn,
quyết liệt hơn nhiều so với sự kiện Trung Quốc xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa của
Việt Nam năm 1974 và xâm chiếm đảo Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam
năm 1988.
Thứ ba: Cái được rất lớn mà nhân dân, sinh viên, trí thức, báo chí
Việt Nam lâu nay bị ràng buộc bởi “tình hữu nghị viển vông” mà không được công
khai phê phán và biểu tình phản đối các hành động của Trung Quốc xâm lấn chủ
quyền lãnh thổ Việt Nam. Kể từ sau sự kiện 1/5/2014, chúng ta đã hất bỏ chiếc
“vòng kim cô” vô lý đó, báo chí Việt Nam không còn dùng từ “tàu lạ”, “nước lạ”
mà công khai chỉ đích danh tàu Trung Quốc, nước Trung Quốc. Trên các báo chữ,
báo mạng, tạp chí liên tiếp xuất hiện các bài biết phê phán Trung Quốc xâm phạm
vùng biển Việt Nam, kiến nghị Chính phủ kiện Trung Quốc ra Tòa án quốc tế.
Trong hội trường Quốc hội và khắp mọi nơi trên cả nước, đâu đâu cũng căm phẫn
lên án kẻ láng giềng “rộng vai hẹp bụng”. Hàng vạn học sinh trung học và phụ
huynh học sinh rất phấn chấn khi thấy “giàn khoan Hải Dương - 981 của Trung
Quốc” xuất hiện trong đề thi môn Ngữ văn và môn Sử năm nay. Cá nhân tôi rất ủng
hộ ý kiến của Bộ trưởng Tư pháp Hà Hùng Cường phát biểu tại Quốc hội ngày
28/5/2014 về việc cần sớm có Luật biểu tình: “có những cuộc biểu tình không
phù hợp, nhưng cũng có nhiều cuộc biểu tình phù hợp. Việc sớm đưa vào chương
trình xây dựng Luật Biểu tình để có hành lang pháp lý, biểu thị ý kiến của
người dân là điều hoàn toàn phù hợp”.
Thứ tư: “Trong họa có phúc”, sự kiện 1/5/2014 do Trung
Quốc ngang ngược gây ra đặt Việt Nam trước nguy cơ chủ quyền lãnh thổ bị xâm
phạm, công cuộc xây dựng đất nước sau chiến tranh bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, việc
lật mặt tráo trở của Trung Quốc khiến chúng ta có được cơ hội hiếm có để điều
chỉnh chính sách ứng phó, giảm lệ thuộc vàoTrung Quốc trước mắt và tương lai
lâu dài.
Những
ngày qua, phát biểu của lãnh đạo các cấp, các ngành tại các diễn đàn trong và
ngoài nước cho thấy, cùng với việc sẵn sàng khởi kiện Trung Quốc ra Tòa án quốc
tế và chuẩn bị các phương án bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, chúng ta đã tính đến
các giải pháp kinh tế giảm lệ thuộc vào thị trường Trung Quốc. Hẳn các bạn còn
nhớ, sau khi Liên Xô sụp đổ năm 1992, không ít người cho rằng Việt Nam cũng suy
sụp theo vì Việt Nam bị mất đi một thị trường lớn Liên Xô Đông Âu to lớn. Nhưng
ngược lại, người Việt Nam đã tìm ra lối đi riêng cho mình để tiếp tục phát
triển lớn mạnh.
6/ Ông suy nghĩ thế
nào trước việc Trung Quốc rút hàng loạt người Trung Quốc đang làm việc tại Việt
Nam? Nếu Trung Quốc giảm hoặc ngừng các hoạt động hợp tác kinh tế, thương mại,
đầu tư với Việt Nam sẽ ảnh hưởng thế nào đến phát triển kinh tế của Việt Nam?
Trả lời: Ôn lại lịch sử một chút, năm 1978 Trung Quốc cũng
dựng ra màn kịch “đón nạn kiều” về nước rồi mở chiến dịch vu cáo Việt Nam “bài
Hoa” trước khi phát động cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam tháng 2/1979. Lần
này,Trung Quốc đã diễn lại kịch bản cũ, đưa tàu sang đón một số công nhân đang
làm việc tại Hà Tĩnh và một vài khu công nghiệp khác ở Việt Nam rồi lớn tiếng
vu cáo Việt Nam trên quốc tế là “Việt Nam bài Hoa, khiêu khích Trung Quốc”,
“môi trường đầu tư ở Việt Nam rất xấu”…
Tôi cho rằng, lần này Trung Quốc chỉ “rút” một số công nhân cơ bắp nhập cảnh
trái phép vào Việt Nam làm việc trong các dự án đầu tư của Đài Loan, Hồng Kông…
để lấy cớ vu cáo bôi nhọ Việt Nam mà thôi. Riêng những “công dân Trung Quốc”
đang “bám rễ” làm việc ở các vùng kinh tế chiến lược của Việt Nam như Tây
Nguyên, vùng giáp ranh với Lào, Campuchia… thì dù chúng ta có thực sự xua đuổi,
họ cũng không muốn về đâu. Đây là một hiểm họa lâu dài đối với an ninh quốc gia
của Việt Nam.
Về câu hỏi thứ hai, tôi thiết nghĩ mấy ngày qua các đại biểu Quốc hội ta đã bàn
thảo nhiều về các phương án ứng phó trong tình huống Trung Quốc trở mặt đóng
cửa khẩu biên giới, giảm và ngừng các hoạt động hợp tác kinh tế, đầu tư tại
Việt Nam. Tôi chỉ lưu ý các bạn rằng:
+ Trong buôn bán với Trung Quốc, 2/3 số lượng hàng hóa buôn bán là tiểu ngạch (mậu
dịch biên giới), chỉ có 1/3 là chính ngạch. Xuất khẩu của Việt Nam sang Trung
Quốc chỉ chiếm 30 % tổng xuất khẩu với thế giới, trong đó chủ yếu là hàng nông
sản, nhưng cũng chỉ chiếm khoảng 10% hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam với
thế giới. Những mặt hàng Việt Nam nhập khẩu từ Trung Quốc như thiết bị máy móc,
nguyên vật liệu may mặc… thì đều có thể nhập từ các thị trường khác. Đồng thời,
trong quan hệ thương mại, Trung Quốc luôn xuất siêu sang Việt Nam, vì vậy nếu
Trung Quốc đóng cửa khẩu biên giới, bên thiệt hại hơn không phải là bên nhập
siêu.
+ Về đầu tư trực tiếp, Trung Quốc chỉ là đối tác đầu tư rất nhỏ tại Việt Nam.
Đầu tư FDI của Trung Quốc tại Việt Nam chỉ chiếm 3% tổng số vốn đầu tư trực
tiếp của nước ngoài tại Việt Nam. Nếu như thiếu 3% FDI đó, kinh tế Việt Nam vẫn
phát triển bình thường.
Theo số liệu của Bộ Công thương tháng 4/2014, trong 10 dự án lớn của nhà thầu
Trung Quốc tại Việt Nam (đường sắt đô thị Cát Linh – Hà Đông, Dự án cao tốc Hà
Nội – Hải Phòng, Dự án cao tốc Hà Nội – Lào cai, Dự an Boxit Tây Nguyên, Nhà
máy gang thép Lào Cai, Dự án nhiệt điện Duyên Hải 1, Nhà máy nhiệt điện Mông
Dương 2, Nhà máy thủy điện Sông Bung 4, Khu căn hộ cao cấp Golden Westlake Hà
Nội, Nhà máy dệt may tại khu công nghiệp Lai Vu) và một số dự án về năng
lượng, hạ tầng thì tiến độ nhiều dự án chậm trễ, đội vốn, gây tranh cãi.
Nếu như Trung Quốc ngừng các dự án thầu này, lẽ đương nhiên hai bên đều thiệt
hại, nhưng họ sẽ chịu thiệt hại trước tiên.
Tôi
cũng xin cung cấp thêm một thông tin cho các bạn biết, Trung Quốc là nước đầu
tư trực tiếp lớn nhất tại Myanmar với 14,2 tỉ USD, chiếm 30,6% tổng số vốn FDI
nước ngoài tại Myanmar, nhưng cuối năm 2011 để bảo vệ môi trường và an ninh
quốc gia, chính phủ Myanmar đã tuyên bố hủy bỏ dự án đập thủy điện khổng lồ Myitsone trên sông Irrawaddy thuộc
Bang Kachin giáp biên giới Trung Quốc trị giá 3,6 tỉ USD do Trung Quốc là chủ đầu tư và đã làm xong 1/3 công trình. Phía Trung Quốc tuy phản ứng gay gắt
trước quyết định này của chính phủ Myanmar, nhưng vẫn phải “ngậm bồ hòn làm
ngọt” tiếp tục đầu tư vào các dự án khác.
7/ Ông nghĩ thế nào về phản ứng của các nước lớn và dư
luận quốc tế trước sự kiện Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương - 981 trong
thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam?
Trả lời: Như tôi đã nói ở trên, trong cuộc đấu tranh pháp lý với
Trung Quốc lần này, chúng ta đã giành được sự ủng hộ mạnh mẽ từ hầu hết các
nước lớn, ASEAN và dư luận quốc tế không chỉ tại các diễn đàn kinh tế thế giới
về Đông Á ở Philippines, diễn đàn an ninh Shangri la ở Singapore… và ngay tại
thủ đô nhiều nước trên thế giới. Ngược lại, không một quốc gia nào lên tiếng
ủng hộ và bênh vực Trung Quốc.
Đặc biệt, điều xảy
ra ngoài dự đoán của tôi là, lãnh đạo các nước lớn như Mỹ, Nhật Bản, Indonesia
kể từ Tổng thống, Thủ tướng, Bộ trưởng Quốc phòng tới các Nghị sĩ, học giả...
đều lớn tiếng phê phán Trung Quốc và đồng tình với thiện chí của Việt Nam.
Tuy nhiên, tôi băn
khoan một điều là các nước XHCN bạn bè truyền thống của Việt Nam kể cả bạn thân
sát nách và bạn thân cách nửa vòng trái đất, các đảng cộng sản trên thế giới
trước đây luôn sát cánh với Việt Nam lần này đều im hơi lặng tiếng? Phải chăng
rượu Mao Đài đã khiến họ say
rồi?
8/ Là người từng công tác nhiều năm tại Trung Quốc và Đài
Loan, ông nghĩ thế nào về giới lãnh đạo Trung Quốc và nhân dân Trung Quốc xung
quanh vấn đề Biển Đông?
Trả lời: Câu hỏi rất lớn, tôi xin khái quát trả lời như sau:
Từ đầu thế kỷ XX đến
nay, có 2 đảng lớn thay nhau cầm quyền ở Trung Quốc là Quốc dân đảng và Đảng
cộng sản. Mẫu số chung của các lãnh tụ 2 đảng này từ Tưởng Giới Thạch đến Mao
Trạch Đông và các thế hệ tiếp theo là đều nuôi “giấc mộng Trung Hoa”, mong muốn
đưa Trung Quốc sớm trở thành cường quốc hàng đầu thế giới, hất ảnh hưởng của Mỹ
ra khỏi vùng Hoa Đông, Biển Đông đến tận đảo Guam, chia sẻ quyền lực với Mỹ
trên Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương. Để thực hiện giấc mộng đó, bước đầu tiên
không hẹn mà gặp họ đều muốn độc chiếm Biển Đông.
Xin các bạn nhớ cho,
năm 1947 chính quyền Quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch là kẻ khởi xướng
đầu tiên vẽ bản đồ Trung Hoa có đường biên giới “lưỡi bò” gồm 11 đoạn đứt
khúc bao bọc gần hết Biển Đông và không đưa bất kỳ cơ sở pháp lý nào. Kế thừa
“di sản” đó, từ đầu thập kỷ 50 thế kỷ XX, CHND Trung Hoa của Mao Trạch Đông đã
cải biên đường biên giới “lưỡi bò” từ 11 đoạn thành 10 đoạn, sau chuyển thành 9
đoạn như hiện nay và cũng không đưa ra bất kỳ cơ sở pháp lý nào.
Đại đa số nhân dân
Trung Quốc là nông dân lao động yêu chuộng hòa bình, trước năm 1949 họ từng bị
lôi cuốn vào cuộc nội chiến Quốc - Cộng tương tàn hàng chục năm và tiếp đó là
các cuộc đấu đá chính trị bè phái trong nội bộ Đảng cộng sản Trung Quốc điển
hình là 10 năm Cách mạng văn hóa 1966 -1976, sự kiện Thiên An Môn tháng 6/1976
và sự kiện Thiên An Môn tháng 5/1989.
Như tôi đã nói ở
phần trên, mỗi khi Trung Quốc gặp khó khăn trong nội bộ, họ đều sử dụng chiến
thuật “đổ lửa” ra ngoài biên giới quốc gia, kích động tư tưởng Đại Hán, hướng
mâu thuẫn nội bộ sang các nước láng giềng như Ấn Độ, Liên Xô, Nhật Bản, Việt
Nam... Không ít người dân Trung Quốc thật thà, thiếu thông tin đã bị mắc lừa
trước thủ đoạn mị dân của lãnh đạo họ, trở thành vật hy sinh trong các cuộc
chiến tranh biên giới với các nước láng giềng.
Tuy nhiên, nhiều
người dân TQ thông minh, trực tính nhất là tầng lớp trí thức không dễ bị lừa.
Không ít người đã thẳng thắn phát biểu chính kiến không đồng tình với tuyên
truyền phi lý của chính phủ Trung Quốc về vấn đề Biển Đông. Tôi xin trích dẫn 3
ví dụ tiêu biểu:
- Ngày 10/5/2014, Học giả Lý Lệnh Hoa, nhà nghiên
cứu Trung Quốc về biển và luật biển đăng bài viết trên blog cá nhân cho biết,
phóng viên của Hoàn cầu Thời báo - phụ san của báo đảng Trung
Quốc, gọi điện phỏng vấn ông về cách nhìn nhận tình hình ở khu vực quần
đảo Hoàng Sa trên Biển Đông hiện nay. Ông Lý Lệnh Hoa đã trả lời thẳng
thẳn quan điểm của mình với phóng viên: "Trung Quốc là quốc gia tham
gia ký kết Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển (UNCLOS) năm 1982. Do đó, Trung
Quốc cần tuân thủ theo điều 74 và điều 83 của Công ước, cần tôn trọng chủ
trương thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của các quốc gia ven
biển". Ông Lý còn khẳng định rằng đây là quan điểm xuyên suốt của ông,
được trình bày ở nhiều bài viết là diễn đàn khác nhau, hy vọng phóng viên
có thể xem và tiếp tục trao đổi sâu hơn về quan điểm này.
- Sau khi nghe phát biểu hôm 27/5/2014 của Người phát
ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Tần Cương biện bạch về việc một tàu cá Việt Nam
bị chìm sau khi "quấy rối và đâm vào một tàu cá Trung Quốc", ông
Duan Wanjin - một luật sư Trung Quốc phát biểu trên mạng intenet đã chỉ
trích Chính phủ Trung Quốc “hành động không phù hợp với danh xưng
"cường quốc". "Mọi tranh chấp nên được đưa ra bàn bạc, không thể
đi nói xấu nước khác như vậy", Ông Duan nhận xét: “quốc gia nào chủ
trương thu hẹp quan hệ ngoại giao như Trung Quốc hiện nay sẽ khó mà trỗi
dậy”."Bộ Ngoại giao Trung Quốc hiện giờ đầy những chú hề, những kẻ muốn
lấy lòng các vị lãnh đạo. Chẳng còn chút tinh thần Nho giáo nào sót lại, thay
vào đó là thói côn đồ. Đường lối phát triển của quốc gia ngày nay thật đáng
buồn".
- Phó giáo sư Vi Dân - chuyên gia Đông Nam Á thuộc Đại
học Bắc Kinh, cũng phát biểu trên mạng internet đầu tháng 5/2014: “Chính
quyền Trung Quốc sẽ dần bị mất uy tín nếu tiếp tục có thái độ hiếu chiến
trên Biển Đông. Nếu không giải quyết sớm, thì bất kể lời giải thích nào mà
chính phủ Trung Quốc đưa ra cũng không còn ý nghĩa gì nữa. Rõ ràng là chúng ta
ức hiếp phía Việt Nam”.
9/ Theo ông, Việt Nam có nên kiện Trung Quốc ra tòa án
quốc tế không? Có nên chấp nhận đề nghị của Trung Quốc “gác tranh chấp, cùng
khai thác” không?
Trả lời: Các bạn đã biết, suốt tháng qua nhiều phát biểu của lãnh
đạo cấp cao, các Bộ,
Ngành nhất là các đại biểu Quốc hội đều phê phán gay gắt hành động xâm lược
của Trung Quốc đối với nước ta, đồng thời đề xuất phương án kiện Trung Quốc ra
Tòa án quốc tế như Philippines đã làm. Tôi cho rằng, kẻ cướp đã hung hăng vào
đến sân nhà ta, ta còn cân nhắc “nên hay không nên” gì nữa, đã đến lúc chúng ta
PHẢI kiện Trung Quốc ra Tòa án quốc tế, dùng pháp lý quốc tế khẳng định và bảo
vệ chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam.
Ngoài ra,
trong các Bộ Luật về biển được quốc tế sử dụng, Bộ Luật cổ La Mã quy định, trong
tranh chấp chủ quyền biển đảo giữa các bên liên quan, nếu trong vòng 50 năm một
trong hai bên tranh chấp không lên tiếng khởi kiện bên kia, thì lẽ đương nhiên
chủ quyền sẽ thuộc về bên kia. Trung Quốc đã chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa của
Việt Nam 40 năm rồi. Chúng ta càng để lâu không kiện Trung Quốc sẽ càng bất
lợi.
Tin tức cho hay,
ngày 4/6/2014, Tòa án trọng tài quốc tế ở The Hague, Hà Lan thông báo sẽ lấy
ngày 15/12 là ngày Trung Quốc nộp bản phản biện đáp lại văn bản dài gần 4.000
trang của Philippines kiện Trung Quốc hồi tháng 3/2013. Cùng ngày, người phát
ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã ngang ngược khẳng định: “Lập trường của
Trung Quốc không có gì thay đổi, Bắc Kinh không chấp nhận và không tham gia
trong tố tụng trọng tài có liên quan tới Philippines”. Việc Trung Quốc
không dám tranh luận trước tòa chỉ càng làm cho Trung Quốc bị cô lập trên quốc
tế, đồng thời khiến vụ kiện của Philippines nhanh chóng được Tòa án quốc tế
hoàn tất và sẽ sớm đưa ra phán quyết cuối cùng. Nếu phán quyết này có lợi cho
phía Philippines, đây sẽ là một đòn ngoại giao giáng mạnh vào Trung Quốc, và sẽ
là một chiến thắng vang dội cho Philippines về pháp lý.
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang “Chúng ta không muốn xung đột, yêu chuộng hòa
bình, sẵn sàng đàm phán, giải quyết vấn đề thông qua kênh ngoại giao. Thế
nhưng, nếu ngoại giao không được thì phải đấu tranh bằng pháp lý, thông qua tòa
án quốc tế”
Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc: "Việt Nam đang củng cố
hồ sơ khởi kiện Trung Quốc".
Về đề nghị của Trung
Quốc “gác tranh chấp, cùng khai thác” ở Biển Đông, thay cho trả lời, tôi xin
cung cấp thông tin cho các bạn rõ:
Từ năm 1992, Trung
Quốc công bố “phương châm 16 chữ” của họ về khai thác chung với các nước láng
giềng là “chủ quyền thuộc ngã, các trí tranh nghị, cộng đồng khai phát, lợi
ích phân hưởng” (chủ quyền thuộc tôi, gác lại tranh cãi, cùng nhau khai
thác, chia xẻ lợi ích). Sau đó họ viết ngắn lại là “các trí tranh nghị, cộng
đồng khai phát” nhưng dưới tiền đề “chủ quyền thuộc ngã”.
Nực cười thay, đã là
“chủ quyền thuộc ngã” thì còn khai thác chung làm gì nữa? Trung Quốc đã đem
công thức này mời chào Việt Nam và các nước Đông Nam Á có tranh chấp biển đảo
với Trung Quốc, nhưng cho tới nay chưa có quốc gia nào dám nhận lời “cùng khai
thác” tài nguyên biển với Trung Quốc ở vùng tranh chấp mà phải chấp nhập tiền
đề “chủ quyền thuộc ngã”? Thực chất là Trung Quốc muốn “gác tranh chấp, cùng
khai thác” tại vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa và lãnh hải của các nước
Đông Nam Á mà theo cách nghĩ của Trung Quốc đó là vùng tranh chấp vì nằm trong
“đường lưỡi bò” do họ tự vẽ ra.
Ngoài ra, thực tiễn
trên thế giới cũng cho thấy, các dự án “khai thác chung” tài nguyên biển giữa
một số quốc gia đã bộc lộ những hệ quả đáng tiếc, thua thiệt cả về chủ quyền cả
về kinh tế cho như những quốc gia nhỏ bé, ít vốn hơn bởi lẽ “thỏa thuận tạm
thời” sẽ thành “thỏa thuận vĩnh viễn” và “lợi thế” bao giờ cũng thuộc về kẻ
mạnh hơn.
10/ Ông đánh giá thế nào về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc
sau sự kiện tháng 1/5/2014?
Trả lời: Tôi cho rằng sau sự kiện 1/5/2014 lần
này, dù muốn hay không quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc tất yếu đã chuyển
sang một giai đoạn mới khác hẳn 23 năm trước kể từ khi hai nước bình thường hóa
quan hệ. Vì sao vậy? Vì Trung Quốc đã đơn phương vứt bỏ “16 chữ”, “4 tốt”, “4
tương”, đã lộ nguyên hình là nước lớn láng giềng “rộng vai” nhưng “hẹp bụng”,
hung hăng xâm lấn chủ quyền lãnh thổ của nước láng giềng “đồng chí anh em”.
Chúng ta đã “ngậm quả bồ hòn hữu nghị” với Trung Quốc quá
lâu. Đã đến lúc chúng ta phải “nhè” ra và “nhổ” đi quả bồ hòn đắng chát đó.
Phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ngày 22/5/2014 tại Philippines đã làm
nức lòng đồng bào cả nước: “Việt Nam kiên quyết bảo vệ chủ quyền và lợi ích
chính đáng của mình bởi vì chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển đảo là thiêng
liêng. Việt Nam luôn mong muốn có hòa bình, hữu nghị nhưng phải trên cơ sở bảo
đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, vùng biển, và nhất định
không chấp nhận đánh đổi điều thiêng liêng này để nhận lấy một thứ hòa bình,
hữu nghị viển vông, lệ thuộc nào đó".
Tôi tán đồng ý kiến của ông Đặng Ngọc Tùng Chủ tịch Tổng
Liên đoàn Lao động Việt Nam tại Quốc hội ngày 2/6/2014 : “Phát biểu của Thủ
tướng là lời nhắc nhở ai đó còn mơ hồ về tình hữu nghị, về “16 chữ vàng”, về “4
tốt” với người láng giềng “hẹp bụng”.
Đã đến lúc để Việt Nam dứt khoát đoạn tuyệt với
“tình hữu nghị viển vông” để xác định khuôn khổ quan hệ mới với Trung Quốc trên
cơ sở chung sống hòa bình, bình đẳng, hai bên cùng có lợi, giải quyết các tranh
chấp với Trung Quốc bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở Luật pháp quốc tế.
11/ Xin hỏi ông câu cuối cùng, nếu Trung Quốc vẫn hung
hăng tiếp tục lấn tới xâm phạm vùng biển Việt Nam, cố tình gây hấn dẫn đến xung
đột vũ lực với Việt Nam. Tình hình khi đó sẽ ra sao?
Trả lời: Xin các bạn cùng tôi giở lại các trang lịch sử đấu tranh
chống ngoại xâm của dân tộc ta.
Trong lịch sử gần
3000 năm của dân tộc Việt Nam, các triều đại Trung Quốc đã đem quân xâm lược
Việt Nam 20 lần (nhà Ân 1 lần, nhà Tần 1 lần, nhà Hán 4 lần, nhà Lương 3
lần, nhà Tống 2 lần, nhà Nguyên 3 lần, nhà Minh 1 lần, nhà Thanh 1 lần, CHND
Trung Hoa 4 lần), tức với tần suất trung bình 150 năm một lần xâm lược.
Chắc chắn trên thế giới chưa từng có một quốc gia nào đem quân đi xâm lược nước
láng giềng của mình nhiều lần đến như vậy.
Trong tổng số 20 cuộc xâm lược đó, chỉ riêng từ khi nước
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ra đời năm 1949 đến nay, trong thời gian 65 năm qua
CHND Trung Hoa đã xâm lược VN đến 4 lần (năm 1956 chiếm phía nửa phía Đông
quần đảo Hoàng Sa, năm 1974 chiếm nửa phía Tây quần đảo Hoàng Sa, năm 1979 xâm
lược 6 tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam, năm 1988 chiếm đảo Gạc Ma quần đảo
Trường Sa, chưa kể đến việc Trung Quốc thông qua Khmer Đỏ gây ra chiến
tranh biên giới Tây Nam – 1978, và sự kiện 1/5/2014). Như vậy, dưới chính
thể Cộng hòa nhân dân, cả hai nước đều do Đảng Cộng sản lãnh đạo, tần suất xâm
lược của Trung Quốc đối với Việt Nam là trung bình 15 năm một lần xâm lược, dày
gấp 10 lần so với tần xuất xâm lược Việt Nam từ các triều đại phong kiến Trung
Quốc.
Lãnh đạọ các cấp Việt Nam đã nói rõ, Việt Nam yêu cầu
Trung Quốc phải rút dàn khoan Hải Dương - 981 ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế và
thềm lục địa Việt Nam, giải quyết mọi vấn đề tồn tại giữa hai nước bằng biện
pháp hòa bình. Nhưng mọi sự kiên nhẫn đều có giới hạn, nếu phía Trung Quốc vẫn
hung hăng, bất chấp pháp lý quốc tế tiếp tục xâm phạm toàn vẹn chủ quyền lãnh
thổ của Việt Nam, đẩy Việt Nam vào thế cùng, thì lẽ tất yếu dân tộc Việt Nam sẽ
“ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm” đoàn kết đứng lên bảo vệ độc lập
tự do của Tổ quốc như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng kêu gọi hơn nửa thế kỷ trước.
Ông cha ta xưa, bằng sức mạnh dân tộc, đã từng một mình,
đơn độc chống lại bọn phong kiến phương Bắc xâm lược đông mạnh, hết triều đại
này đến triều đại khác để lại những chiến công hiển hách và các giá trị to lớn
khác, thì ngày nay, sức mạnh dân tộc đó, kết với sức mạnh thời đại, sự ủng hộ
của bạn bè quốc tế, Việt Nam không ngán ngại bất cứ kẻ thù nào.
Trước khi kết thúc bài trả lời phỏng vấn này, tôi xin gửi
các bạn cùng đọc bài văn yêu nước viết theo thể “Phú” của nhà thơ Kha
Tiệm Ly đang làm nức lòng nhiều bạn đọc cả nước.
Xin cám ơn VietnamNet!
Đối diện quân thù Phú
Bắc biên địa, hận cũ chẳng nguôi ngoai
Đông lãnh hải, lại giở trò lếu láo.
Kéo dàn khoan ỷ thế nghênh ngang,
Bày thế trận vẫn thói quen hung bạo!
Than ôi!
Đau lòng biết mấy, giặc nuốt rồi mấy dặm Nam Quan,
Ôm hận bao năm, thù chiếm trọn Hoàng Sa hải đảo!
Ngông cuồng vẽ đường chín khúc, không kiêng công ước rạch ròi,
Nghênh ngang kéo cả dàn khoan, để lộ mặt mày ngổ ngáo.
Ỷ mạnh kéo tàu to tàu nhỏ, hiếp ngư thuyền không súng không gươm ,
Thẳng tay dùng cây ngắn cây dài, nện ngư dân chẳng giày chẳng áo!
Thảm sát Đồng Chúc, phụ nữ mang thai mà chúng giết như giết lợn giết bò,
Đánh chiếm Gạc Ma, chiến sĩ tay không mà chúng bắn như bắn cò bắn sáo!
Niềm uất hận chất kín gầm trời,
Biển tang thương đỏ tươi màu máu!
Cho vợ khóc chồng lệ xót lâm li,
Để mẹ nhớ con canh dài áo não!
Câu “Bốn tốt” đã thành lời lẽ yêu ma,
“Mười sáu chữ vàng” nay lòi tim gan chồn cáo!
Thế mới hay,
Vì mộng bành trướng mà mắt cú láo liên,
Bởi thói bá quyền nên lòng lang trơ tráo.
“Không có đối thủ nào trọn kiếp thù hằn,
Chẳng có hữu bằng nào trăm năm vĩnh hảo”
Mất lòng dân, thì dù tấc đất khó gìn,
Được lòng dân, sợ chi quân thù trở giáo!
Từ xưa:
“Hiền tài là nguyên khí quốc gia”
“Giang sơn mất thì nhà tan cửa nát”
Cho nên:
Chớ xui hào kiệt lên rừng đốt củi làm than,
Đừng đẩy sĩ phu ra đường bán rong hát dạo!
Nếu lúc bình thời mãi dùng củi mục làm quan,
Thì cơn quốc loạn lấy ai bảo toàn cương thổ?
Lũ vô tài vô đức, chỉ biến nhân dân thành chó thành dê,
Người đại trí đại nhân mới giúp giang sơn hóa rồng hóa hổ.
Hỡi quân thù!
Mi xua tàu chiến, chồn ló mặt chồn,
Mi kéo dàn khoan, cáo lòi đuôi cáo!
Miệng lằn lưỡi mối khác gì trôn đĩ thối tha,
Khẩu Phât tâm xà nên ló mặt mo vênh váo!
Dân ta lòng gang dạ sắt, chớ bày trò nhát khỉ rung cây,
Bọn mi mắt chột mắt mù, chớ lấy tơ trói hùm trói báo!
Giang sơn li loạn, trăm sông ta liền hóa Như Nguyệt, Bạch Đằng,
Tổ quốc lâm nguy, triệu dân ta đều trở thành Ngô Quyền, Hưng Đạo.
Trải bao binh lửa, Cửu Long Giang luôn chín khúc hào hùng,
Qua bấy phong ba, Hoàng Liên Sơn vẫn nghìn mây vời vợi.
Thử lửa đi! Chiến sĩ ta đạn đã lên nòng,
Xung phong đi! Nhân dân ta gươm chờ tuốt vỏ!
Thắng trăm trận cũ, Đại Cồ giữ nước nghìn năm,
Thắng một trận nầy, Việt Nam lưu danh vạn thuờ.
Anh em ơi!
Giặc đã đến rồi!
Giặc đã đến rồi!
Ta nhân nhượng cũng có mức có chừng
Chúng hung hăng ngày tự tung tự tác.
Thương giống nòi, chân mạnh bước hiên ngang,
Vì tổ quốc, máu sôi lòng bất khuất.
“Đánh cho để răng đen,
Đánh cho luôn dài tóc”.
Đống Đa gươm khua chan chát, máu thù dơ bước chân voi,
Đằng Giang sóng cuộn ầm ầm, xác giặc còn tanh mũi cọc.
Diên Hồng vang rền “Sát Thát”, quyết bảo toàn hải phận, biên cương,
Như Nguyệt sang sảng lời thơ, không để mất ngọn rau, tấc đất.
Lao thân đạn lửa, mới biết ai dũng ai hèn,
Đối diện quân thù, mới rõ ai vinh ai nhục!
Dù máu đỏ loang lòng biển, quyết bảo toàn hạt cát quê hương,
Dù xương trắng chất đầu non, không để mất bờ cây tổ quốc.
Hỡi anh em!
Vung tay lên, trăm
triệu chung lòng!
Trước giặc thù, một
còn một mất!
Kha Tiệm Ly
------
Bài đăng trên VietnamNet:
Giàn khoan làm biến đổi quan hệ Việt - Trung
"Sau sự kiện giàn khoan lần này, dù muốn hay không quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc tất yếu đã chuyển sang một giai đoạn mới khác hẳn 23 năm trước kể từ khi hai nước bình thường hóa quan hệ", ông Chu Công Phùng bình luận.Ông Chu Công Phùng, nguyên Bí thư Đại sứ quán Việt Nam tại Trung Quốc (1987 - 1991), nguyên đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Myanmar giai đoạn 2009-2012 trò chuyện cùng Tuần Việt Nam.
Theo tôi, có một số điều đáng suy ngẫm sau đây.
Thứ nhất: Mỗi khi Tổ quốc lâm nguy, dân tộc Việt Nam muôn người như một lại đoàn kết tạo thành một khối thống nhất. Hơn 90 triệu trái tim dân chúng Việt Nam và kiều bào ngoài nước đang hướng về Biển Đông.
Thứ hai: Trong cuộc đấu tranh pháp lý với Trung Quốc, tuy Trung Quốc "to giọng", nhưng họ không giành được sự ủng hộ nào từ dư luận quốc tế, kể cả Đài Loan có chung lập trường với Trung Quốc về Biển Đông.
Ngược lại, chúng ta đã giành được sự ủng hộ của dư luận từ các nước lớn Mỹ, Nhật, Tây Âu, Ấn Độ, Úc... và hầu hết các nước ASEAN. Chưa bao giờ trên trang web của Nhà Trắng lại xuất hiện một kiến nghị rất hay, đề nghị chính phủ Mỹ trừng phạt Trung Quốc vì đã đặt giàn khoan 981 ở thềm lục địa Việt Nam, tính đến cuối tháng 5/2014 đã thu hút hơn 130.000 chữ ký. Theo quy định của Mỹ, một kiến nghị đạt được 100.000 chữ ký thì trong vòng 30 ngày sẽ được chính quyền Tổng thống Obama xem xét.
Thứ ba:. Kể từ sau sự kiện 1/5/2014, trên các báo chữ, báo mạng, tạp chí liên tiếp xuất hiện các bài biết phê phán Trung Quốc xâm phạm vùng biển Việt Nam, kiến nghị Chính phủ kiện Trung Quốc ra Tòa án quốc tế.
Giàn khoan Hải Dương 981 cũng đã xuất hiện trong đề thi môn Ngữ văn và môn Sử năm nay. Cá nhân tôi rất ủng hộ ý kiến của Bộ trưởng Tư pháp Hà Hùng Cường phát biểu tại Quốc hội ngày 28/5/2014 về việc cần sớm có Luật biểu tình: "có những cuộc biểu tình không phù hợp, nhưng cũng có nhiều cuộc biểu tình phù hợp. Việc sớm đưa vào chương trình xây dựng Luật Biểu tình để có hành lang pháp lý, biểu thị ý kiến của người dân là điều hoàn toàn phù hợp".
Thứ tư: "Trong họa có phúc", đây là cơ hội để ta điều chỉnh chính sách ứng phó, giảm lệ thuộc vàoTrung Quốc trước mắt và tương lai lâu dài.
Những ngày qua, phát biểu của lãnh đạo các cấp, các ngành tại các diễn đàn trong và ngoài nước đã cho thấy, cùng với việc sẵn sàng khởi kiện Trung Quốc ra Tòa án quốc tế và chuẩn bị các phương án bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, chúng ta đã tính đến các giải pháp kinh tế giảm lệ thuộc vào thị trường Trung Quốc.
Những ngày qua, mỗi khi các tàu thực thi pháp luật của Việt Nam tiến đến giàn khoan
Hải Dương 981 mà TQ đặt trái phép trên vùng biển Việt Nam, lập tức có một "phi
đội" tàu TQ bao vây để cản trở, đâm, dùng vòi rồng xịt. Ảnh: Tư liệu Cảnh sát biển |
Theo ông, các diễn biến trên biển sẽ tác động như thế nào đến hoạt động kinh tế, giao thương giữa hai nước?
- Trong kỳ họp lần này, các ĐBQH đã bàn thảo về các phương án ứng phó trong tình huống Trung Quốc đóng cửa khẩu biên giới, giảm và ngừng các hoạt động hợp tác kinh tế, đầu tư tại Việt Nam. Tôi xin lưu ý:
Thứ nhất, trong buôn bán với Trung Quốc, 2/3 số lượng hàng hóa buôn bán là tiểu ngạch (mậu dịch biên giới), chỉ có 1/3 là chính ngạch. Xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc chỉ chiếm 30 % tổng xuất khẩu với thế giới, trong đó chủ yếu là hàng nông sản, nhưng cũng chỉ chiếm khoảng 10% hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam với thế giới. Những mặt hàng Việt Nam nhập khẩu từ Trung Quốc như thiết bị máy móc, nguyên vật liệu may mặc... thì đều có thể nhập từ các thị trường khác. Đồng thời, trong quan hệ thương mại, Trung Quốc luôn xuất siêu sang Việt Nam, vì vậy nếu Trung Quốc đóng cửa khẩu biên giới, bên thiệt hại hơn không phải là bên nhập siêu.
Thứ hai, đầu tư FDI của Trung Quốc tại Việt Nam chỉ chiếm 3% tổng số vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài tại Việt Nam. Nếu như thiếu 3% FDI đó, kinh tế Việt Nam vẫn phát triển bình thường.
Theo số liệu của Bộ Công thương tháng 4/2014, trong 10 dự án lớn của nhà thầu Trung Quốc tại Việt Nam thì tiến độ nhiều dự án chậm trễ, đội vốn, gây tranh cãi. Nếu như Trung Quốc ngừng các dự án thầu này, lẽ đương nhiên hai bên đều thiệt hại, nhưng họ sẽ chịu thiệt hại trước tiên.
Tôi cũng xin cung cấp thêm một thông tin, Trung Quốc là nước đầu tư trực tiếp lớn nhất tại Myanmar với 14,2 tỉ USD, chiếm 30,6% tổng số vốn FDI nước ngoài tại Myanmar, nhưng cuối năm 2011 để bảo vệ môi trường và an ninh quốc gia, chính phủ Myanmar đã tuyên bố hủy bỏ dự án đập thủy điện khổng lồ Myitsone trên sông Irrawaddy thuộc Bang Kachin giáp biên giới Trung Quốc trị giá 3,6 tỉ USD do Trung Quốc là chủ đầu tư và đã làm xong 1/3 công trình. Phía Trung Quốc tuy phản ứng gay gắt trước quyết định này của chính phủ Myanmar, nhưng vẫn phải "ngậm bồ hòn làm ngọt" tiếp tục đầu tư vào các dự án khác.
Đã đến lúc cân nhắc kiện TQ
Theo ông, Việt Nam có nên kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế không?
- Các bạn đã biết, suốt tháng qua nhiều phát biểu của lãnh đạo cấp cao, các Bộ, Ngành nhất là các ĐBQH đều phê phán gay gắt hành động xâm phạm của Trung Quốc với nước ta, đồng thời đề xuất phương án kiện Trung Quốc ra Tòa án quốc tế như Philippines đã làm.
Tôi cho rằng, đã đến lúc chúng ta kiện Trung Quốc ra Tòa án quốc tế, dùng pháp lý quốc tế khẳng định và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam.
Ngoài ra, trong các Bộ Luật về biển được quốc tế sử dụng, Bộ Luật cổ La Mã quy định, trong tranh chấp chủ quyền biển đảo giữa các bên liên quan, nếu trong vòng 50 năm một trong hai bên tranh chấp không lên tiếng khởi kiện bên kia, thì lẽ đương nhiên chủ quyền sẽ thuộc về bên kia. Trung Quốc đã chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam 40 năm rồi. Chúng ta càng để lâu không kiện Trung Quốc sẽ càng bất lợi.
Tin tức cho hay, ngày 4/6/2014, Tòa án trọng tài quốc tế ở The Hague, Hà Lan thông báo sẽ lấy ngày 15/12 là ngày Trung Quốc nộp bản phản biện đáp lại văn bản dài gần 4.000 trang của Philippines kiện Trung Quốc hồi tháng 3/2013. Cùng ngày, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã ngang ngược khẳng định: "Lập trường của Trung Quốc không có gì thay đổi, Bắc Kinh không chấp nhận và không tham gia trong tố tụng trọng tài có liên quan tới Philippines".
Việc Trung Quốc không dám tranh luận trước tòa chỉ càng làm cho Trung Quốc bị cô lập trên quốc tế, đồng thời khiến vụ kiện của Philippines nhanh chóng được Tòa án quốc tế hoàn tất và sẽ sớm đưa ra phán quyết cuối cùng. Nếu phán quyết này có lợi cho phía Philippines, đây sẽ là một đòn ngoại giao giáng mạnh vào Trung Quốc, và sẽ là một chiến thắng vang dội cho Philippines về pháp lý.
Về đề nghị của Trung Quốc "gác tranh chấp, cùng khai thác" ở Biển Đông, thay cho trả lời, tôi xin cung cấp thông tin cho các bạn rõ hơn tình hình.
Từ năm 1992, Trung Quốc công bố "phương châm 16 chữ" của họ về khai thác chung với các nước láng giềng là "chủ quyền thuộc ngã, các trí tranh nghị, cộng đồng khai phát, lợi ích phân hưởng"(chủ quyền thuộc tôi, gác lại tranh cãi, cùng nhau khai thác, chia sẻ lợi ích). Sau đó họ viết ngắn lại là "các trí tranh nghị, cộng đồng khai phát" nhưng dưới tiền đề "chủ quyền thuộc ngã".
Nực cười thay, đã là "chủ quyền thuộc ngã" thì còn khai thác chung làm gì nữa? Trung Quốc đã đem công thức này mời chào Việt Nam và các nước Đông Nam Á có tranh chấp biển đảo với Trung Quốc, nhưng cho tới nay chưa có quốc gia nào dám nhận lời "cùng khai thác" tài nguyên biển với Trung Quốc ở vùng tranh chấp mà phải chấp nhập tiền đề "chủ quyền thuộc ngã"? Thực chất là Trung Quốc muốn "gác tranh chấp, cùng khai thác" tại vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa và lãnh hải của các nước Đông Nam Á mà theo cách nghĩ của Trung Quốc đó là vùng tranh chấp vì nằm trong "đường lưỡi bò" do họ tự vẽ ra.
Ngoài ra, thực tiễn trên thế giới cũng cho thấy, các dự án "khai thác chung" tài nguyên biển giữa một số quốc gia đã bộc lộ những hệ quả đáng tiếc, thua thiệt cả về chủ quyền cả về kinh tế cho những quốc gia nhỏ bé, ít vốn hơn bởi lẽ "thỏa thuận tạm thời" sẽ thành "thỏa thuận vĩnh viễn" và "lợi thế" bao giờ cũng thuộc về kẻ mạnh.
Ông đánh giá thế nào về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc sau sự kiện này?
Tôi cho rằng sau sự kiện 1/5/2014 lần này, dù muốn hay không quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc tất yếu đã chuyển sang một giai đoạn mới khác hẳn 23 năm trước kể từ khi hai nước bình thường hóa quan hệ.
Phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ngày 22/5/2014 tại Philippines đã làm nức lòng đồng bào cả nước: "Việt Nam kiên quyết bảo vệ chủ quyền và lợi ích chính đáng của mình bởi vì chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển đảo là thiêng liêng. Việt Nam luôn mong muốn có hòa bình, hữu nghị nhưng phải trên cơ sở bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ".
Xin hỏi ông câu cuối cùng, nếu Trung Quốc vẫn tiếp tục lấn tới xâm phạm vùng biển Việt Nam, cố tình gây hấn. Tình hình khi đó sẽ ra sao?
Các lãnh đạọ các cấp Việt Nam đã nói rõ, Việt Nam yêu cầu Trung Quốc phải rút giàn khoan Hải Dương 981 ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam, giải quyết mọi vấn đề tồn tại giữa hai nước bằng biện pháp hòa bình.
Xin cảm ơn ông!
Hoàng Hường(thực hiện)
Nguồn: http://vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/181425/gian-khoan-lam-bien-doi-quan-he-viet---trung.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét