Thứ Hai, 11 tháng 1, 2010

Tri thuc tre cua ta nhieu nguoi gioi

Trí thức trẻ của ta
có nhiều người giỏi


Đã có nhiều lời khen đối với một bài viết mới đây của Giáp Văn Dương, bài “Thoát thân luận”.
Bằng cách khéo nêu bài học phát triển thành công khi “thoát Á” của người Nhật cuối thế kỷ 19, tác giả cho rằng Việt Nam bây giờ chưa cần tính thoát khỏi ai, Á hay Âu, hoặc cụ thể là thoát một nước như Nhật, Mỹ để phát triển mà là hãy thoát ra khỏi cái bóng của chính mình.
Bằng cách lập luận và nêu một số chứng cứ, tác giả Giáp Văn Dương nói người Việt ta cần biết vượt thoát ra những trói buộc rất vô hình vô ảnh, rũ bỏ các thói tật đang cản trở bước tiến của mình đã là một bước quan trọng, không chừng là quan trọng bậc nhất với người Việt Nam chúng ta hiện nay.
Đó có thể coi là một quan niệm, một cách nhìn độc đáo về thực trạng tinh thần của đất nước khiến chúng ta phải suy nghĩ. Đáng chú ý là người viết ra những điều ấy thuộc thế hệ 7x, một công dân Việt còn rất trẻ từng học đại học ở trong nước, rồi sau đó đi học nước ngoài và giờ đây anh đang làm việc tại một trường đại học bên Tây Âu.
Theo dõi lâu nay, tôi còn biết anh Giáp Văn Dương đã có nhiều bài viết khác được công bố ở trong nước, một số khác trên mạng cá nhân của anh, đều cũng mang được những ý tưởng hay và thái độ góp ý xây dựng tương tự.
Bài Thoát thân luận mới xuất hiện vài hôm trước trên VietnamNet. Đọc xong thấy thú vị nên vội chuyển cho “ông bạn già” Trần Nhương cùng xem (chủ trang trannhuong.com). Ông bạn tôi đọc và reply thư lại là “bài rất được”. Trang của ông Nhương có nhiều bài hay, gọi vui là những bài “đỉnh”, nên ông nói rất được như thế là đã đánh giá rất cao.
Vì thấy bài được một tờ báo điện tử chính thức “lề phải” của ta đã đăng tải, tôi nháy máy và thư email chuyện này tới mấy ông bạn thân. Cũng là một cách chia sẻ thông tin và các ý tưởng hay trong bạn bè đồng nghiệp chúng tôi.
Nhưng tôi gặp ngay nhiều thông tin phản hồi, đại thể đều nói bài cũng “đường được thôi”, chứ có gì đâu mà bài hay quá như tôi quá lời!
Thấy hơi lạ, vì lâu nay cách đánh của chúng tôi về các tác phẩm báo chí thường gần gặn với nhau. Chả lẽ bây giờ lại thay đổi đột ngột đến thế chăng? Nên tôi trao đổi lại ngay với các ông bạn thì mới vỡ lẽ. Do các bạn ấy truy cập vào VietnamNet như tôi giới thiệu, bài đó đã bị lược đi khá nhiều. Không hiểu sao lại rơi vào những ý được coi là hay nhất của bài.
Tôi vào lại VietnamNet trưa nay, thấy đúng là tòa soạn tờ báo này đã sửa lại và cắt đi nhiều dòng như vậy.
Để các bạn của tôi theo dõi lại câu chuyện đó, tôi post lên dưới đây bài của Giáp Văn Dương để mọi người đọc lại. Và có điều kiện so sánh điều tôi nói và tự đi đến các kết luận.
Chỉ có điều nhân dịp này, tôi gửi thêm đến mấy ông bạn mình “ít dòng về tác giả Giáp Văn Dương” mà tôi biết được để các bạn tôi tham khảo thêm về con người, về lớp trí thức trẻ của đất nước.
Tiến sĩ Giáp Văn Dương tốt nghiệp Đại học Bách khoa Hà Nội ngành Hóa Dầu năm 1999;
Thạc sĩ Giáp Văn Dương tốt nghiệp đại học Bách khoa Hà Nội ngành Hóa Dầu năm 1999;
Thạc sĩ Đại học Quốc gia Chonbuk (Hàn Quốc) ngành Công nghệ Hóa học năm 2002;
Tiến sĩ Đại học Công nghệ Vienna ngành Vật lý kỹ thuật (Áo) năm 2006. Hiện tại anh
làm việc tại Đại học Livepool, Anh.
Nếu đọc lại bài viết và các điều tôi viết ra đây nhân việc này, các bạn của tôi thống nhất lại rằng, bài viết của anh Giáp Văn Dương (là bài nguyên văn) đúng là một bài viết có nhiều ý tưởng hay thì tôi muốn nói thêm vài câu nữa.
Các bạn trẻ của chúng ta hiện nay khi được đào tạo cơ bản tốt, một số bạn lại có điều kiện du học ở những quốc gia có nền giáo dục tiên tiến hiện đại, rất nhiều khả năng sẽ trưởng thành lên rất nhanh.
Nó tạo đà để các bạn ấy có thể trở nên lớp trí thức trẻ mới, mang được trong đầu óc mình một thế giới quan phóng khoáng của những công dân toàn cầu. Một khi lòng yêu nước thương nòi sưởi nóng tâm can, trong các bạn lại có một nhân sinh quan đúng đắn và tiến bộ vì đất nước Việt, chắc chắn các bạn ấy sẽ trở thành một lực lượng mạnh để cùng toàn dân ta dựng xây xã hội Việt Nam tốt đẹp trong tương lai gần.
Những người trẻ tuổi như thế, họ vừa có học vấn vững chắc vừa mang tâm hồn dân tộc Việt xem ra không hiếm trong xã hội ta. Họ có mặt ở trong nước hay đang ở nước ngoài, nhưng tất cả đều là người Việt Nam, là công dân Việt Nam.
Xã hội ta thậ̣t sự trông cậy nơi lớp người này. Điều ấy đáng kỳ vọng làm sao...

Nguyễn Vĩnh
-----------------

Dưới đây là bài của Giáp Văn Dương:
(Chú ý bài của Giáp Văn Dương đăng trên VNNet lúc đầu nguyên nhưng ít lâu sau bị cắt đi ở những dòng chữ bôi đỏ):

Thoát Thân Luận
Giáp Văn Dương

Ngày 16 tháng 3 năm 1885, tờ Thời Sự Tân Báo của Nhật Bản cho đăng bài “Thoát Á Luận” của Fukuzawa Yukichi (1835-1901). Bài báo cổ vũ phong trào Minh Trị Duy Tân và chủ trương cải cách văn hóa Nhật Bản để phát triển kịp các nước phương Tây.
Nội dung chính của bài luận nổi tiếng này, cũng là chủ trương của Fukuzawa Yukichi, được tóm gọn trong hai chữ “Thoát Á”. Nghĩa là thoát khỏi vòng kiềm tỏa của nền văn hóa tiểu nông, cổ hủ lạc hậu, nặng về hình thức giả tạo bên ngoài của các nước châu Á mà Trung Quốc là điển hình, để học theo nền văn minh phương Tây và hội nhập vào thế giới bên ngoài.
Mục đích của chủ trương Thoát Á là giữ độc lập cho nước Nhật và giúp nước này phát triển theo kịp các nước phương Tây đương thời.
Chính nhờ chủ trương này, cộng với sự triển khai thành công của phong trào Duy Tân, nước Nhật đã hình thành được một hệ thống các thang giá trị mới và hội nhập được với bên ngoài, giúp cho nước Nhật không chỉ giữ được độc lập mà còn trở thành một cường quốc về kinh tế, văn hóa và khoa học kĩ thuật sau này.
Đến nay, bài Thoát Á Luận vẫn còn nguyên giá trị tham khảo cho những nước đang phát triển như Việt Nam, đến mức có nhiều người chủ trương: muốn phát triển, Việt Nam cũng cần phải làm một cuộc Thoát Á như Nhật Bản đã từng làm.
Nhưng như vậy có thực sự khôn ngoan, khi châu Á đang trỗi dậy mạnh mẽ, và thế kỉ 21 được cho là thế kỉ của châu Á? Và Việt Nam có thực sự cần thiết phải học lại từ đầu bài học của nước Nhật 125 năm về trước?
Muốn trả lời câu hỏi này, phải tìm xem những cản trở lớn nhất cho sự phát triển của Việt Nam hiện thời là gì?
Quan sát sẽ thấy đó là sức ì văn hóa và tâm lý tự mãn, không muốn thay đổi, thậm chí lảng tránh thay đổi trong một thế giới đang biến đổi không ngừng.
Những giáo điều cũ kĩ, những mô hình và luận thuyết lạc hậu, tuy đã thoái hóa trở thành hình thức và giả tạo, nhưng lại kịp trở thành những thang giá trị lưu hành trong xã hội.
Chúng không chỉ là những rào cản đơn thuần, mà thực sự trở thành những gông cùm, tuy vô hình và được che đậy bằng những mỹ từ, nhưng lại kìm kẹp và trói chặt sự phát triển.
Chúng trở thành những bẫy ngôn ngữ, bẫy giá trị, bẫy thành tích, bẫy hành chính... mà mỗi người, thậm chí cả dân tộc, sa vào và tốn hàng chục năm loay hoay không thoát ra được.
Vì thế, muốn phát triển, không còn cách nào khác là phải chỉ rõ mặt, gọi đúng tên và tìm cách thoát khỏi những gông cùm và bẫy vô hình này.
Chúng là gì?
-Là sự nhạo báng những giá trị phổ quát như Chân-Thiện-Mỹ: dối trá tràn lan; tin trộm cắp giết người hãm hiếp nhan nhản trên mặt báo hàng ngày; tranh giành, cướp, giật hỗn loạn sau mỗi lễ hội hoa...
-Là những giáo điều xa lạ, nhập khẩu từ bên ngoài bằng cách này hay cách khác, do chủ ý của con người hay ngẫu nhiên của lịch sử, làm biến dạng văn hóa và tư tưởng Việt.
-Là những thang giá trị lạc hậu, phản tiến bộ nhưng vẫn được phép, thậm chí dung túng để tồn tại, cản trở hoặc chặn đứng sự ra đời của những thang giá trị mới.
-Là những chỉ tiêu duy ý chí, lửng lơ ở trên trời nhưng lại bắt cả xã hội phải vắt sức chạy theo.
-Là bệnh thành tích, sẵn sàng đánh đổi tất cả, thậm chí phẩm giá con người, chỉ để làm đẹp các con số.
-Là quan liêu trì trệ, không quản được thì cấm, trói tay trói chân tất cả mọi người.
-Là những dự án treo, kế hoạch treo lãng phí hàng chục năm nguồn lực.
-Là văn hóa tiểu nông, tư duy nhỏ mọn, địa phương cục bộ, nhiệm kì.
-Là sự xuống cấp đạo đức, vô cảm trước cái xấu và cái ác.
-Là niềm tin đang bị xói mòn và vỡ ra từng mảng.
-Là im lặng đến rợn người.
-Là giả dối.
-V.v...


Chúng nhan nhản khắp mọi nơi, mọi cấp bậc, mọi mặt của đời sống. Phải gỡ bỏ chúng, thoát khỏi chúng trước hết.
Vì thế, thay vì tính chuyện Thoát Á hay Thoát Âu, Thoát Mỹ, hãy tính chuyện thoát khỏi những những gông cùm kìm kẹp và những thứ xấu xa phản tiến bộ đang nằm trong chính bản thân mình này trước hết. Nghĩa là phải vượt lên bản thân mình, tổ chức lại bản thân mình, thay đổi những thang giá trị đã bị lịch sử chứng mình là lạc hậu để hình thành nên những thang giá trị mới, trong một hình hài mới. Nếu không, những gông cùm kìm kẹp phản tiến bộ này không chỉ cản trở sự phát triển, mà còn trực tiếp đẩy đất nước đến đến bờ tụt hậu, suy vong do sập phải những bẫy ngôn ngữ, bẫy giá trị, bẫy thành tích, bẫy hành chính... do chúng tạo ra.
Chủ trương này có thể gọi bằng một tên ngắn gọn: “Thoát Thân”, với hàm nghĩa: vượt lên bản thân mình, thoát khỏi những thang giá trị, những tư tưởng lạc hậu đang nằm trong chính bản thân mình để tránh sa lầy vào những bẫy vô hình do chúng tạo ra, từ đó hình thành những thang giá trị mới, tư tưởng mới, tiến bộ, hiện đại, mở đường cho phát triển.
Chủ trương thoát thân và thoát thân liên tục sẽ giúp gạt bỏ những cản trở nội tại để đổi mới và sáng tạo không ngừng. Suy cho cùng, phát triển chỉ đạt được từ đổi mới và sáng tạo. Và những cản trở đáng kể nhất cho sự đổi mới và sáng tạo là những cản trở nội tại, nằm ngay trong chính bản thân mình.
Chỉ có như thế, năng lực mọi mặt của đất nước mới được giải phóng. Đất nước mới có thể đương đầu và thích nghi được với một thế giới đầy biến động và thay đổi từng ngày, và quan trọng hơn, không sa vào những bẫy vô hình, do sự vô tình hay cố ý của con người, hoặc ngẫu nhiên của lịch sử tạo ra.
Cho nên, thay vì tính chuyện Thoát Á, Thoát Âu, Thoát Mỹ..., hãy tính chuyện Thoát Thân trước hết.

Giáp Văn Dương
----------------------------------

Tham khảo một bài khác của Giáp Văn Dương (lấy trên blog cá nhân của tác giả, và bài này có đăng trên VNNet):

Thứ hai, ngày 04 tháng một năm 2010

Tư duy định hình, định vị đất nước

(Tác giả chú thích: Bản thảo bài đăng trên Tuần Việt Nam ngày hôm nay, 04/01/2010, lưu lại đây làm tư liệu).
Năm 2010 là năm mở đầu một thập kỉ mới, có ý nghĩa quan trọng sống còn đối với sự phát triển Việt Nam. Vì thế, cần có những tư duy mới để định hình và định vị một nước Việt Nam mới.
Nguời ta thường tìm cách định hình đất nước bằng một hình ảnh cụ thể thông qua hình dạng biên giới của nước đó. Ví dụ, Việt Nam hình chữ S, nước Ý hình chiếc ủng, nước Anh hình con thỏ. Nhưng ít ai để ý rằng, cái thực sự định hình một đất nước chính là tư duy của đất nước đó.
Người ta cũng thường định vị một đất nước bằng tọa độ địa lý của nước đó. Nhưng cũng ít ai để ý, trên trường quốc tế, cái định vị một đất nước cũng chính là tư duy của đất nước đó.
Cò nhớ hơn 700 năm trước, khi sơn hà nguy biến trước họa xâm lăng của quân Nguyên Mông đến từ phương Bắc, tư duy quyết chiến để bảo vệ đất nước của tiền nhân - hội tụ trong tinh thần Hội nghị Diên Hồng - và lãnh đạo đất nước - kết tinh trong câu nói nổi tiếng của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn: "Nếu bệ hạ muốn hàng, xin hãy chém đầu thần trước" đã giúp cho nước Việt ta tránh họa giày xéo bởi vó ngựa Nguyên Mông. Không những đất đai của tổ tông được bảo toàn, mà nòi giống cũng không bị đồng hóa.
Thế mới biết, một đất nước có hình dáng hiên ngang hay khom lưng qu gối là do chính tư duy của đất nước đó quyết định.
Lịch sử vệ quốc đã chứng kiến nhiều lần Việt Nam phải đương đầu với những kẻ thù to lớn và mạnh hơn mình gấp bội. Nhưng kết cục, chính họ mới là kẻ thất bại trước tư duy “quyết chiến”, “thà chết chứ không chịu làm nô lệ” của người Việt.
Thế mới biết, một đất nước mạnh hay yếu cũng do tư duy của đất nước đó quyết định.
Trên thế giới, có những nước được ưu đãi tài nguyên phong phú, khí hậu ấm áp, nhưng vẫn sa vào cảnh đói kém, lạc hậu, nội chiến triền miên, đẩy đất nước đến bờ suy vong. Nguyên nhân chính cũng là do tư duy vơ vét, xâu xé lẫn nhau của chính người dân và những người tự xưng là lãnh đạo.
Lại có những nước tuy đã độc lập, nhưng dân chúng phải làm thuê ngay trên đất nước của mình, hoặc coi việc lang thang làm thuê kiếm sống xứ người là một điều vinh hạnh. Không ai khác, chính tư duy làm thuê đã biến họ thành những kẻ làm thuê.
Thế mới biết, vị trí của một đất nước trong cuộc đua tranh phát triển và trên trường quốc tế do chính tư duy của đất nước đó quyết định.
Một đất nước hiên ngang khi có một tư duy hiên ngang khí khái dẫn dắt. Một đất nước mạnh mẽ khi có một tư duy mạnh mẽ, sáng tạo dẫn dắt. Muốn thế, tư duy của đất nước về bản thân mình, về con đường phát triển, về thế giới bên ngoài phải được bồi đắp và đổi mới không ngừng.
Tư duy dẫn dắt đôi chân, thúc đẩy đôi chân bước tới tương lai. Nhưng cũng chính tư duy kéo ta lùi về quá khứ, ngủ quên trong quá khứ, dù là quá khứ huy hoàng.
Tư duy mới sẽ mở ra những con đường mới. Tư duy lớn sẽ mở ra những con đường lớn - những đại lộ cho đất nước tiến lên.
Nói cách khác, phải có một hạ tầng tưu duy vững chắc làm nền tảng nâng đỡ và dẫn dắt phát triển. Tư duy của mọi cá nhân, nhất là của tầng lớp trí thức, chuyên gia, phải được giải phóng triệt để, tạo nền cho công cuộc phát triển của đất nước.
Bước sang một thập kỉ mới, Việt Nam đang có trong tay thế và lực mới, mạnh mẽ hơn so với những gì đã có trong quá khứ. Nhưng Việt Nam cũng phải đương đầu với những thách thức mới cả từ bên trong lẫn bên ngoài, mà nhiều trong số đó có thể dẫn đến sự an nguy của đất nước. Bất cứ người Việt Nam nào cũng có thể chỉ ra hai trong số các nguy cơ đó: nội xâm – tham nhũng và ngoại xâm - tranh chấp chủ quyền biển đảo.
Việt Nam cũng đang tiến dần thành nước có thu nhập trung bình, đây là điều đáng khích lệ. Nhưng Việt Nam có thoát được cái “bẫy thu nhập trung bình” để trở thành một nước phát triển, dân chủ, công bằng, văn minh hay không là do chính tư duy của người dân và lãnh đạo Việt Nam quyết định.
Trong lịch sử, tư duy “quyết chiến” để bảo vệ tổ quốc đã giúp Việt Nam không phải khom lưng quỳ gối trước kẻ thù thì ngày nay, chỉ có tư duy “quyết phát triển”: phát triển để ổn định, phát triển để sánh vai các cường quốc năm châu mới có thể đưa Việt Nam thoát khỏi nghèo nàn, tụt hậu và “bẫy thu nhập trung bình”.
Sang thập kỉ mới, thập kỉ có tầm quan trọng sống còn trong việc quyết định Việt Nam có vượt qua được “bẫy phát triển” hay không, xã hội có giữ được sự bền vững thực sự hay không, độc lập chủ quyền có được bảo toàn hay không, phụ thuộc chủ yếu vào việc tư duy quản lý và điều hành đất nước có được thay đổi một cách thích hợp hay không.
Muốn Việt Nam có một diện mạo mới, thế đứng và vị trí mới trong thập kỉ mới - thập kỉ bản lề này, thì trước hết là tư duy của lãnh đạo và sau đó là tư duy của người dân Việt Nam cần phải thay đổi.
Vì một lẽ đơn giản: tư duy định hình và định vị đất nước.

Giáp Văn Dương


Khi Trung Quốc nói ngoại giao về vấn đề Biển Đông

Khi Trung Quốc nói ngoại giao
về vấn đề Biển Đông


Tại một cuộc họp báo ngày 6/1/2010 ở Hà Nội, ông Đại sứ Trung Quốc đã trình bày và nhận định về mối quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong nhiều thập kỷ qua, sau đó đã trả lời các phóng viên Việt Nam về các vấn đề liên quan đến quan hệ hai nước đặc biệt là cuộc tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông cũng như cách thức giải quyết vấn đề đó nên như thế nào trong tình hình hiện nay.
Cuộc họp báo, theo Đại sứ quán Trung Quốc cho biết trước đó là một trong những hoạt động nằm trong tiến trình tiến tới năm 2010, được gọi là Năm Hữu nghị Việt - Trung mà lãnh đạo cấp cao hai nước đã trù liệu.
Thấy những vấn đề mà ông Đại sứ Trung Quốc nêu ra lần này là hết sức quan trọng ở khía cạnh quan hệ hai nước. Ông đại sứ cũng không né tránh nói lên những bất đồng trong vấn đề Biển Đông giữa hai nước khi đề cập tới các câu hỏi của phóng viên ta nêu.
Nếu chỉ theo sát từng câu chữ ông đại sứ phát ra, thì đại thể chúng ta vẫn thấy chưa có điều gì là nổi bật, là mới so với đường lối và quan điểm công khai mà CHND Trung Hoa lâu nay vẫn chính thức truyền đi từ thủ đô Bắc Kinh về cả quan hệ Trung - Việt và các vấn đề biển đảo liên quan đến hai nước.
Duy chỉ có một ý mới (hoặc với bản thân tôi hiểu là thế và cũng chỉ biết đến như thế) là ông nói với đại ý: TQ khuyên VN chúng ta nên chờ đợi các điều kiện chín mùi hãy tính đến chuyện giải quyết. Còn hiện tại quan hệ hai nước đang tốt đẹp, hãy ưu tiên cho hợp tác với nhau, cụ thể hai nước cứ theo tinh thần hữu nghị mà tiến hành công việc quan hệ với nhau như bình thường lâu nay là tốt, chắc chắn có lợi cho cả hai bên...
TQ nói thì nói như vậy, nhưng hành động thì chưa phải như vậy.
Không kể suốt từ hồi giữa năm đến gần đây, trên mặt biển có biết bao sự kiện tàu vũ trang Trung Quốc bắt bớ, giam hãm tàu thuyền và ngư dân ta đánh cá hợp pháp trên vùng biển của mình, chỉ kể mới hôm trước thôi, người phát ngôn bộ ngoại giao VN đã phải lên tiếng phản đối việc TQ chủ trương đẩy mạnh du lịch ra quần đảo Hoàng Sa.
Trở lại ý về quan hệ hai nước, nếu như các thông tin từ bài tường thuật của báo điện tử VNNet là chính xác (xin xem trong phần dưới đây), thì với tinh thần và lời văn của ông ĐS Trung Quốc nói, người VN ta có thể hiểu ý tứ như sau:
Một là TQ công nhận có những bất đồng trong vấn đề Biển Đông giữa hai nước, và vấn đề đó cần được giải quyết;
Tiếp đến là TQ "nhắn gửi" một ý tứ khuyên can (mà cũng đầy ý răn đe trong đó) là qua kinh nghiệm quan hệ hai nước từ 60 năm nay, là "hợp tác sẽ phát triển", còn "đấu tranh sẽ thất bại";
Cuối cùng, đây mới thật là cái chốt của sự nhắn gửi cho phia ta, là hãy chờ cho các điều kiện chín mùi thì hai nước sẽ bàn đến cách giải quyết vấn đề tranh chấp Biển Đông, khi ấy giải quyết mới tốt đẹp được.
Trong ba điều, hãy để ra một bên điều đầu tiên, còn hai điều sau đều có nhiều sự lạ. Mà lạ nhất là ở điều thứ ba này. Bởi tại đây, TQ nói là hãy đợi khi điều chín mùi (hãy đàm phán giải quyết mới tốt), nhưng lại tịnh không nói rõ điều kiện chín mùi là gì, hay là được hiểu nó là như thế nào. Và nhất là "bao giờ" thì xuất hiện điều kiện chín mùi kia? Tất cả đều như "kín bưng", chắc là để muốn hiểu thế nào thì hiểu...
Là người có những năm làm việc trong ngành ngoại giao, ở môt cơ quan làm công tác thông tin tuyên truyền đối ngoại, tôi cũng hiểu đôi phần về các chức phận, chức trách ngoại giao và ý tứ câu chữ phát đi từ các nhân vật có thân phận ngoại giao. Nó có những ý nghĩa có thể lúc này là rất cụ thể, lúc khác lại nhắm tới đích chung chung nào đó thôi, nhiều khi như càng mơ hồ thì càng đạt yêu cầu. Miễn sao bảo vệ cho được lợi ích quốc gia của mình. Âu đó cũng là nghệ thuật trong phép tắc ứng xử ngoại giao.
Ở trường hợp trên qua một phát ngôn cụ thể của vị có chức trách cấp đại sứ tại nước sở tại (có quan hệ trực tiếp với nhau) nên chúng ta càng phải dõi theo và phân tích một cách nghiêm túc và thận trọng nhất có thể.
Mặt khác tôi nghĩ, với phận sự trách nhiệm của một vị sứ thần, thì khi phát đi một ý như đã kể ở trên (tạm tóm tắt thành ba ý đã nêu), là ông đại sứ TQ đã bộc lộ rõ quan điểm chỉ đạo từ cấp cao hơn ông, tức cũng là làm hết chức trách của mình cho quyền lực ủy nhiệm từ trong nước sang.
Ở đây, chúng ta không thể đòi hỏi điều gì cao hơn thế, rõ hơn thế ở một cương vị như ông đại sứ đang có. Vì đây là vấn đề chỉ thị, vấn đề "khoanh lại" chỉ đến như thế. Nói khác đi tức là vấn đề mới "mở ra" đại thể là như vậy đấy, cấp trên - cấp lãnh đạo ở trong nước cho chủ trương đường lối là cái hướng như thế. Và nói được công khai đến một chừng mực, một mức độ như vậy.
Cho nên cái điều mà chúng ta cần phải tìm hiểu nhiều hơn - và cũng cần phải quan tâm hơn cả ở thời điểm hiện nay - là "cái ý tứ gì ẩn sau những động thái ngoại giao này" (qua ông đại sứ TQ phát biểu trên)?
Và sau hết thực chất những điều tiết lộ công khai như vậy có ý nghĩa như thế nào trong bối cảnh quốc tế, bối cảnh khu vực và bối cảnh quan hệ hai nước vào thời điểm lúc này mới là vấn đề hệ trọng bậc nhất.
Đương nhiên đây là một công việc lớn không nắm bắt được một cách dễ dàng. Cần có những thông tin, sự tìm hiểu và nghiên cứu một cách thật sự nghiêm túc mới tìm ra được cách tiếp cận và mới hé lộ những lời giải cho vấn đề vô cùng phức tạp này.
Dù sao một tín hiệu ngoại giao đã được đánh đi. Chắc chắn nó muốn tìm địa chỉ gửi tới và chờ đợi một sự hồi âm hoặc cách thức hồi đáp như thế nào đó của đối tượng mà nó muốn gửi đến.
Xin kính chuyển công việc "quốc gia đại sự" đó đến những cơ quan, tổ chức, con người có thẩm quyền, có trách nhiệm cao với đất nước này.
Còn với những công dân bình thường như chúng ta, cái tín hiệu ngoại giao đã đánh đi kia - nghĩ thế nào thì nghĩ - cũng không hẳn đã làm chúng ta hoàn toàn yên lòng. Tức là yên lòng yên tâm về mối quan hệ được trưng ra là khá tốt đẹp như ông đại sứ thường nêu ở Việt Nam khi có dịp, mà không khéo "ba ý toát lên" từ các câu trả lời lần họp báo này của ông đại sứ còn khiến chúng ta băn khoăn, lo lắng thêm là đằng khác.
Vì sao vậy? Đơn giản thôi, vì nó ẩn chứa các vấn đề tranh chấp Biển Đông còn vô cùng phức tạp, nước lớn đang có tranh chấp với ta quyết liệt nhất là Trung Quốc hình như vẫn chưa sẵn sàng, chưa tin cậy và thiện chí để giải quyết công việc này với chúng ta.
Nguyễn Vĩnh
Dưới đây là tin tổng hợp về cuộc họp báo kể trên của phóng viên VNNet:

--------------


Đại sứ Trung Quốc Tôn Quốc Tường :
Chờ điều kiện chín muồi
giải quyết tranh chấp biển Đông


Cập nhật lúc 16:07, Thứ Tư, 06/01/2010 (GMT+7)
,
- Tại buổi họp báo sáng 6/1 tại Hà Nội, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Trung Quốc tại Việt Nam Tôn Quốc Tường cho rằng giải pháp thiết thực hiện nay đó là tạm gác lại tranh chấp biển Đông, chờ điều kiện chín muồi giải quyết trong khi ưu tiên cho hoạt động phát triển kinh tế xã hội ở hai nước.

Đại sứ Tôn Quốc Tường. Ảnh: Trường Sơn
Chuẩn bị cho các hoạt động của Năm Hữu nghị Việt - Trung 2010, kỷ niệm 60 năm thiết lập quan hệ ngoại giao hai nước, Đại sứ Trung Quốc Tôn Quốc Tường trong buổi họp báo đã thông báo các sự kiện cũng như đánh giá về tiến trình hợp tác 60 năm Trung - Việt.
"Hợp tác sẽ phát triển, đấu tranh sẽ thất bại"
Việt Nam là một trong những nước đầu tiên thừa nhận nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Trung Quốc cũng là nước đầu tiên thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam Dân chủ cộng hòa.
Đại sứ Tôn Quốc Tường nói kinh nghiệm quý báu nhất rút ra trong tiến trình 60 năm quan hệ Trung - Việt đó là "hợp tác sẽ phát triển, đấu tranh sẽ thất bại".
"Là láng giềng, là đồng chí, anh em, hai nước có 100 lý do để hợp tác và không có một lý do nào làm hỏng quan hệ Trung - Việt. Đảng, Nhà nước và Chính phủ Trung Quốc coi trọng phát triển quan hệ với Việt Nam, đặt mối quan hệ hợp tác hữu nghị toàn diện giữa Trung - Việt ở vị trí quan trọng và trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc, không ngừng làm hết sức đóng góp cho sự nghiệp chung của hai bên", Đại sứ nhấn mạnh.
Theo Đại sứ Trung Quốc, năm 2009, quan hệ hai nước có nhiều thu hoạch. Hai nước đã trao đổi 167 đoàn thăm viếng, làm việc, trong đó cấp Thứ trưởng 108 đoàn. Đáng chú ý, trong bối cảnh kinh tế, khủng hoảng, quan hệ kinh tế, thương mại giữa hai nước vẫn duy trì đà tăng trưởng, phấn đầu đạt 25 tỷ USD vào năm 2010...
VietNamNet lược ghi phần hỏi đáp giữa Đại sứ và các phóng viên Việt Nam về các vấn đề quan hệ song phương :
Chờ điều kiện chín muồi giải quyết tranh chấp trên biển
Tuổi trẻ : Xin Đại sứ cho biết chủ trương giải quyết tranh chấp Biển Đông với Việt Nam?
Trung Quốc và Việt Nam là hai nước láng giềng anh em. Nhưng cũng giống như quan hệ của các nước khác, trong quan hệ song phương của chúng ta chắc chắn tồn tại một số vấn đề. Tôi thường nói với các đồng chí lãnh đạo cũng như các bạn Việt Nam rằng trong gia đình dù là vợ chồng cũng có khi cãi nhau. Đây là vấn đề giữa anh em chúng ta.
Làm thế nào giải quyết vấn đề đó cũng nêu ra thách thức to lớn đối với ý chí và thiện chí, trí tuệ và khả năng giải quyết vấn đề này. Nếu điều kiện chín muồi, hai bên giải quyết được vấn đề chắc chắn sẽ thúc đẩy phát triển quan hệ hai bên chúng ta. Nếu điều kiện chưa chín muồi, làm cản trở cho quan hệ hai nước thì điều cần phải làm và nên làm là gác lại vấn đề. Trong quan hệ hai nước còn có nhiều công việc cần cố gắng, nỗ lực, có nhiều hợp tác có thể tiến hành.
Trong khi phát triển quan hệ song phương và chờ đợi điều kiện chín muồi, hai bên có điều kiện giải quyết vấn đề này tốt hơn và sẽ đưa ra phương án giải quyết hợp lý hơn nữa. Quan hệ Trung - Việt có 3 vấn đề lịch sử để lại : phân định biên giới trên đất liền, phân định Vịnh Bắc Bộ và giải quyết vấn đề biên giới trên biển. Hai bên đã cố gắng giải quyết hai vấn đề trước và chỉ còn lại vấn đề Nam Hải (cách gọi Biển Đông của phía Trung Quốc - PV).
Khi hai bên đang đàm phán, giải quyết vấn đề biên giới trên đất liền, phóng viên Việt Nam hỏi tôi về đánh giá quá trình đàm phán giải quyết và tôi đã trả lời rằng giải quyết vấn đề biên giới đất liền có ý nghĩa quan trọng, không những tạo cơ sở cho vùng biên giới hai nước hòa bình, ổn định, phát triển và hợp tác, cũng như chứng minh với các nước trên thế giới rằng hai nước xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo thì không có vấn đề nào không thể giải quyết được.
Bây giờ quan hệ hai nước chỉ còn vấn đề trên biển. Chúng ta đã thiết lập cơ chế đàm phán vấn đề trên biển, thực hiện nhận thức chung của lãnh đạo cấp cao hai nước, thúc đẩy tiến trình đàm phán giải quyết vấn đề. Để giải quyết tranh chấp, hai bên cần xuất phát từ đại cục, toàn cục và lợi ích căn bản của nhân dân hai nước, tạm gác lại tranh chấp, không làm ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường, thuận lợi của quan hệ hai nước. Tôi nghĩ đây là cách làm phù hợp nhất.

Đại sứ Trung Quốc : Kinh nghiệm quý báu nhất rút ra trong tiến trình 60 năm quan hệ Trung - Việt đó là "hợp tác sẽ phát triển, đấu tranh sẽ thất bại". Ảnh: Trường Sơn
VietNamNet : Theo Đại sứ, đâu là những thuận lợi và khó khăn trong việc giải quyết vấn đề biên giới trên biển - vấn đề tồn đọng cuối cùng giữa hai nước?
Tôi nghĩ đây là vấn để nổi bật đang tồn tại trong quan hệ hai nước. Hai bên đã thiết lập cơ chế đàm phán và đang tiến hành thuận lợi. Về thuận lợi, hai nước đều là nước xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản lãnh đạo nên không lý do nào không thể giải quyết được vấn đề tồn tại.
Nhiệm vụ quan trọng, ưu tiên của hai nước bây giờ là tiến hành công cuộc đổi mới, cải cách, mở cửa, phát triển sự nghiệp xã hội chủ nghĩa, không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân. Hơn nữa, lãnh đạo cấp cao hai nước đã nhiều lần đạt được nhận thức chung hết sức quan trọng. Đó là không để cho vấn đề Nam Hải ảnh hưởng đến sự phát triển, ổn định lâu dài, bình thường của quan hệ hai nước.
Vấn đề nào cũng sẽ có mặt không thuận lợi. Vấn đề lãnh thổ là vấn đề phức tạp, khó khăn. Lập trường, quan điểm giữa hai bên khác nhau nhiều. Điều quan trọng nhất làm thế nào đối xử vấn đề tranh chấp, và những quan điểm khác nhau.
Lãnh đạo cấp cao Trung Quốc đã nêu ra một sáng kiến mang tính xây dựng đó là gác lại tranh chấp, cùng nhau khai thác. Ý nghĩa của nó là không nhắc đến vấn đề tranh chấp mà hai bên có thể tiến hành hoạt động phục vụ cho sự phát triển kinh tế xã hội của hai bên chúng ta. Bời vì đó là lợi ích hai bên cùng có lợi và cùng chia sẻ.
Trước khi vấn đề này có điều kiện giải quyết, sáng kiến đó có lẽ là con đường hiện thực, thiết thực mà hai bên có thể thực hiện. Chúng tôi đang cố gắng tiếp xúc với các cơ quan hữu quan của Việt Nam để thúc đẩy.
"Trung Quốc đã đối xử nhân đạo, trách nhiệm"
Tiền Phong : Ở Việt Nam có rất nhiều thế hệ quý trọng tình hữu nghị giữa Việt Nam với Trung Quốc, coi Trung Quốc như anh em. Và tôi biết họ là những người hết lòng vun đắp cho tình hữu nghị đó. Những gì xảy ra về tranh chấp biển Đông thời gian qua, là điều không tránh khỏi, nhưng cách ứng xử của Trung Quốc, chẳng hạn như trong vụ bắt giữ tàu thuyền và đối xử với ngư dân Việt Nam không thực sự đàn anh cho lắm. Điều đó làm đau lòng người muốn vun đắp cho tình hữu nghị hai nước. Xin Đại sứ cho vài lời bình luận?
Thông tin đăng trên báo chí có một số là sự thật, một số không phải là sự thật. Tôi phải nói rằng Trung Quốc luôn ứng xử những vấn đề như thế này rất có trách nhiệm. Khi phía Việt Nam nêu vấn đề, chúng tôi đã xác minh, kiểm tra ngay lập tức nhưng kết quả xác minh của chúng tôi lại khác với kết quả của phía bên Việt Nam.
Ví dụ có một số báo chí đưa tin phía Trung Quốc đã đối xử với ngư dân Việt Nam không nhân đạo. Về vấn đề này, chúng tôi đã xác minh, kiểm tra rất nghiêm túc nhưng kết quả cho thấy đó không phải sự thật. Ví như có lần Việt Nam đã can thiệp với Trung Quốc rằng Trung Quốc đã thu giữ những công cụ đánh bắt cá cũng như thủy sản đánh bắt của ngư dân Việt Nam. Chúng tôi xác minh thì cho thấy phía Trung Quốc chỉ đuổi tàu cá ra khỏi lãnh hải của Trung Quốc chứ không có hành vi tiếp xúc với ngư dân Việt Nam. Tôi cũng thắc mắc nếu không tiếp xúc làm sao thu giữ ngư cụ của ngư dân Việt Nam.
Khi tàu cá của Việt Nam đi tránh gió cập cảng tại những cảng không phải cảng tránh gió của Trung Quốc, chúng tôi đã đối xử nhân đạo, tạo điều kiện thuận lợi cho họ có thể cập cảng. Nhưng khi rời cảng, họ lại chỉ trích Trung Quốc đối xử không nhân đạo và làm đau lòng các cơ quan hữu trách của Trung Quốc.
Sau khi sự việc xảy ra, chúng tôi đã trao đổi riêng với các đồng chí Việt Nam. Chúng tôi cho rằng không nên đưa tin những việc xấu như thế này. Phóng viên Việt Nam kiểm tra lại, báo chí Trung Quốc ít đưa tin về tranh chấp trên biển, tranh chấp về nghề cá và chúng tôi luôn xuất phát từ đại cục, tuy rằng chúng tôi có lý nhưng chúng tôi thấy cũng không nên đưa tin.
"Chúng tôi đầy lòng tin"
Nhân Dân : Xin Đại sứ nêu những nét nổi bật quan hệ trong hai nước trong 60 năm qua?
Nói đến quan hệ Trung - Việt, mọi người thường nhắc đến câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh đó là "vừa là đồng chí vừa là anh em". Quan hệ Trung - Việt có một điều chung : chung chế độ và chung lý tưởng. Dù hai nước với diện tích đất nước, dân số, trình độ phát triển khác nhau cũng như trong 60 năm đã trải qua giai đoạn khó khăn nhưng đó chỉ là một giai đoạn khúc khỉu.
Tóm tắt lại quan hệ hai nước trong 60 năm, điều đầu tiên đó là hai nước đã tôn trọng, hiểu biết lẫn nhau. Thứ hai là bình đẳng cùng có lợi, tôn trọng lẫn nhau. Thứ 3 là xuất phát từ đại cục, cầu đồng, tồn vịnh. Tôi nghĩ đây là 3 điều kiện, cơ sở hết sức quan trọng trong phát triển quan hệ hai nước.
Một câu tóm tắt quan hệ hai nước đó là cần tăng cường sự hiểu biết chính trị để đảm bảo sự phát triển lâu dài của quan hệ song phương. Hai nước tiến tới quan hệ ngoại giao, trong lòng mọi người đang suy nghĩ chúng ta đã trải qua 60 năm thì 60 năm tiếp theo chúng ta sẽ như thế nào? Nếu có thể phát triển quan hệ trên những nguyên tắc tôi nêu, trong tương lai, quan hệ hai nước phát triển thuận lợi và tươi sáng. Chúng tôi hết sức đầy lòng tin.
Tiền Phong: Quan hệ cấp cao giữa hai nước có sự thỏa thuận hàng năm trao đổi viếng thăm cấp cao. Nhưng hai năm qua, lãnh đạo cấp cao Trung Quốc - Việt Nam viếng thăm nhau rất nhiều nhưng không thấy chuyến thăm của lãnh đạo cấp cao nhất Trung Quốc. Theo Đại sứ vì sao? Liệu năm 2010 có lãnh đạo cấp cao Trung Quốc nào sang thăm Việt Nam?
Tôi phải sửa lại cách nói của bạn. Trong hai năm qua, hai bên đã tiến hành trao đổi viếng thăm cấp cao. Vì trong năm 2009, lãnh đạo cấp cao trong hệ thống Đảng, Chính trị cũng như Quân đội đều đã sang thăm Việt Nam. 6 tháng đầu năm, Tổng tham mưu trưởng Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc đã sang thăm Việt Nam. Ủy viên Quốc vụ viện của Trung Quốc đã sang thăm Việt Nam. Có các đồng chí ủy viên Bộ Chính trị Trung Quốc cũng đã sang thăm.
Nếu chỉ nhắc đến các đồng chí lãnh đạo Tổng Bí Thư, Chủ tịch nước, Thủ tướng, tôi phải nói thẳng thắn rằng chương trình làm việc của lãnh đạo cấp cao hết sức bận rộn. Chúng tôi coi Việt Nam là anh em, sẵn sàng thúc đẩy quan hệ. Nếu điểm lại sẽ thấy những chuyến thăm cấp cao của Trung Quốc sang Việt Nam nhiều hơn so với chuyến thăm cấp cao của Trung Quốc sang các nước khác.
Chúng tôi nói vui rằng chúng tôi nợ rất nhiều các nước khác vì có một số nước trong 10 năm qua chưa có một đoàn cấp cao của Trung Quốc sang thăm. Chúng tôi phải trả nợ nhiều nước. Chúng tôi có chương trình bận rộn, coi Việt Nam là đồng chí, anh em nên chúng tôi phải trả nợ những đối tác khác trước.
Năm 2010, tôi xin hứa chắc chắn sẽ có lãnh đạo cấp cao nhất của Trung Quốc sang thăm Việt Nam.
VOV : Năm 2010, Việt Nam là Chủ tịch ASEAN. Vai trò mới của Việt Nam tác động như thế nào đến quan hệ hai nước cũng như quan hệ chung giữa Trung Quốc và ASEAN, nhất là trong bối cảnh từ 1/1/2010, Hiệp định Thương mại tự do Trung Quốc - ASEAN có hiệu lực?
Chúng tôi chúc mừng Việt Nam đảm nhiệm cương vị hết sức quan trọng là Chủ tịch ASEAN năm 2010 và hoàn toàn tin tưởng Việt Nam sẽ hoàn thành xuất sắc trọng trách này. Quan hệ Trung Quốc và ASEAN trải qua chặng đường 30 năm và đang phát triển hết sức thuận lợi. Từ 1/1/2010, Hiệp định Thương mại tự do Trung Quốc và ASEAN chính thức thành lập, tạo nên một khu vực thương mại tự do lớn nhất thế giới với 1,9 tỷ người, GDP đạt 65.000 tỷ USD, kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 4500 tỷ USD. Có thể nói đây là tin vui to lớn với các nước ASEAN và Trung Quốc.
Trên cơ sở đó sẽ thúc đẩy giao thương cũng như vận tải hàng hóa giữa các nước. Tuy nhiên vì là khu vực thương mại tự do do các nước đang phát triển hình thành, có nhiều hàng hóa của Trung Quốc và ASEAN giống nhau nên tạo ra thách thức lớn cho nhau. Nhưng thách thức này sẽ thúc đẩy các nước tiến hành điều chỉnh cơ cấu thành phần kinh tế ở các nước.
Cuộc khủng hoảng tài chính đã ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế mỗi nước, là thách thức lớn đối với phát triển kinh tế mỗi nước, nhưng là cơ hội dành cho phát triển thành phần kinh tế mới, thúc đẩy điều chỉnh, tái cơ cấu các thành phần kinh tế của Trung Quốc. Khu vực thương mại tự do Trung Quốc và ASEAN cũng tương tự, nên cần nắm bắt thời cơ thúc đẩy tiến trình tái cơ cấu các thành phần kinh tế trong nước, làm thế nào hàng hóa mỗi nước có sức cạnh tranh...
(Xuân Linh, PV Báo điện tử VNNet)


http://vietnamnet.vn/chinhtri/201001/Cho-dieu-kien-chin-muoi-giai-quyet-tranh-chap-bien-Dong-888092/

Cụ Lưu Văn Lợi và các trang viết về biên giới, biển đảo

Cụ Lưu Văn Lợi với những trang viết
về biên giới và biển đảo
Ở ta, người có nhiều công trình nghiên cứu và bài viết có giá trị về biên giới, cả đất liền và biển đảo, là cụ Lợi - cụ Lưu Văn Lợi.
Nếu ở thôn xóm, mấy năm nay cụ Lợi đã được tôn gọi là cụ Cửu, bởi cụ đã trên 90 tuổi. Tuổi tác vậy mà cụ vẫn còn làm việc trí óc được, phục thật.
Nhớ lại hồi tôi còn là một nhà báo tuổi đời trẻ có được "theo hầu" cây bút viết báo đối ngoại tài hoa là bác Vũ Cận, nên có đến nhà riêng của cụ Lợi đôi ba lần. Đã hơn ba chục năm đã qua kể từ những ngày ấy.
Đến nhà cụ lần đầu thấy ngạc nhiên luôn. Cụ Lợi làm đến chức trưởng ban biên giới chính phủ, trước đó từng làm thư ký tòa soạn báo Quân đội nhân dân, lại có thời gian làm trợ lý cho các ông Lê Đức Thọ và Xuân Thủy ở hội nghị Paris, rồi trợ lý bộ trưởng ngoại giao - nghĩa là những chức vụ to và danh giá cả - nhưng ông cụ vẫn vui lòng ở một căn hộ được cơ quan cấp trên gác phố Trần Hưng Đạo.
Tôi nhớ căn buồng nhỏ làm việc của cụ chất đầy sách vở và sát cạnh là chỗ nghỉ ngơi luôn. Cũng trong căn hộ này, người con trai - anh Lượng, một chuyên gia về khí tượng - cũng ở chung với cha. Tôi cũng có mối thân thuộc bạn bè với anh cùng với một nhóm ba bốn người khác. Họ đều được đào tạo từ Liên Xô về, những dịp tiếp xúc với họ tôi được nghe đôi ba câu chuyện về tính tình của cụ thân sinh anh Lượng. Nói chung đây là một nhân cách đầy khả kính.
Ấn tượng lớn nhất lúc ấy là được thấy một con người làm việc nghiêm túc. Lời ăn tiếng nói khiêm nhường thận trọng, dù sức hiểu biết của người nói ra những điều ấy là một con người rất uyên bác.
Sau này khi tôi làm việc ở báo Quốc Tế BNG, mỗi khi nhận được bài cụ Lợi gửi cho báo tôi lại cố sắp xếp đến nhà cụ hỏi thêm về bài viết.
Hơn ba thập kỷ qua đi nhưng ấy tượng về căn buồng làm việc và phong cách làm việc của cụ, bữa đó gặp lại tôi vẫn đinh ninh một cảm giác như ngày trước, thấy như không có điều gì thay đổi ở con người đáng kính đó.
Với con người uyên thâm về hiểu biết mà vẫn rất khiêm nhường phục thiện, khi cụ nghe do yêu cầu mới của tờ báo, trong một số báo cụ thể, trong thời điểm nhất định có yêu cầu về đấu tranh đối ngoại nào đó, hoặc do khuôn khổ bài mục, thường hầu hết ý kiến đề nghị của ban biên tập chúng tôi được cụ Lợi vui lòng tiếp nhận.
Nên phải nói, rất nhiều thế hệ biên tập viên ở tòa soạn báo Quốc Tế chúng tôi rất biết ơn sự hợp tác của cụ Lưu Văn Lợi.
Được tin có cuốn sách về biển đảo mới xuất bản của cụ Lưu Văn Lợi, tôi xin phép tải về bài giới thiệu dưới đây, cóp từ trang trannhuong.com
(Hôm trước đã post bài về biển đảo, nay tiếp tục chủ đề này để thu thập thêm tư liệu cho blog).


NV
 

Nguồn: http://trannhuong.com/news_detail/3394/CỰU-TRƯỞNG-BAN-BIÊN-GIỚI-LƯU-VĂN-LỢI-NÓI-VỀ-BỨC-CÔNG-HÀM-CỦA-TT-PHẠM-VĂN-ĐỒNG

----

CỰU TRƯỞNG BAN BIÊN GIỚI LƯU VĂN LỢI NÓI VỀ BỨC CÔNG HÀM CỦA TT PHẠM VĂN ĐỒNG 
Trich sách NXB CAND


CUỘC TRANH CHẤP VIỆT-TRUNG VỀ HAI QUẦN ĐẢO HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA

(Trích, phần nói về bức công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng)
 

LỜI NÓI ĐẦU

Từ Hội nghị các ngoại trưởng Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) tại Manila tháng 7 năm 1992 đến Hội nghị SEAPOL ba khu vực tại Bangkok tháng 12 năm 1994, các đại biểu đều lo lắng về tình hình an ninh của Biển Đông và trao đổi ý kiến về sự hợp tác trong khu vực.
Trong khu vực này có hai vấn đề lớn nổi lên: vấn đề tranh chấp chủ quyền lãnh thổ và vấn đề hợp tác trước hết là về khai thác tài nguyên. Các đại biểu đều cho rằng nếu không giải quyết được vấn đề chủ quyền thì khó mà giải quyết được vấn đề hợp tác khai thác tài nguyên. Trong vấn đề tranh chấp chủ quyền, phức tạp là vấn đề hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Ba năm lại đây, cùng với việc giải quyết vấn đề Campuchia, việc bình thường hoá quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc là một nhân tố ổn định quan trọng đối với Đông Nam châu Á. Việt Nam không chỉ mở rộng quan hệ với các thành viên của ASEAN mà Việt Nam đã trở thành quan sát viên của ASEAN, vấn đề trở thành thành viên chính thức của ASEAN chỉ còn là vấn đề thời gian, vì điều kiện đã chín muồi.
Giữa Việt Nam và Trung Quốc quan hệ các mặt đang phát triển, đang còn những cố gắng từ cả hai phía để giảm bớt bất đồng, từng bước giải quyết các tranh chấp giữa hai nước. Vì lợi ích của hai nước, nên và cần tính việc giải quyết cuộc tranh chấp về hai quần đảo Hoàng Sa và trường Sa.
Trong bối cảnh thuận lợi đó, Nhà xuất bản CÔNG AN NHÂN DÂN trân trọng giới thiệu với bạn đọc cuốn “CUỘC TRANH CHẤP VIỆT-TRUNG VỀ HAI QUẦN ĐẢO HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA” của ông Lưu Văn Lợi, một nhà nghiêm cứu quen thuộc. Trên cơ sở những tài liệu lịch sử vững chắc, xuất phát từ những tiêu chuẩn được chấp nhận của luật pháp quốc tế, tác giả đã bình tĩnh, khách quan phân tích lập trường của cả hai phía Việt Nam và Trung Quốc để đánh giá khả năng, phương hướng giải quyết vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa.
Chúng tôi hy vọng cuốn sách sẽ góp phần làm sáng tỏ thêm vấn đề Hoàng Sa vì lợi ích của hai nước Việt-Trung, vì hoà bình, ổn định và phát triển ở Đông Nam Á.

NHÀ XUẤT BẢN CÔNG AN NHÂN DÂN, 1995
 

LƯU VĂN LỢI

Nhà báo, luật gia, nhà ngoại giao:
- Chủ bút báo tiếng Pháp LA REPUBLIQUE năm 1945, tờ báo tiếng Pháp LE PEUPLE năm 1946 đều xuất bản tại Hà Nội – Thư ký toà soạn tờ QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN, tờ báo của QĐNDVN (1951)
- Uỷ viên thường vụ Hội Luật gia Việt Nam (1980-1985)
- Thành viên Đoàn đại biểu Bộ Tổng tư lệnh QĐNDVN gặp đoàn đại biểu Bộ Tư lệnh Quân Đội viễn chinh Pháp tại Hội nghị Trung Giã năm 1954.
Trợ lý đồng chí Lê Đức Thọ và đồng chí Xuân Thuỷ trong các cuộc thương lượng bí mật với ông Henry Kissinger, cố vấn an ninh của Nhà trắng (1972-1973).
Trợ lý Bộ trưởng Bộ Ngoại giao.
Phó trưởng đoàn đại biểu quân sự Chính phủ Việt Nam dân chủ Cộng hoà tại Hội nghị liên hợp bốn bên tại Sài Gòn năm 1973.
Trưởng ban Biên giới của Hội đồng Bộ trưởng (1978-1989).

CHƯƠNG V

3. Họ nói Việt Nam đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với Tây Sa và Nam Sa.
Bắc Kinh tuyên truyền rằng Việt Nam đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với Tây Sa nhưng sau lại thay đổi thái độ. Họ đã đưa ra bằng chứng là bức thư của Thủ tướng Phạn Văn Đồng gửi Thủ tướng Chu Ân Lai về vấn đề lãnh hải của Trung Quốc, tuyên bố của Chính phủ Việt Nam dân chủ Cộng hoà năm 1965 nói rằng Tây Sa là của Trung Quốc.
Trước hết nói về bức thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng.
Mọi người chắc chưa quên rằng khi đó là thời kỳ của chiến tranh lạnh, đế quốc Mỹ đang can thiệp vào miền Nam Việt Nam để ngăn chặn chủ nghĩa xã hội. Tuy bị thất bại trong chiến tranh Triều Tiên, những phần tử diều hâu trong giới quân sự Mỹ vẫn hò hét chiến tranh chống Trung Quốc, hạm đội của Mỹ hoạt động trong eo biển Đài Loan. Trung Quốc cũng phải phòng ngừa một hành động phiêu lưu của hạm đội Mỹ, nhất là từ khi quân Trung Quốc pháo kích liên tục Kim Môn (quémoy) Mã Tổ (matsu). Trong bối cảnh đó, ngày 4-9-1958 Trung Quốc công bố quy định lãnh hải của mình rộng 12 hải lý.
Ngày 14-9-1958, Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi cho Thủ tướng Chu Ân Lai bức công hàm sau đây:
“Thưa đồng chí Tổng lý”
Chúng tôi xin trân trọng báo tin để đồng chí Tổng lý rõ: Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4-9-1958 của Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc.
Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hai lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa trên mặt biển.
Chúng tôi xin gửi đồng chí Tổng lý lời chào trân trọng”.
Ở đây thủ tướng Phạm Văn Đồng không định đề cập đến vấn đề pháp lý, vấn đề lãnh thổ và chủ quyền, càng không định nói về Hoàng Sa, Trường Sa, mà chỉ nghĩ đến một điều: sự hung hăng của đế quốc Mỹ và hoạt động của hạm đội 7 trong eo biển Đài Loan đe doạ Trung Quốc, do đó thấy cần ủng hộ càng sớm càng tốt việc quy định lãnh hải rộng 12 hải lý để cản tay đế quốc Mỹ.
Những người Việt Nam và Trung Quốc trung thực đã sống những năm 50, 60 đều còn nhớ mối quan hệ giữa nhân dân hai nước “vừa là đồng chí vừa là anh em”, trong ý nghĩ “Trung-Việt nhất gia”, do đó coi bản công hàm đó là biểu hiện của tình hữu nghị Trung-Việt. Nếu ai cho đó là sự công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Tây Sa thì là đi quá nội dung và mục đích của công hàm, đồng thời phủ nhận tình cảm thiêng liêng trong lòng người Việt Nam, người Trung Quốc thời bấy giờ.
Việc nói Tây Sa là của Trung Quốc trong bản tuyên bố của Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà năm 1965 về việc Mỹ quy định khu vực chiến đấu của quân Mỹ hay câu nói của thứ trưởng ngoại giao Ung Văn Khiêm về Tây Sa là có thật, nhưng đó không phải là lời tuyên bố từ bỏ chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa, càng không phải là từ bỏ chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa. Cần đặt các sự kiện đó trong bối cảnh lịch sử của nó, vào thời gian những năm 1956 đến 1965 khi nhân dân Việt Nam phải đấu tranh chống sự can thiệp xâm lược của đế quốc Mỹ ở cả hai miền.
Tình hình nước Việt Nam khi đó.
Về mặt hành chính, theo Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 Việt Nam tạm chia làm hai miền với vĩ tuyến 17 làm giới tuyến quân sự tạm thời trong khi chờ đợi thống nhất. Miền Nam Việt Nam, Chính phủ Việt Nam cộng hoà đã tiếp quản hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ năm 1956 khi Pháp rút khỏi Đông Dương và từ đó đã tổ chức hai quần đảo về mặt hành chính, tổ chức khảo sát và khai thác tài nguyên về biển đồng thời kiên quyết bảo vệ hai quần đảo chống lại những hành động và ý đồ xâm chiếm của Bắc Kinh cũng như các nước khác. Chính phủ Việt Nam cộng hoà cũng bảo vệ lợi ích và chủ quyền của mình tại các hội nghị và tổ chức quốc tế. Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam cùng với Chính phủ Sài Gòn đã tham gia ký kết Định ước về Việt Nam và đã tuyên bố chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trách nhiệm quản lý lãnh thổ bên này bên kia vĩ tuyễn 17 là rõ ràng.
Về mặt bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, từ năm 1965 nhân dân Việt Nam phải đối phó với cuộc chiến tranh cục bộ của Mỹ ở miền Nam, cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của Mỹ ở miền Bắc. Đây là một cuộc chiến tranh ác liệt nhất từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, trong đó lực lượng quân sự cực mạnh của Mỹ đã huy động tất cả bộ máy chiến tranh của nó từ pháo đài bay, thiết bị điện tử đến vũ khí hoá học. Nhân dân thế giới coi đây là cuộc chiến đấu giữa David và Goliath và coi cuộc chiến tranhViệt Nam là vấn đề lương tri của thời đại. Nhân dân Việt Nam nhất định không thể chịu để mất nước một lần nữa và quyết định làm tất cả cái gì có thể làm được để chống xâm lược, đó là vấn đề sống còn của cả dân tộc Việt Nam .
Nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa đã giương cao ngọn cờ chống chủ nghĩa đế quốc ngay từ khi mới ra đời và cũng ngay từ đó các nước thuộc địa hoặc mới giành được độc lập đều coi Bắc Kinh là niềm tin và hy vọng. Trung Quốc không muốn đụng đầu một lần nữa với đế quốc Mỹ, nhưng cần phải tiếp tục giương cao ngọn cờ chống đế quốc, tiếp tục giúp đỡ cuộc đấu tranh chính nghĩa của các dân tộc. Việt Nam lại là một nước xã hội chủ nghĩa, một nước láng giềng anh em, “núi liền núi, sồn liền sông”. Trong tình hình đó, Trung Quốc trở thành đồng minh trên thực tế của Việt Nam về chính trị, tinh thần và vật chất. Họ đã gửi sang Việt Nam vũ khí, đạn dược, lương thực, xe cộ và dành con đường quá cảnh cho hàng viện trợ của Liên Xô và Đông Âu và các nước khác. Người Việt Nam và Trung Quốc coi quan hệ giữa hai nước như “môi với răng”.
Mỹ cũng không muốn một lần nữa đụng đầu với Trung Quốc. Việt Nam muốn gắn chặt cuộc kháng chiến của mình với Trung Quốc càng nhiều càng tốt. Việt Nam chân thành tin cậy Trung Quốc và cho rằng chiến tranh xong mọi vấn đề lãnh thổ sẽ đượch giải quyết tốt đẹp giữa những người “vừa là đồng chí vừa là anh em”. Về lý luận và thực tiễn đối với người Việt Nam đó là tình đoàn kết quốc tế.
Phải đứng trên tinh thần đó của nhân dân Việt Nam và bối cảnh những năm 50-60 để hiểu các tuyên bố nói trên. Và cũng để hiểu hành động của những đồng minh của Việt Nam .
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, năm 1949 quân đội nhân dân Việt Nam, theo yêu cầu phối hợp của những người cộng sản Trung Quốc ở phía Nam, đã đưa quân vào vùng Thập Vạn Đại Sơn Tây, dãy núi lớn giữa hai tỉnh Quảng Tây và Quảng Đông, tiêu diệt nhiều vị trí quân sự của Tưởng Giới Thạch, giải phóng được Trúc Sơn (lãnh thổ Trung Quốc) và sau đó đã trao trả Trúc Sơn cho quân giải phóng Trung Quốc. Thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1945, năm 1955 Pháp rút khỏi miền Bắc vĩ tuyến 17 và đảo Bạch Long Vĩ khi đó quân đội nhân dân còn bận tiếp quản và quản lý các nơi khác mà Pháp đã trao trả, cho nên trước mắt không đủ sức quản lý đảo Bạc Long Vĩ ở cách xa Hải Phòng 170km, họ đã phải nhở Trung Quốc quản lý hộ. Phía Trung Quốc đã chấp nhận và năm 1957 đã trao trả phía Việt Nam đảo và còn tặng một tầu thuỷ nhỏ để đảm bảo sự liên lạc giữa đất liền và đảo. Sự tin cậy của Việt Nam đến mức là khi Trung Quốc giúp Việt Nam khôi phục đoạn đường sắt Hà Nội-Đồng Đăng, Tổng cục đường sắt Việt Nam đã chấp nhận một văn bản có ghi điểm nối ray giữa hai nước “đi qua đường quốc giới”, vào sâu lãnh thổ Việt Nam 316 mét so với đường biên giới chính thức giữa hai nước đã xác định trong Hiệp định đường sắt Việt-Trung ngày 25-5-1955.
Việt Nam cũng đã cư xử như thế với những anh em người Lào. Trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, phía Việt Nam đã tạm để một số lãnh thổ của Việt Nam cho lực lượng yêu nước Lào làm căn cứ hoạt động như vùng Na Mèo (tỉnh Thanh Hoá), vùng Keng Đu (tỉnh Nghệ An). Cũng như lực lượng yêu nước Lào đã đồng ý tạm để Việt Nam xây dựng đường mòn Hồ Chí Minh trên một bộ phận lãnh thổ Lào giáp với Việt Nam (những vùng đất gọi là giải phóng, do lực lượng yêu nước Lào quản lý).
Sau khi chiến tranh chống Mỹ kết thúc, nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào đã cùng nhau giải quyết thoả đáng mọi vấn đề: Việt Nam đã trả lại Lào những lãnh thổ đã mượn của Lào và Lào đã trả Việt Nam những lãnh thổ đã mượn của Việt Nam. Ngày 18 tháng 7 năm 1977, hai nước đã ký Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia trên cơ sở tôn trọng đường biên giới vốn có, khi hai nước tuyên bố độc lập năm 1945.
Quan hệ giữa PLO và nước A Rập ngày nay, về nhiều mặt, cũng tương tự mối quan hệ giữa Việt-Trung Quốc và mang dấu ấn của tình đoàn kết chiến đấu chống kẻ thù chung. Nói đây là một đặc điểm của thời đại cũng không có gì là quá đáng.
Những lời giải thích trên đây có thể được chấp nhận hoàn toàn, một phần hay không được chấp nhận . Mặc dầu vậy những lời tuyên bố nói trên không phải là sự tuyên bố của Việt Nam từ bỏ chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và vẫn phản ảnh một sự thật trong giai đoạn tốt đẹp nhất của tình hữu nghị Việt-Trung.


*

Trung Quốc rất quan tâm tuyên truyền vấn đề bản đồ, họ đã đưa ra nhiều bản đồ. Đây không phải là vấn đề quan trọng, nhưng cũng cần nêu thêm một vài nhận xét:
1. Trung Quốc luôn luôn nói các đảo Nam Hải là phần cực Nam của Trung Quốc và đưa ra nhiều bản đồ. Nhưng họ lại không dẫn chứng những sách hoặc bản đồ cổ của Trung Quốc chỉ vẽ lãnh thổ Trung Quốc trên đảo Hải Nam . Chẳng hạn đoạn tổng luận của cuốn Trung Quốc địa lý giáo khoa thư đã viết:
“Phía Nam từ vĩ độ Bắc 180 13’, tận cùng là bờ biển Nhai Châu đảo Hải Nam, phía Bắc đến vĩ độ 530 50’, tận cùng là chỗ gặp nhau giữa sông Hắc Long Giang và sông U-xu-ri; phía Tây đến kinh tuyến 420 11’, tận cùng là núi Tùng Lĩnh, Nam bắc gồm hơn 36 độ, rộng hơn 7.100 dặm, Đông Tây gồm hơn 61 độ, dài hơn 8000 dặm. Diện tích 32.605.156 dặm vuông, chiếm ¼ Châu Á, 1/10 lục địa thế giới, lớn hơn cả Châu Âu”.
Tổng luận đó hoàn toàn ăn khớp với Hoàng thanh trực tỉnh toàn đồ năm 1862 đời vua Đồng Trị và Hoàng triều nhất thống dư địa tổng đồ năm 1894 đời vua Quang Tự, đều là bản đồ chính thức, mà không vẽ các quận đảo Tây Sa và Nam Sa.
Trong Quảng Đông dư địa đồ năm 1897 đời vua Quang Tự do tổng đốc Lưỡng Quảng Trương Nhân Tuân đề tựa, có Quảng Đông toàn tỉnh dư địa tổng đồ và Quỳnh Châu phủ đồ cũng không vẽ bất cứ quần đảo nào ở biển Nam Hải, phù hợp với lời dẫn ghi giới hạn “cực nam” của lãnh thổ Trung Quốc là “núi ngoài cảng Du Lân, Châu Nhai”.
Theo các án lệ, giá trị của các bản đồ trong một cuộc tranh chấp về chủ quyền chỉ là tương đối. Phán quyết của trọng tài Max Huber trong vụ tranh chấp đảo Palmas giữa Mỹ và hà Lan đã nhận xét:
“…Chí với một thái độ cực kỳ chân trọng mới có thể tính đến việc dùng các bản đồ để giải quyết một vấn đề về chủ quyền lãnh thổ…”
Phán quyết còn nói rõ hơn:
“Khi mà trọng tài biết chắc chắn rằng có những sự kiện pháp lý có tính chất quyết định của những người vẽ bản đồ mà không rõ họ lấy nguồn tin ở đâu thì hoàn toàn có thể bỏ qua giá trị của các bản đồ dù cho nó có nhiều và được đánh giá cao đến đâu chăng nữa”

Vấn đề giá trị của những bản đồ của phía Trung Quốc đưa ra như trên thế là rõ...


Lưu Văn Lợi (trích trong cuốn sách đã dẫn)

Thứ Ba, 15 tháng 12, 2009

Câu chuyện tu nghiệp sinh

Câu chuyện tu nghiệp sinh
(hay phản hồi từ một Entry)


Trên blog tôi cách đây hơn một tháng có post một bài viết về câu chuyện đi lao động nước ngoài.

Entry này kể chuyện chú em tôi, một người tốt tính lại chăm chỉ, muốn “làm giàu” (thực ra chỉ là muốn tích lũy ít vốn liếng, đẻ sống mát mặt hơn chút đỉnh trong hoàn cảnh nông thôn nông nghiệp còn "trần ai" lắm. Hết sức cảm thông với chú em tôi.
Rồi chú em tôi quyết chí đi “xuất khẩu lao động”, chấp nhận để đi bằng mọi giá... Bao nhiêu trắc trở, có thể nói là “đoạn trường” đến với chú em và các bạn của chú, lúc sắp đi ở VN và rồi sang bên Séc... Bởi các chú này đi kiểu chui lủi, đi bằng cách “bất hợp pháp”.

Nhỡn tiền thấy hết cái khó cái cực ở đất người (dĩ nhiên cũng nhận ra học được cái tốt) nên một thời gian trần lực "cày bừa", kiếm được ít tiền đủ trả nợ (vay để “chạy” chuyện đi), chú quay trở về để tính một chuyện làm ăn gì đó trong nước, đỡ cảnh xa vợ xa con và nơm nớp lo bị trục xuất.

Bài viết của tôi động đến một vấn đề thiết thực của nhiều gia đình có thân nhân tương tự cảnh ngộ, nên họ chuyển cho tôi những phản hồi, tin nhắn, thư email, gọi điện... đủ kiểu. Trong số này có một bài viết mà tôi giới thiệu dưới đây.

Nội dung, ý tứ toàn bài viết của bạn có tên minhthanhjp này tôi cố gắng giữ lại. Cái ý bao trùm là phê phán cách làm trong vấn đề xuất khẩu lao động mà ta làm lâu nay (ở đây chỉ nói về trường hợp với Nhật Bản).

Bài viết có tính phản biệt mạnh, thậm chí là rất mạnh. Tôi nghĩ mặt này - về ý nghĩa nào đó - là được, là đáng khuyến khích.

Ngay trong ý phản biện, trong nước chúng ta dùng từ ngữ “xuất khẩu lao động” thì tác giả bài viết này cũng đã không tán thành. Nhưng do VN mình chính thức sử dụng trong các văn bản nhà nước rồi, tức đã tồn tại nhóm từ ngữ này lâu nay, nên tôi nghĩ hãy “để ngỏ” vấn đề tác giả này nêu ở đây. Chúng ta sẽ không bàn đến cái chi tiết đầy tranh cãi này vào lúc này.

Bài viết của minhthanhjp bên cạnh các ưu điểm, vẫn bị hạn chế ở một số điểm, có thể nói có chỗ trở thành nhược điểm - điều đáng tiếc - nó làm mất đi tính khách quan và thuyết phục. Có thể là do tâm thế người viết có sự bực dọc nào đó (do va chạm, chứng kiến nhiều điều trái tai gai mắt ở bên đất Nhật chăng?). Hoặc cũng có thể tác giả chưa đủ các thông tin trên đất Việt Nam hoặc các thông tin từ các cơ quan VN nào đó chăng? Nên chúng tôi thấy đôi chỗ tác giả hơi vội khi kết luận, có thể hơi suy diễn... Thậm chí về mặt hình thức biểu hiện, ở rải rác trong bài, tác giả đã dùng những từ ngữ chưa được chuẩn, không tu từ cẩn trọng lắm (vốn lại cần thiết cho các lập luận phản biện chính thức, có địa chỉ và chính thức, một vấn đề nêu ra đúng mực đứng đắn như thế này). Hoặc tác giả đôi chỗ còn dùng từ ngữ nào đó chỉ thích hợp với “văn nói” (trong lúc bực mình, giận dữ...), chứ viết nguyên xi như thế lên mặt bài, mặt giấy e không gây cảm tình, không thuyết phục người đọc người xem...

Song đấy lại là chuyện khác, tức vấn đề có tính nguyên tắc “mọi người viết phải gánh chịu lấy trách nhiệm về những gì mình viết ra”.

Với tôi, người giới thiệu bài viết này chỉ với một ý định hết sức có tính xây dựng: Đánh động dư luận, đánh động phía VN ta – cả những người có trách nhiệm trong bộ máy cơ chế, cả những người công dân bình thường trong xã hội, những bạn đọc blog, bạn đọc tin bài trên mạng internet nói chung – về một thực trạng xã hội như bạn có tên minhthanhjp nêu ra. Nếu bài viết của tác giả tôi dẫn dưới đây có chỗ nào "có sự thiếu/không chính xác”, hoặc một thứ quy kết kết luận nào đó của tác giả bài viết không được chuẩn xác, không thích hợp cho những nơi chỗ, những con người cụ thể nào đó, tôi mong nhận được phản hồi của bạn đọc. Cũng có thể từ đó, qua trung gian là blog Hầu chuyện này, tác giả bài viết sẽ có dịp trao đổi lại chăng?

Chỉ xin phép tác giả bài viết cho tôi được biên tập sửa chữa hoặc cắt bỏ một số đoạn, chi tiết. Đặc biệt là một số từ ngữ và lời lẽ hơi có tính “khẩu ngữ” trần trụi khó nghe thì cũng lược đi, hoặc chuyển sang những ngôn từ chữ nghĩa được coi là thông dụng, đáp ứng cái đẹp và chất văn hóa trong cuộc sống. Miễn sao ý tứ vẫn toát lên vấn đề người viết định nói, định nhắm đến, như vậy chẳng phải là tốt hơn sao.

Đầu đề bài viết nếu sát với nội dung và cũng là "phải chăng" nhất có thể lấy là "Thua thiệt cho Tu nghiệp sinh VN". Nhưng tôn trọng ý tác giả, tôi vẫn giữ nguyên văn không thay đổi đầu đề bài viết này của bạn minhthanhjp.


Nguyễn Vĩnh (Hầu chuyện blog)

-------------

Dưới đây là bài viết của bạn minhthanhjp:

Tu nghiệp sinh ơi ! Buồn thay thân phận của kiếp người VN

Mấy tuần nay dân mạng và ngoài mạng xôn xao về cái chuyện tu nghiệp sinh VN ở Nhật dính vào đường dây ăn cắp hàng mỹ phẩm liên đới với các nhân viên Hàng không VN. Dân Việt thì mắng họ làm mất thể diện quốc gia. Trong khi dân Nhật thì gọi họ là bọn ăn cắp (bài này đưa lên blog minhthanh tháng 1/2009).

Chê trách, nhục mạ, sỉ vả... thôi thì đủ đường. Nhưng ít người đặt câu hỏi "TẠI SAO tu nghiệp sinh lại phải đi ăn cắp" và tìm hiểu nguyên nhân đưa họ đến nông nỗi khốn cùng, làm bậy như vậy.

Tôi là một thông dịch viên trong ban điều tra vụ án nên có cơ hội tiếp xúc với những hoàn cảnh khốn cùng của họ trên đất Nhật.

Một cảnh sát viên điều tra Nhật sau khi kết thúc hồ sơ cũng đã phát biểu thế này về những tu nghiệp sinh bị bắt:"Tôi không căm ghét con người họ, tôi chỉ ghét tội ác, tôi ghét cái chính phủ của họ đã đưa họ đến bước đường cùng này. Ở một cái nhìn khác, với tư cách là một người Nhật, việc để một tu nghiệp sinh ngoại quốc phải đi ăn trộm để sống cũng là một điều sỉ nhục cho người chủ nhà Nhật ".

Một sếp cảnh sát khác có ít nhiều thiện cảm với đất nước Việt Nam cũng phải thốt lên : "Tôi không thể tưởng tưởng và hiểu được, một dân tộc có 4000 năm văn hiến, dũng cãm, dám đánh và đã chiến thắng nhiều cường quốc mạnh nhất thế giới trong chưa đến nửa thế kỷ để giành lấy Độc lập và Tự do lại để thế hệ con cháu phải đi làm nô lệ xứ người ".

Vậy thì tu nghiệp sinh là ai? Cái vụ tu nghiệp sinh này thì “em hơi bị rành”, nên để em kể đầu dây mối nhợ cho các bác nghe, nha. Số là cái thời ông thủ tướng Murayama thuộc Đảng Xã hội (Đảng thiên tả) của Nhật sau bao nhiêu năm tranh đấu mới giành được quyền lập chính phủ Nhật. Công việc đầu tiên của ông ta sau khi cầm quyền là đi xin lỗi các nước Á châu bị phát xít Nhật xâm lược trong cuộc chiến Thái Bình Dương (quen gọi là Thế chiến 2).

Ông ta làm một vòng bắt đầu từ Singapore cho đến chặng cuối là Việt Nam để đi xin lỗi và bồi thường chiến tranh. Ông thủ tướng đi đến đâu cũng nghe dân chúng ở nước đó “chửi”. Rồi ông ký giấy bồi thường chiến phí cho đủ các nước mệt nghỉ. Nhưng khi đến VN thì hội đàm cả buổi với các vị lãnh đạo lại không nghe nhắc gì đến cái vụ đòi xin lỗi và bồi thường chiến tranh cả. Vậy là ông già Murayama lờ luôn cái chuyện xin lỗi và bồi thường cho dân VN.

Báo Asahi của Nhật lúc đó viết bài bình luận và chê rằng những người cố vấn cho các vị lãnh đạo ta hơi bị kém, không hiểu được nội tình của nước Nhật. Nếu mà họ cố vấn ngon lành thì dân Nhật phải è lưng ra trả thuế để mà đền bù cho 2 triệu người VN bị chết đói do nguyên nhân phát xít Nhật gây ra hồi năm 1945... Mà phải công nhận là các cán bộ ngoại giao VN dưới thời ông VD ở Tokyo thạt ít cán bộ rành giỏi tiếng Nhật, nên chắc không đọc được báo chí và hiểu kỹ chuyện của Nhật, nên cũng ít ký kiến đề lên cho lãnh đạo.

Trở lại chuyện ông thủ tướng Nhât, do không thấy lãnh đạo ta đòi hỏi quyết liệt gì nên ông già Murayama mới chuyển sang đề nghị “tạo tình hữu nghị cho thanh niên Nhật - Việt” bằng cách Nhật và VN hàng năm sẽ trao đổi thanh niên với nhau để tìm hiểu đời sống, văn hóa... Nhật Bản sẽ hỗ trợ đào tạo chuyên viên cho VN dưới tên gọi là Đào tạo TU NGHIỆP SINH.

Dư luận Nhật cho rằng ông già Murayama chơi trên cơ lãnh đạo VN. Ông ta dùng từ giúp đỡ chứ không phải là bồi thường. Mà các bạn biết rồi đó, với dân ngoại giao thì cái diện mạo và nhất là chữ nghĩa là quan trọng lắm. Từ cái vụ này mới đẻ ra cái vụ TU NGHIỆP SINH. Mục đích chính của chương trình đào tạo Tu nghiệp sinh là chính phủ Nhật viện trợ, giúp cho VN đào tạo chuyên gia trong các lĩnh vực nghề sản xuất, đồng thời giúp các xí nghiệp Nhật lúc đó đang thiếu trầm trọng nhân công.

Nhật Bản vừa được cả hai điều lợi là giải quyết việc thiếu hụt nhân lực và được tiếng là giúp đỡ VN trên mặt ngoại giao.

Theo tinh thần của hiệp định lúc đó thì Tu nghiệp sinh sẽ học và làm việc ở Nhật là 3 năm. Sau khi sang Nhật trong 10 tháng đầu tiên sẽ là huấn nghệ và họ sẽ nhận tiền trợ cấp huấn nghệ là 70.000 yen/ tháng (gần đây nâng lên 80.000 yen/ tháng). Sau 10 tháng huấn nghệ nếu thi đậu bằng nghề của Nhật thì sẽ được chuyển sang tư cách gọi là "Thực tập sinh", được trả lương tương đương với mức lương người Nhật tập sự trong vòng 26 tháng còn lại. Bộ ngoại giao và Bộ lao động Nhật trực tiếp quản lý chương trình Tu nghiệp sinh thông qua một tổ chức của chính phủ là JITCO. Thái Lan cũng được ký hiệp định hỗ trợ Đào tạo Tu nghiệp sinh giống y chang VN. Vấn đề trên đúng ra thì rất hay nhưng chính phủ và dân VN mình chưa biết tận dụng, có thể gọi là “tiền chẵn không lấy chỉ đi lượm tiền lẻ” nên sau một thời gian thực hiện mới sinh đủ chuyện lùm xùm, tèm nhem... Theo người Nhật thì để đào tạo một tên công nhân từ chỗ mới ra trường đại học cho đến lúc có bằng nghề làm được việc thì họ mất khoảng 200.000 USD cho khoảng 3 năm. Nói thêm về Thái Lan. Do chính phủ của họ hiểu điều này nên khi đưa người đi tu nghiệp ở Nhật thì họ chọn lựa những sinh viên giỏi, những kỹ sư có kiến thức sang Nhật để học những kỹ thuật mà họ chưa có, hoặc chưa bằng Nhật. Ví dụ cái nghề chế tạo khuôn mẫu để đúc kim loại hay nhựa hoặc công nghệ xe hơi.

Chính phủ Thái họ quản lý rất chặt, các tu nghiệp sinh trước khi đi thì họ yêu cấu phía Nhật phải cho họ cái list các công ty tiếp nhận tu nghiệp sinh, sau đó họ sẽ cử nhân viên Đại sứ quán đến điều tra cái công ty Nhật đó đúng kỹ thuật mà họ cần không, điều kiện lao động có an toàn cho con em họ không. Nếu công ty quá nhỏ hoặc không có kỹ thuật họ cần thì họ loại sổ.

Sau khi tu nghiệp sinh Thái Lan sang Nhật thì nhân viên chính phủ Thái hàng tháng họ sẽ cử người đến tận công ty để kiểm tra đời sống sinh hoạt, học tập của con em họ. Và nếu như bị người Nhật hà hiếp hoặc đào tạo không đúng chức năng thì lập tức họ kiến nghị Bộ ngoại giao Nhật cho ngừng ngay lập tức và họ chuyển người qua công ty khác hay trường học khác.

Các tu nghiệp sinh Thái sau khi về nước thì được trọng dụng đúng với ngành nghề họ đã được đào tạo bài bản ở Nhật. Với chính sách quản lý chặt chẽ và lo cho dân như vậy nên chỉ sau 14 năm thì bây giờ ngành gia công khuôn mẫu cho công nghệ xe hơi của Thái Lan đã vượt qua mặt Hàn Quốc, được xếp vào danh sách cường quốc gia công khuôn mẫu đứng thứ 2 thế giới chỉ sau Nhật. Cụ thể tới 80% khuôn mẫu và sản phẩm đúc của công nghệ xe hơi Nhật hiện được làm ở Thái Lan với số nhân tài ưu tú được đào tạo từ Nhật.

Khoản tiền đào tạo 200.000 USD/ người của Nhật kể như người Thái nuốt trọn, họ đúng là chọn con đường “lấy tiền chẵn”. Quay lại VN thì sao? Theo chúng tôi bên này được biết thì chính phủ Việt Nam đã lợi dụng chương trình này để xuất khẩu lao động và thông qua chương trình xuất khầu lao động để kiếm tiền quản lý. Tức là cái đầu của các quan chức Bộ lao động và thương binh xã hội cũng như Bộ giáo dục đào tạo VN chỉ mới ở mức tính chuyện “lượm tiền lẻ”, không có tầm nhìn xa và chiến lược phát triển nhân tài như Thái Lan.

Chúng tôi nghĩ cái từ xuất khẩu lao động tự nó đã là phản cảm, có tính chất buôn người rồi. Chắc chỉ có ở VN con người được xếp ngang hàng với hàng hóa nên mới có chữ xuất khẩu lao động(sao không chọn từ ngữ khác?).

Thông thường Tu nghiệp sinh sang Nhật thì toàn bộ chi phí họ không phải trả gì hết. Hãng Nhật tiếp nhận tu nghiệp sinh cũng sẽ được chính phủ họ trả tiền trợ cấp cho công việc huấn nghệ. Thế nhưng, ở VN một người muốn sang Nhật làm tu nghiệp sinh thì phải trả chi phí môi giới cho các quan chức cán bộ của các công ty xuất khẩu lao động, trong các công ty này có đơn vị thuộc ngay Bộ lao động, như SULECO, SOVILACO v.v... mà số tiền phí môi giới không rẻ, khoảng 10.000 USD đến 20.000 USD. Nhiều khi không có tiền, người muốn đi lao động phải thế chấp sổ đỏ cho các vị môi giới hoặc cho các công ty này. Rút cuộc số tiền họ bỏ ra chỉ chạy vào túi cán bộ, bọn môi giới thôi chứ nhà nước VN cũng chẳng thu được bao nhiêu. Nếu không chạy phí môi giới thì “còn khuya” mới được đi vì có lẽ không có bao nhiêu người đủ tiêu chuẩn để đưa đi đào tạo theo đúng nghĩa của danh từ TU NGHIỆP.

Sau khi sang Nhật thì chính phủ (các đại diện thay mặt các cơ chế nhà nước), các công ty môi giới phía VN kể như “đem con bỏ chợ”, mặc tình “tụi bây sống sao kệ bây”.
Từ đây mới đẻ ra chuyện các nghiệp đoàn Nhật tiếp nhận tu nghiệp sinh. Bời vì chính phủ VN không trực tiếp quản lý tu nghiệp sinh như kiểu Thái lan nên thông thường SULECO hay SOVILACO sẽ ký hợp đồng với một công ty môi giới việc làm nào đó của Nhật. Theo luật lao động của Nhật thì các công ty môi giới việc làm không được nhận tu nghiệp sinh nên các công ty này mới đẻ ra cái gọi là nghiệp đoàn nhận TU NGHIỆP SINH (tiếng Nhật gọi là KENSHUSEI UKEIRE KUMIAI) có trách nhiệm nhận và phân phối tu nghiệp sinh đến các công ty tiếp nhận huấn nghệ và quản lý họ thay cho cơ quan JITCO của chính phủ, một hình thức lách luật.

Và buồn thay, hiện tượng “buôn người và bóc lột” xảy ra từ đây, từ khâu này.
Các nghiệp đoàn kể trên nhận tu nghiệp sinh mà không cần biết người đó có tư cách của tu nghiệp sinh hay không, cứ theo phía VN tìm được bao nhiêu thì họ nhận bấy nhiêu. Sau đó họ bắt đầu “bán” các tu nghiệp sinh này cho các công ty nhỏ sắp phá sản hoặc không đủ tiền mướn công nhân Nhật. Có khi họ đưa “đổi chác” qua các công ty thứ ba thứ tư nào đó. Họ vừa ăn tiền ủy thác quản lý của JITCO, vừa nhận tiền bán người (tiền môi giới lao động) từ công ty nhận lao động.

Các công ty nhận lao động này sẽ bắt các tu nghiệp sinh làm việc như nô lệ mà họ không cần phải sợ Luật lao động của Nhật bởi vì cảnh sát có bắt thì họ nói là họ giúp VN huấn nghệ, họ là tu nghiệp sinh chứ không phải là người lao động nên không bị chi phối bởi luật lao động ở Nhật.

Về số tiến trợ cấp hàng tháng 80.000 yen này, theo một số nguồn tin từ tu nghiệp sinh cung cấp, các công ty xuất khẩu lao động VN nhờ bọn nghiệp đoàn môi giới lao động của Nhật ăn chặn, thu tới 50% gửi vào trương mục ngân hàng của SULECO hay SOVILACO ở Nhật cộng với tiền gọi là tiền quản lý phí khoảng 10.000 yen (khoảng 100 USD) hàng tháng gửi về phía VN.

Chúng tôi được biết nếu anh em nào không chịu nổi cảnh bị bắt làm việc như nô lệ đã kể ở trên thì buộc phải bỏ trốn, số tiền nói trên họ sẽ tịch thu. Nghe nói SULECO va SOVILACO ăn trọn, chưa tính tới sổ đỏ nhà cửa bị thế chấp họ sẽ phát mãi ở VN với lý do gọi là bồi thường cho phía Nhật...

Trong trường hợp nào đó, sau khi mỗi tu nghiệp sinh bị trừ hết 50.000 yen thì chỉ còn 30.000 yen để sinh sống, nếu may mắn gặp công ty cho ở nhà không lấy tiền thì còn sống được. Còn nếu bị công ty bắt trả tiền nhà, điện, gaz, nước thì kể như không đủ mua mì gói mà sống.

Được biết Bộ Lao động và thương binh xã hội VN sợ mất thị trường xuất khẩu lao động này nên cách đây 5 năm đã cử ông Nguyễn Gia Liêm sang Nhật với danh nghĩa cố vấn, bảo vệ quyền lợi cho tu nghiệp sinh VN. Nhưng mà ông này thì không biết tiếng Nhật, lại bị bọn nghiệp đoàn môi giới người mua chuộc đã quay ra hà hiếp và báo cáo cho người Nhật biết những tu nghiệp sinh nào có ý định bỏ trốn hay chịu không nổi cực khổ để họ canh chừng. Ông Liêm này còn bày cho các nghiệp đoàn Nhật cung cách buộc các tu nghiệp sinh phải nộp passport và thẻ ngoại kiều cho phía Nhật giữ để khỏi còn cơ hội trốn chạy.

Từ đó các tu nghiệp sinh sau này sang Nhật đều bị bắt ký một tờ giấy là: "Tôi nguyện giao hộ chiếu và thẻ ngoại kiều nhờ nghiệp đoàn A,B,C gì đấy giữ hộ, vì sợ làm mất" là từ cái trò “láo khoét” của mít-tờ đại diện Bộ lao động mà ra. Cũng như tiền 50% bị trưng thu hàng tháng cũng phải ký vào tờ giấy gọi là nhờ giữ hộ. Sau 10 tháng huấn nghệ thực chất là làm nô lệ không công cho “các công ty” đa phần không đứng đắn, không đúng với luật pháp Nhật này, thì các tu nghiệp sinh sẽ được bọn này diễn hề bằng cách cho tổ chức thi lấy bằng nghề.

Chúng tôi ở Nhật lâu biết rõ, thực ra thì chả có thi cử gì ráo trọi, bọn nghiệp đoàn quản lý tu nghiệp sinh này sẽ kết hợp với các công ty tráo người của họ vào thi hộ, hoặc là mớm cách thi cho các tu nghiệp sinh trong trường hợp có nhân viên của JITCO đến giám sát. Khi xong việc làm báo cáo lên JITCO là đã tổ chức xong cuộc thi với kết quả em A,B,C nào đó đậu và JITCO gửi bằng chứng nhận nghề xuống.
Cái bằng này không phải là bằng kỹ thuật quốc gia nên nhiều khi cái ông đại diện của JITCO tới cuộc thi cho có mặt.

Vậy là tạm xong, 26 tháng còn lại là các tu nghiệp sinh được chuyển sang thân phận gọi là "Thực tập sinh".

Trên nguyên tắc thực tập sinh cũng không phải là người lao động nhưng được nhận lương thực tập giống như các nhân viên tập sự người Nhật. Thường thì các hãng Nhật sẽ trả cho họ mức lương thấp nhất theo luật lao động, tức là cái lương vừa đủ để sống nếu không bị trừ các khoản thuế, bảo hiểm và hưu trí (thực tập sinh VN cũng bị bắt đóng bảo hiểm hưu trí của Nhật), bảo hiểm sức khỏe ở Việt Nam (cái này là hình thức nhà nước bóc lột họ vì nếu họ có bệnh ở Nhật trong thời gian làm việc thì bảo hiểm của VN cũng không trả “cắc bạc” nào cho người lao động đó cả). Thông thường lương này khoảng bằng 1/4 hay 1/5 lương thấp nhất của người lao động Nhật (khoảng 100.000 đến 130.000 yen) nhưng phải bắt trả tiền sinh hoạt phí ở công ty cũng như tiền trả cho nghiệp đoàn môi giới Nhật và tiền quản lý phí của VN.

Mức lương này nếu bị trừ 50% và tiền quản lý phí tăng lên thì sau khi trừ hết mỗi người chỉ còn khoảng 40.000 yen.

Ở Nhật giá gạo khoảng 300 yen/kg, thì đủ mua 10kg gạo và chút xíu thịt để ăn mà sống. Điều này bắt buộc họ muốn sống còn thì phải trốn ra ngoài làm chuyện gian như cái vụ tham gia vào đường dây ăn cắp của hàng không VN mới đây chẳng hạn.

Hiện tại theo chỗ chúng tôi biết thì cảnh sát tỉnh Saitama phía bắc Tokyo còn giữ một xác chết của một tu nghiệp sinh VN cả năm nay vì anh ta bị chết do tai nạn lao động nhưng mà công ty xuất khẩu lao động VN sợ trách nhiệm và tiền chi phí chở xác về rất cao nên không chịu lãnh. Cơ quan đại diện chính thức của VN ở Nhật (đại sứ quán) thì rất ít trách nhiệm nếu không muốn nói là vô trách nhiệm, cũng không bảo vệ đúng mức công dân của mình mà bọn này chuyên môn nhũng nhiễu làm tiền tu nghiệp sinh. Chúng tôi còn được nghe kể, nếu ai lỡ dại chịu không nổi mà bỏ trốn chẳng hạn, người đó sẽ không thể lấy lại hộ chiếu từ phía Nhật được, khi đó muốn lấy tờ giấy thế cho hộ chiếu để về VN chẳng hạn thì phải “chung chi” khoảng 50.000 yen đến 100.000 yen mới mong có giấy tờ tạm để trở về nước. Tu nghiệp sinh VN khác với tu nghiệp sinh Thái Lan ở chỗ họ không còn là con người khi đã bước chân lên máy bay. Họ biến thành thân phận kẻ “kéo cày để trả món nợ ở quê nhà”, để đầy túi tham của những quan chức những cán bộ nhân viên biến chất trong bộ máy nhà nước. Cũng là để làm giàu cho bọn người có ý định xấu ở Nhật (một dạng buôn người nào đó) cấu kết ăn chia với phía những con người xấu trong bộ máy, cơ chế của phía VN. Tu nghiệp sinh ơi !

Buồn thay thân phận của kiếp người VN.

(Từ nguồn: minhthanhjp)


Chuyển dời mộ tổ và những nghĩ ngợi miên man

Chuyển dời mộ tổ và những nghĩ ngợi miên man

Năm trước vào dịp này, dòng họ Nguyễn Văn bên quê tôi di dời ngôi mộ tổ.

Đến những ngày vào việc thì trời đất chuyển rét. Bầu trời đông xám xỉn và nhiệt độ xuống nhanh. Gió bấc thổi mạnh và rất lạnh. Việc chuyển mộ, ai sinh sống ở đồng bằng Bắc Bộ đều biết, thường lại làm vào nửa đêm đến rạng sáng thôi, ở cả ngoài đồng nên lạnh càng lạnh. Nhưng đã là ngày định trước, ban trưởng họ lại mời “thầy xem” rồi, nên hôm ấy mọi người trong diện vẫn có mặt đông đủ tại nhà thờ họ.

Buổi họp bàn soạn công việc rất tập trung. Chỉ xoáy mỗi vào cách tổ chức và cắt đặt lực lượng con người sao cho tiện nhất tốt nhất để công việc di dời thông đồng bén giọt.

Biết được ngôi mộ tổ này được gìn giữ từ lâu đời nên cánh thanh niên và trung niên đều háo hức được ra mộ chứng kiến.

Nhớ mỗi năm kỳ tảo mộ, ngôi mộ này đều được đắp bồi thêm cao to. Nay quả thực nó được coi là ngôi mộ tổ “to nhất”của cả họ (vì họ tôi giữ gìn xây cất được cả chục ngôi mộ tổ - kể từ hai cụ thủy tổ cho đến các cụ thuộc đời thứ 12). Ngôi di chuyển này gọi chung là mộ tổ cho gọn, thực ra có tới 4 ngôi được các cụ xưa đưa về cát táng tại một khu ruộng bìa Rừng Sặt cũ. Các cụ truyền lại rằng đây cũng là thuận theo ý một ông thày địa lý.

Thế mà nay phải dời, cũng tiếc nơi cũ đã quen thuộc lắm rồi. Tiện đường chăm sóc, vào lễ thanh minh tảo mộ cúng giỗ hằng năm cả họ có dịp đoàn tụ đi một vòng qua hai cổng làng. Nhưng theo các cụ nói chí phải, việc họ mạc gì thì cũng phải tuân thủ quy định, pháp luật nhà nước. Đơn vị doanh nghiệp người ta lấy khu đất ấy vì có dự án xây dựng đã được cấp trên tỉnh, huyện phê duyệt lâu rồi, thì họ ta không thực hiện sao được.

Theo tôi biết qua mỗi lần về quê chơi, mộ phần của các gia đình, của họ mạc khác trong làng tôi ở khu đất đó đều phải di đi cả. Trả đất cho dự án như thế đều được doanh nghiệp đền bù. Mức đền công khai làng xã biết. Trường hợp ai đó chưa tán thành thì có quyền khiếu nại, có quyền đòi hỏi đền bù mức cao hơn. Thương lượng qua lại, rồi cũng đi vào giải quyết bằng hết…

Tránh sao khỏi thôn xã điều ra tiếng vào. Nhưng xầm xì vận động làm gì thì cũng không ai được quyền đi ngược lại quyết định của ông ủy ban địa phương đâu. Đi ngược, không khéo sẽ là vi phạm pháp luật.

Nên các cụ các ông cao tuổi trong họ Nguyễn Văn tôi - vốn là những người biết điều – đã đi đến quyết định vận động con cháu trong họ sớm chấp hành nghiêm chỉnh, trở thành trường hợp di chuyển mồ mả sốt sắng và sớm nhất làng.

Trên kia tôi có nói cuộc họp “trong diện” là vì chỉ triệu tập nam giới đến nhà thờ họ. Theo phong tục làng quê, việc họp họ, sinh hoạt dòng họ trước nay đều thế.

Tức là chỉ có cánh đàn ông trong dòng họ, và cũng phải từ tuổi trưởng thành trở lên mới được tới nhà thờ. Đưa con đưa cháu nhỏ tới dự nhà thờ cũng được, nhưng chỉ là con trai cháu trai và cũng hãn hữu mới có nhà đưa đến.

Đàn bà nữ giới thì chỉ nhân dịp nào đó, cũng có thể cùng với gia đình và người nhà có cơi trầu nén hương đến nhà thờ trình tổ, cúng tổ như cách cáo yết với tiên tổ việc vui mừng gia đình, là một cách "tri ân" tổ tiên. Cũng là lệ tục đẹp.

Lại thảng hoặc có buổi lễ trọng, nhân một sự kiện đặc biệt nào đó trong dòng họ thì mới có chuyện "thành phần mở rộng". Khi đó giới nữ mới được "thỉnh" đến.

Ví như cuối năm Quý Mùi, 2003, gian chính cũng là gian rộng nhất của quần thể ngôi nhà thờ được cả họ đóng góp công của, thuê mướn thợ thuyền xây cất lại trông rất khang trang. Sau khi hoàn công, dòng họ quyết định ngoài thành phần nam giới như cũ, các cụ bề trên và ban trưởng dòng họ đồng ý phương án mời tất cả con dâu họ và con gái họ đến dự lễ khánh thành. Sau lễ cúng tổ là mời mọi người dự bữa cỗ đón mừng sự kiện mà chính các cụ cũng nói là “cả trăm năm mới lặp lại một lần”.

Quan sát suốt tuần di dời mộ tổ, trong tôi cũng nảy ra bao điều ngẫm nghĩ về mối quan hệ, về cách sống cách quan niệm của con người chốn thôn quê, ở đây là thôn quê nơi đồng bằng Bắc Bộ. Nó vẫn có nét không thay đổi là bao nếu so với ngày xưa, khi ta đọc được trong các trang sách văn sử.

Ở cái nước mình, gia tộc và dòng họ vẫn như thế, “sống cũ càng”, nép theo một nếp cư xử phương Đông, nếp sống của người Việt mình, xét kỹ cũng chả mấy thay đổi.

Chả là các xã hội phương Đông có lối cô kết cộng đồng thật mạnh thật bền. Người người chung sống bên nhau trong thôn ấp, thân thích hoặc không, vẫn đều có xu hướng muốn quần tụ, hội họp lại thành đoàn, nhóm. Có lẽ ban đầu là để nương tựa lẫn nhau có sức chống lại những mối đe dọa từ thiên nhiên còn hoang dã.

Rồi kế tới là những đối đầu với giặc giã, cướp bóc từ bên ngoài làng đến quấy nhiễu tàn phá.

Dần dần nó sớm hình thành chòm xóm, trang ấp, hương làng. Người trong cộng đồng chung sống tạo lập nên các gia đình lớn dần lên, rồi phát triển thành các gia tộc.

Rồi do đều sinh ra từ gốc một huyết thống nên càng có sự thân thiết đùm bọc với nhau hơn. Và khuynh hướng giữ gìn nét riêng, nét khác với các nhóm người - dù có thể là gần gặn và thân thích sống bên cạnh trong xóm làng - nó sẽ dần dần tạo nên họ mạc phân biệt.
Lâu đời, qua năm tháng, tạo dựng lên các tộc họ đông đúc hơn nữa - những tộc họ này khi đó trở nên có ý nghĩa thiêng liêng, gắn bó với nhau hơn hết. Nó bảo vệ và tự bảo vệ, nó che chở đùm bọc cho nhau và đương nhiên, trong dòng họ ngày càng thấm sâu tình cảm của con người cùng chung một gốc gác tổ tiên...

Ta chỉ nói chuyện đó ở thôn quê thôi. Vì sau này thị thành sinh ra, phát triển lên thì ít còn mối quan hệ cố kết kiểu như thế này nữa.
Họ mạc ở đô thị, ở thành phố nếu có thì cũng lỏng lẻo ra dần. Nó không còn các chất kết dính sinh ra ngay từ truyền thống như ở trong các làng quê Việt của chúng ta nữa.

Dòng họ Nguyễn Văn của tôi ở cái làng Việt cổ bên đất Kinh Bắc-Bắc Ninh có thể nói là một dòng họ nổi bật trong làng. Nó luôn cùng với hai dòng họ khác ở trong làng tôi là họ Vũ Công và họ Ngô Hữu dẫn đầu về "quân số" - mà ở nông thôn Bắc Bộ gọi là “xuất đinh”- tức là tính số "đầu trai", số nam giới ở trong một dòng họ. Đông người chưa nói lên điều gì cả, nhưng khuynh hướng là muốn đông người, đông đinh, như một niềm để hãnh diện. Còn mức sống, chất lượng sống thế nào, chưa cần tính đến. Thế mới lạ.

Dòng họ tôi theo tộc phả có từ năm 1485. Thời gian này nói ra được là căn cứ vào văn bia để lại trong một ngôi mộ cổ khi họ tôi trùng tu mộ phần năm xưa tìm thấy. Chính tại ngôi mộ hai cụ - là cụ thủy tổ của dòng họ tôi - có những chữ Hán khắc vào mộ chí như sau: “Nguyễn Văn tộc mộ chí, Hồng Đức thập lục niên, Đại tôn Nguyễn quý công tự Phúc Khang, Nguyễn thị hiệu Từ Mẫn”. Điều này cắt nghĩa là chiếc bia đá này cùng hai chiếc tiểu sành (mang kiểu dáng đất nung đặc trưng) là ghi lại "năm tạc bia" như trên, nó thuộc vào đời Hồng Đức năm thứ 16, tức năm 1485.

Cho nên tính tới năm ngoái, 2008, kể từ cụ tổ đầu tiên của dòng họ Nguyễn Văn của chúng tôi thì đã trải qua 524 năm, được cả thảy 18 đời. Duy nhất ở một chi cành có một gia đình có cháu trai sinh tới đời thứ 19. Còn lại cả họ, các chi cành khác đều tới đời thứ 18.
Kể như thế cũng đã là một truyền thống lâu đời, chung một nén hương nối dài. Cũng là chuỗi thời gian rất đáng kể đọng lại trong tình cảm gia tộc gắn kết và thân thiết. Bất chấp thời gian, tình cảm đó vẫn tồn tại và mang ý nghĩa thiêng liêng dòng tộc như đã có từ thời khởi thủy.
Trong một xã hội đã bao đổi thay như hiện nay mà vẫn giữ được sự gắn bó truyền thống với nhau như thế kể cũng là một điều rất đáng suy nghĩ.

*

Bữa nay lần giở lại xem những tấm ảnh ngày chuyển mộ đáng nhớ ấy, tôi bỗng có ý viết ra và post lên bài này trong nhật ký (blog) cùng những tấm ảnh chụp trong mấy ngày đông liên tiếp giá rét năm ngoái ở bên quê.

Ngẫm nghĩ đúng là cái doanh nghiệp họ có dự án xây dựng thì các khu mộ phần nơi đó mới phải tính chuyện di dời đi nơi khác thôi. Chứ người Việt mình rất kỵ rất ngại việc đào lấp, động vào mồ vào mả lắm. Chỉ bất đắc dĩ mới phải đến nước di dời mồ mả. Mà đây lại là mộ phần tổ tiên thì càng ngại, càng phải thận trọng.

Nhưng mà một khi công việc đến - với một gia đình hay với cả một dòng họ cũng̣ thế - đều đón nhận sự nhiệt tâm không đo đếm, không tính toán nơi các thành viên tham gia.

Với người đã khuất, bao giờ người ta cũng dành những tình cảm quý hóa, kính trọng và đầy linh thiêng. Nhất là công việc đặt mồ đặt mả, lại là mồ mả của tổ tiên chung cho một dòng họ thì càng tăng thêm sự lưu tâm, với tất cả sự thành kính và coi trọng.

Nhìn lại các tấm ảnh chụp năm trước – tôi lại gặp ở đây những khuôn mặt người thân quen, những người "có họ" với nhau, như cách nói của làng Sặt chúng tôi.

Những chàng trai, những thành viên tuổi trung niên còn mạnh chân khỏe tay nhất, họ đều buông bỏ ra một bên hết thảy các công việc của gia đình riêng. Họ dừng những phi vụ làm ăn buôn bán, sắp đặt người khác trông coi bán hàng để dành hết thời gian "cung hiến" cho công việc họ mạc. Vui vẻ tự nguyện hiến dâng thôi. Dăm ba ngày, cả tuần lễ cũng được. Mất đi bao cuộc vui cuộc hẹn cũng vâng, để được túc trực bên công việc, được chứng kiến anh em trẻ họ làm.

Kể ra với đa phần, cũng chẳng có việc gì là cụ thể cả. Nhưng cái quan trọng là sự góp mặt vào đó. Và đều tự cho đó là điều vinh dự vinh hạnh "được góp một tay" với công việc di dời, xây lại mới mấy ngôi mộ tổ đầy kính trọng và thiêng liêng.
Hôm đó mới rét mướt làm sao. Khi đào mấy cái huyệt mộ mới để "chuyển cốt" về, công việc lại làm vào ban đêm, lạnh rét càng lạnh rét hơn nữa.
Mặc cho khuya khoắt giá buốt, tốp người trong dòng họ được phân việc vẫn hăm hở tận tụy với công việc chung. Lạnh quá thì đốt lửa sưởi, rồi lại làm tiếp, chẳng một lời than vãn bàn ra tán vào. Quyết để xong một việc lớn.

Mới thấy cái tính đoàn tụ, cô kết cộng đồng là rất mạnh. Mới thấy việc họ tộc đối với người Việt mình còn có sức níu kéo nặng đồng cân khó hình dung ra hết nếu chỉ nhìn nhận khơi khơi bên ngoài.

Tôi không nhận xét phân tích gì thêm ở câu chuyện di chuyển mộ tổ của họ tôi nữa. Việc đã xong, mọi thành viên trong họ mạc đều vui vẻ hài lòng, tuy khi nghĩ kỹ trong lòng thì hình như đã mất công mất sức quá nhiều.

Vì có thể nói cả trăm người bỏ ra mấy ngày trời chỉ để hoàn thành một công việc cỡ như thế. Nói đúng ra chỉ có một nhóm thanh niên, trung niên thực sự bắt tay vào việc thôi, còn nhiều người khác là có nghĩa vụ "trông vào", là chứng kiến mà thôi.

Nhưng nếu họ vắng mặt trong trường hợp này là áy náy không yên. Thế thôi, tự nghĩ thế chứ đâu có thế lực nào bó buộc phải làm phải xử như thế.

Nên thực ra, cứ chịu khó lật lên lật xuống câu chuyện này, nghĩ kỹ mà xem, chúng ta vẫn có thể có "một cách làm khác". Và nó vẫn bảo đảm sự thành kính tốt đẹp đối với tổ tiên. Nó được việc mà hợp lý hợp tình, không mất nhiều công sức và thời giờ mà lại của nhiều người đến mức như trên đã nhắc đến.

Nhưng không một ai dám nói ra. Nhất là không ai mạnh dạn phản biện ngay ra và dám làm một cách khác đi.

Nhưng thôi, chuyện ấy đã qua rồi không nên nêu trở lại nữa. Điều tôi muốn nói hơn là ở chốn thôn quê hiện nay có biết bao nhiêu là chuyện!
Những chuyện như cưới hỏi, làm đám ma, làm cải táng; rồi những chuyện khác như xây mới hay tu bổ đền chùa, rước lễ hội hè; rồi những việc xây nhà mua đất lo cho đời mình lại lo cho đời con trai cháu trai sau này; chưa kể rồi tân gia, đầy tháng con đầy tháng cháu; thích đông con đông của, ăn ở tam tứ đại đồng đường là một mong ước... Xem ra tất cả đều đang quá trình chuyển động, mới cũ xen lẫn, khó mà rạch ròi phân biệt đúng-chưa đúng. Mỗi người mỗi nhóm có cái lý sự của mình.

Nhưng cái đáng lo đáng nghĩ là cái xu hướng phục cổ, theo lối cổ, sống theo các cụ ngày xưa lại đang có phần được ưu chuộng hơn.

Cũng phải nhận thấy đây đó ở nông thôn cũng đã hình thành một luồng gió muốn thay đổi. Họ muốn sống theo nếp mới, không chạy theo lệ tục cũ thuần túy, không nệ cổ. Vì nó gây tốn kém, mất nhiều công sức và thì giờ, có việc còn xâm hại tới sức khỏe bản thân và cộng đồng…
Nhưng xem ra cái nếp sống xưa cũ vẫn có uy lực hơn. Nó cứ như thể mặc sức cuốn hút đi mà xem ra không mấy ai, mấy gia đình cưỡng lại được nó.

Mới thấy ở nông thôn ta, việc chuyển dời một tập tục, một thói quen, thậm chí là tập tục thói quen biết được là lạc hậu chăng nữa, thật là một công việc không đơn giản, cứ muốn mà làm được.

Bởi ở đây phải là sự xoay chuyển của ý thức, nhận thức của con người. Hơn nữa của cả một cộng đồng...

Tự giác của người dân là quyết định, nhưng đã đến lúc "ông nhà nước" với quyền lực quản lý trong tay cũng không thể đứng ngoài.

Nguyễn Vĩnh
-------------

Thứ Năm, 26 tháng 11, 2009

Hiểu để bảo vệ chủ quyền biển đảo

Hiểu để bảo vệ chủ quyền biển đảo
Tuần này có người bạn đưa cho cuốn sách và bộ tài liệu khá dày. Nội dung là các vấn đề liên quan đến biển đảo. Đều là những trang viết lý luận và luật pháp rất là khô khan. Nên đọc cũng phải “huy động” công lực. Nhưng nghĩ thấy cần nên cố gắng đọc cho đến những trang cuối cùng.

Được biết giới nghiên cứu, các học giả Việt Nam vừa khai mạc một hội thảo quốc tế về Biển Đông - trong đó Học viện Ngoại giao và Hội Luật gia Việt Nam là hai cơ quan đồng chủ trì hội thảo - nên việc đưa vấn đề biển đảo trong bài viết cho blog tuần này tôi nghĩ là đúng lúc.

Trở lại các tài liệu, thì hầu hết các trang nghiên cứu là những vấn đề khá thiết thực mà nhiều anh em lâu nay hay bàn tới trên không gian mạng (báo chí chính thức, nhất là báo giấy rất ít đề cập).

Và cũng đều là những trăn trở suy nghĩ của nhiều người Việt mình, ở trong nước và trên khắp thế giới, luôn nghĩ về chủ quyền, lãnh thổ, lãnh hải, hải đảo của ta suốt thời gian qua.

Về phần mình, tôi nghiệm ra rằng, cuộc đấu tranh giành-giữ chủ quyền biển đảo trong thời đại hội nhập quốc tế ngày nay, suy cho cùng phải có kiến thức, có lý có lẽ. Phải chuẩn bị thật tốt mọi hiểu biết về vấn đề phức tạp và tế nhị này. Bởi biên giới, biển đảo là những vấn đề sống còn, an nguy quốc gia, cần vận dụng những hiểu biết và chứng cớ đã qua – là lịch sử và các hoàn cảnh lịch sử rất cụ thể, đa phần không lặp lại lần thứ hai.

Về kiến thức này, không những người có trách nhiệm với đất nước phải trang bị, mà cả công dân bình thường cũng cần trìm hiểu, tiếp cận. Có hiểu biết để khi cần sẽ lên tiếng đúng lúc đúng chỗ, sẽ là sự hỗ trợ đắc lực và cần thiết cho chính quyền, cho nhà nước.

Nói về biên giới lãnh thổ, về lãnh hải biển đảo – với chủ quyền của nó - là phải nói đến chứng cớ, đến các thực tế lịch sử. Những chứng cớ như vậy cần phải dựa vào cơ sở pháp lý vững vàng, vào các thông lệ của luật pháp quốc tế quy định.

Dù có người bảo, thì rồi cũng là “mạnh vì gạo bạo vì tiền” cả thôi, chứ lý lẽ ai nghe! Nước to nước mạnh họ anh-pô-zê hết cả thôi (imposer/áp đặt). Chúng tôi cho rằng không thể đến mức đó, một mức quá tồi tệ như thế trong thời đại liên thuộc giữa các quốc gia như lúc này (tức “tính phụ thuộc lẫn nhau” ngày càng chặt chẽ trong thời đại ngày nay).

Thế giới giờ đây “nhỏ bé” lắm, thông tin rất nhanh, không lẽ cứ nhất thiết to xác là lấn át tất thảy. Là sự cá lớn nuốt cá bé như xưa kia hay sao?

Đồng ý là phải có sức mạnh (ở đây hiểu là tiềm lực quân sự), nhưng không thể chỉ dựa vào sức mạnh như thế nào đó là muốn làm gì cũng được trong thế giới hiện đại. Còn phải có chính nghĩa, có lẽ phải, có luận cứ luật pháp hẳn hoi. Tức các yêu sách về lãnh thổ lãnh hải nếu hai nước không thương lượng được với nhau, thì vấn đề có thể đưa ra quốc tế, tức một dạng “quốc tế hóa” vấn đề (bằng nhiều hình thức, trong đó có hình thức khởi kiện trước tòa án quốc tế).

Chả thế mà Liên hợp quốc đã dành nhiều công sức hàng thập niên để soạn thảo ra Công ước về luật biển - mà năm 1982 tổ chức quốc tế này đã quyết định đa số nước thành viên thông qua. Đến nay đã cả trăm nước chuẩn y tham gia Công ước. Và với nước ta, Quốc hội cũng đã phê chuẩn việc tham gia toàn phần Công ước quan trọng này.

*

Nhân nói về chuyện những tranh chấp, bất đồng trong các vấn đề về lãnh hải, về biển đảo, tôi lại nhớ lại câu chuyện cách đây hơn 30 năm.

Là vào năm 1978, ta ký với Liên Xô một loại hiệp ước hữu nghị, được hiểu là tăng cường mối liên minh chặt chẽ hơn về chính trị và an ninh với quốc gia đàn anh cùng phe xã hội chủ nghĩa lớn nhất khi đó.

Kể ra thì điều ấy cũng chỉ là một hoạt động cam kết quốc tế thông thường của một quốc gia có chủ quyền. Thế nhưng Trung Quốc lại không muốn ta làm điều đó. Và họ bật dựng lên như chiếc lò xo nén lâu ngày. Nhà cầm quyền Bắc Kinh chuyển ngay lập tức sang lập trường thù nghịch với nước ta.

Ban đầu là công khai tuyên chiến trên thông tin truyền thông.

Rồi kế đến các hành động chống Việt Nam đã diễn ra. Đầu tiên xúi giục Polpot gây sự với ta trên vùng biên giới phía Tây Nam (đến 1978 là đỉnh điểm các vụ khiêu khích, rồi tập kích vào đất ta, giết hại dã man đồng bào ta). Còn ở phía bắc thì Trung Quốc gây vụ xua đuổi nạn kiều đầy kịch tính, rồi tấn công 6 tỉnh giáp biên giới với họ (2/1979), tàn sát biết bao thường dân vô tội của chúng ta...

Những năm cuối thập kỷ 1970 kéo dài tới cuối thập kỷ 1980, Trung Quốc đã chống đối ta hết sức gay gắt và quyết liệt trong vấn đề Campuchia trên tất cả các diễn đàn quốc tế.

Cơ quan tôi hồi đó là tờ báo ngoại văn làm công tác tuyên truyền đối ngoại nên được Bộ Ngoại giao đặt hàng, xuất bản những tập sách mỏng (gọi là brochure) để phục vụ đấu tranh ngoại giao. Tôi rất nhớ anh Vũ Cận, người đã chủ trì làm nhiều tập sách loại này. Tuổi tác như thế hệ Vũ Cận, chúng tôi phải gọi là chú là bác mới đúng “vai vế tuổi tác”.

Nhà báo Vũ Cận mất đã được hơn chục năm nay. Sinh thời bác Vũ Cận là một nhà báo rất có tài. Ông làm việc nghiêm túc, nhất là ở khâu chuẩn bị tư liệu cho những bài viết. Giỏi ngoại ngữ, ông có thể viết bài trực tiếp bằng tiếng Pháp và tiếng Anh. Ông tâm đắc với vấn đề chủ quyền biển đảo nên viết tập sách về Hoàng Sa và Trường Sa trong một thời gian kỷ lục, tức là rất nhanh, chưa đến ba tháng đã xong bản thảo.

Lúc sưu tầm tài liệu viết tập sách này, bác Vũ Cận không ngần ngại “gặp đi gặp lại” những chuyên gia lão luyện ở Ban Biên giới Chính phủ, như cụ Lưu Văn Lợi, cụ Lê Minh Nghĩa... Rồi ông còn vào thư viện nhiều lần lục tìm sách vở và các tư liệu lịch sử, khảo cổ.

Tôi nhớ bác Vũ Cận còn dành thêm nhiều buổi khác để tìm gặp, chuyện trò với các vị trí thức tên tuổi khác nữa, như các nhà sử học, nhà dân tộc học, cả các nhà quân sự, để hỏi han về những chi tiết mà bác Cận cho là quan trọng và tế nhị, cần phải hiểu thật rõ, thật rành mạch.

Bác Vũ Cận có lần nói với tôi, viết về những điều quan trọng như chủ quyền lãnh thổ, phải hiểu “tối đa” vấn đề. Hiểu cho ra “ngọn ngành”, chứ với tài liệu để viết được cho một vấn đề thiêng liêng như thế này, anh không được qua qua quít quít, cưỡi ngựa xem hoa...

Trong cơ quan tôi thuộc lớp thanh niên trẻ may được bác Cận dành chút cảm tình riêng. Nên rất hay được gọi đi theo nhà báo lớn “học nghề”.

Hồi đó máy ghi âm máy ảnh chưa thông dụng, tôi thấy các cuốn sổ tay ghi chép của bác Vũ Cận luôn đầy ắp chi chít những chữ và hình vẽ, bản đồ... Những nét chữ thì đến lạ, lúc nào cũng đều chằn chặn, đủ hiểu bác Cận rất công phu dành cho việc ghi chép.
Có buổi quan sát ông chăm chú với cuốn sổ tay và cây bút bi, tôi có cảm tưởng như ông muốn ghi hết tất cả các ý nói ra của người đối thoại.

Sách đó viết ra chỉ hơn trăm trang, nhưng nội dung cô đọng nên nêu bật được chủ quyền thực tế, chủ quyền pháp lý của nước ta về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Sách có 2 bản riêng nhau, in ra 2 cuốn, một cuốn tiếng Pháp và một cuốn tiếng Anh (tôi nhớ bìa bản tiếng Pháp là “Les deux Archipels: Paracel et Spratly). Đó là tên quốc tế gọi hai quần đảo trên Biển Đông này: Paracel và Spratly.

Trong sách còn in kèm nhiều tấm bản đồ cổ, những hiện vật và chứng thực “khảo cổ học” đào được ở trên đảo, đều chứng minh nhiều thế hệ ông cha ta đã từng sinh sống, cả đóng quân canh giữ đảo, cả đánh cá trú mưa bão suốt bao thế kỷ lâu dài trên các hòn đảo của hai quần đảo này.

Hồi ấy chưa có Công ước luật biển Liên hợp quốc như bây giờ, nhưng cách thức lập luận của cuốn sách đã rất chặt chẽ về mặt pháp lý. Theo báo cáo của nhiều Sứ quán nước ta gửi về, cuốn sách này có tiếng vang, nhận được sự đồng tình của chính giới và những học giả, những nhà báo nước ngoài thời kỳ ấy. Và người ta đã giới thiệu lại vấn đề này cho độc giả phương Tây.
Đáng tiếc những năm gần đây ta không tái bản cuốn sách này. Cũng không thấy viết mới được những cuốn sách, hoặc những tài liệu có nội dung tương tự để chuyển ra nước ngoài, nhằm vào độc giả nước ngoài, tranh thủ dư luận quốc tế. Có thể có vấn đề gì đó tế nhị và nhạy cảm ở đây chăng? Nhưng dù có vậy, chúng tôi nghĩ cũng phải tìm ra cách để nói, để trình bày các vấn đề này “ra ngoài biên giới”.

Phải nói thêm, trong suốt quá trình lịch sử lâu dài của Việt Nam, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa luôn luôn gắn chặt với chủ quyền pháp lý và thực tế của nước ta. Đáng tiếc là vào năm 1974, trong khi chúng ta tập trung đánh Mỹ, Trung Quốc đã đưa hải quân của họ xâm chiếm đảo Hoàng Sa lúc đó do chính quyền Sài Gòn quản lý (và khi viết cuốn sách nói trên, là chưa diễn ra sự kiện Trung Quốc tấn công chiếm mấy đảo ở quần đảo Trường Sa, sát hại gần sáu chục cán bộ chiến sĩ hải quân Việt Nam vào năm 1988). Đó thật là những mất mát, những khúc quanh không mong muốn của lịch sử.

Nhưng mặt khác, chính những thực tế tàn nhẫn này (chủ quyền của chúng ta bị tước bỏ, bị chà đạp thẳng thừng trước lực lượng quân sự nước ngoài đến như thế), đã làm cả dân tộc chúng ta sực tỉnh, cũng là hiểu thêm cái giá của chủ quyền quốc gia mà đoàn kết lại, giành và giữ lấy chủ quyền toàn vẹn cho non sông. Con đường này có thể quanh co khúc khuỷu, tuy nhiên bất kể thế nào, dân tộc chúng ta vẫn phải đạt được mục tiêu cuối cùng là giành lại chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ (trên đất liền và trên biển cả).

*

Sau khi đọc kỹ cuốn sách và tài liệu liên quan đến vấn đề biển đảo mà ở trên bài tôi nhắc đến, cùng với ký ức một thời được chứng kiến cuốn sách HS-TS của bác nhà báo Vũ Cận viết và xuất bản từ những năm 1980 của thế kỷ trước, tôi tập hợp về đây ít tài liệu liên quan. Như một cách gom góp dần dần những tư liệu quý, những lập luận minh bạch rõ ràng và chính nghĩa của giới nghiên cứu nước nhà cho vấn đề chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải, hải đảo xem ra bao giờ cũng có ích cho nhiều lớp hậu thế chúng ta.

Tôi lại nhớ hồi tháng 5 năm nay, Tiến sĩ Nguyễn Quang A có gửi bức thư ngỏ đề nghị lập một Quỹ nghiên cứu các vấn đề biển đảo ở nước ta, tôi có bài viết sốt sắng ủng hộ sáng kiến này, đều đã công bố trên Website của nhà văn Trần Nhương. Gần đây, tháng 10/2009, nhà báo Đinh Phong ở miền Nam cũng nêu ý kiến lập một Quỹ vận động cho Hoàng Sa và Trường Sa, tức dành cho công việc nghiên cứu biển đảo mà ông cho rằng những công trình rất có giá trị của nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu về Hoàng Sa - Trường Sa rất đáng được ghi công đầu và phát huy nó cho các thế hệ tương lai.

Đúng là “xã hội hóa” các vấn đề nghiên cứu Hoàng Sa và Trường Sa, nghiên cứu về biển đảo ở nước ta là một hướng đi rất đúng. Nó cần được sự ủng hộ rộng rãi của toàn xã hội đương nhiên, nhưng cũng cần sự quan tâm và động viên của nhà nước nữa.

Dưới đây tôi ghi giữ lại một số tài liệu, bài viết có giá trị về chủ đề biển đảo và chủ quyền biển đảo. Coi như một số tài liệu cá nhân, dành cho sự “nhập môn” vào một vấn đề hết sức quan trọng này.

Nguyễn Vĩnh ---------------------

Giới thiệu tóm tắt Công ước luật biển Liên Hợp Quốc

Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển (
tiếng Anh: United Nations Convention on Law of the Sea - UNCLOS), cũng gọi là Công ước Luật biển hay cũng được những người chống đối nó gọi là Hiệp ước Luật biển, là một hiệp ước quốc tế được tạo ra trong Hội nghị về luật biển Liên Hiệp Quốc lần thứ 3 diễn ra từ năm 1973 cho đến 1982 với các chỉnh sửa đã được thực hiện trong Hiệp ước Thi hành năm 1994.

Công ước Luật biển là một bộ các quy định về sử dụng các
đại dương của thế giới, chiếm 70% diện tích bề mặt Trái Đất. Công ước đã được ký kết năm 1982 để thay thế cho 4 hiệp ước năm 1958 đã hết hạn.
UNCLOS có hiệu lực năm 1994, và đến nay, 154 quốc gia và Cộng đồng châu Âu đã tham gia Công ước này. Hoa Kỳ không tham gia vì nước này tuyên bố rằng hiệp ước này không có lợi cho kinh tế và an ninh của Mỹ.
Công ước quy định quyền và trách nhiệm của các quốc gia trong việc sử dụng biển, thiết lập các hướng dẫn rõ ràng cho các hoạt động kinh doanh, bảo vệ môi trường và cải thiện quản lý các tài nguyên thiên nhiên đại dương. Các sự kiện mà thuật ngữ đề cập trong Công ước là: Công ước về Luật biển Liên Hợp Quốc lần 1, Công ước về Luật biển Liên Hợp Quốc lần 2, Công ước về Luật biển Liên Hợp Quốc lần 3. Công ước này là kết quả của Công ước về Luật biển Liên Hợp Quốc lần 3 và cũng mang tên gọi Công ước về Luật biển Liên Hợp Quốc.
Trong khi Đại hội đồng Liên Hợp Quốc nhận được các công cụ phê chuẩn và gia nhập và Liên Hợp Quốc quy định ủng hộ các cuộc họp của các quốc gia là thành viên của Công ước thì Liên Hợp Quốc không có vai trò hoạt động trong việc thi hành Công ước này. Tuy nhiên các tổ chức liên chính phủ tự trị như: Tổ chức Hàng hải Quốc tế, Ủy ban Cá voi Quốc tếCơ quan quản lý Đáy biển
……………..

Lập trường chính thức của Việt Nam gần 10 năm trước đây:
“Chính phủ Việt Nam ủng hộ mạnh mẽ Công ước năm 1982 của Liên hợp quốc về Luật biển và luôn coi Công ước này là khuôn khổ cho các hoạt động quốc gia, khu vực và toàn cầu trong các vùng biển và thềm lục địa” - Đại sứ Phạm Bình Minh, Phó trưởng phái đoàn đại diện Việt Nam tại Liên hợp quốc đã phát biểu như vậy tại phiên họp toàn thể của Đại hội đồng Liên hợp quốc khóa 55 (năm 2000) về đề mục 34 "các đại dương và Luật về biển", ngày 26/10, tại New York.

Đại sứ đánh giá cao nỗ lực to lớn và đóng góp quý báu của Cơ quan phụ trách các vấn đề đại dương và Luật biển (Cơ quan về các vấn đề luật pháp) và các thể chế quốc tế liên quan đến vấn đề "các đại dương và Luật biển" trong năm nay.

Điều vô cùng quan trọng là Công ước năm 1982 của Liên hợp quốc về Luật biển phải được các nước thành viên thực hiện nghiêm chỉnh.

Theo Công ước này, các nước thành viên phải tôn trọng chủ quyền, các quyền về chủ quyền và quyền hạn của nước khác đối với vùng biển, thềm lục địa và các vùng đặc khu kinh tế của nước đó. Những hoạt động, tuyên bố và thoả thuận đơn phương của các nước phải triệt để tôn trọng các điều khoản của Công ước. Do đó, Việt Nam coi những gì đi ngược lại các điều khoản của Công ước và các phụ trương của nó là không có giá trị.

Là một nước thành viên của Công ước, Việt Nam luôn tôn trọng các điều khoản của Công ước và thực hiện những cam kết quốc tế của mình; vì thế, Việt Nam yêu cầu các thành viên khác cũng làm như vậy.

Dựa vào các điều khoản của Công ước năm 1982 của Liên hợp quốc về Luật biển, Chính phủ chúng tôi tiếp tục thông qua các luật và quy định mới và sửa đổi những luật đã lỗi thời cho phù hợp giữa luật quốc gia và luật quốc tế về biển.

Trong khi thực hiện chương trình quốc gia về các vấn đề biển, Chính phủ chúng tôi dành ưu tiên cao cho việc giáo dục nhân dân về việc làm thế nào khai thác tốt nhất, cũng như quản lý và bảo tồn các nguồn tài nguyên biển và môi trường. Chúng tôi cũng tập trung phát triển hợp tác khu vực và quốc tế trong công cuộc nghiên cứu khoa học biển, chuyển giao kỹ thuật, đánh cá, thăm dò và khai thác dầu. Đại sứ nhấn mạnh rằng với mong muốn tạo ra môi trường thuận lợi dựa vào sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau đối với việc giải quyết những tranh chấp tương lai về các đường ranh giới biển trong khu vực Biển Đông, Việt Nam đang nỗ lực hợp tác với Trung Quốc và các nước thành viên khác trong Hiệp hội các nước Đông Nam á (Asean) để xây dựng luật ứng xử trên Biển Đông và ủng hộ hoàn toàn Tuyên bố Asean 1992 và Tuyên bố Asean-Trung Quốc 1997 về các nguyên tắc giải quyết tranh chấp ở Biển Đông.

Cuối cùng, Đại sứ khẳng định lại sự sẵn sàng hợp tác đầy đủ của Chính phủ Việt Nam trong việc thực hiện có hiệu qủa Công ước năm 1982 của Liên hợp quốc về Luật biển và cam kết sẽ thúc đẩy chế độ trật tự về đại dương trên tinh thần hiểu biết và hợp tác như đã nêu trong Công ước.
----------------------


Bài phỏng vấn ông Lưu Văn Lợi:
Ông Lưu Văn Lợi sinh năm 1913, nguyên chánh văn phòng - trợ lý bộ trưởng ngoại giao, nguyên trưởng Ban biên giới thuộc Hội đồng Bộ trưởng (1978-1989). Ông là tác giả của nhiều cuốn sách, bài viết về chủ đề biên giới, lãnh thổ.

* Thưa ông, về mặt lịch sử VN đã xác lập chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa như thế nào?

- Sau khi vào trấn thủ xứ Thuận Hóa (là địa danh hành chính cũ của vùng đất gồm Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế và bắc Đà Nẵng hiện nay) năm 1558, Chúa Nguyễn đầu tiên là Nguyễn Hoàng đã gây dựng và mở mang xứ Thuận Hóa và gọi là miền Trong.

Ông chỉ thị cho các chúa Nguyễn kế vị phải tiến ra biển tìm đất đai mới. Các chúa kế vị đã lập đội Hoàng Sa với 70 suất đội viên và mang sáu tháng lương thực tiến ra phía Đông. Đội phát hiện vô số đảo không có chủ, họ trụ lại đó và gọi là bãi Cát Vàng. Từ đó hằng năm các chúa Nguyễn đều cử đội Hoàng Sa ra bãi Cát Vàng và đổi tên thành Hoàng Sa để làm hai việc.

Thứ nhất, khai thác tài nguyên của quần đảo, bao gồm hải sản và hóa vật của các tàu bị đắm trôi dạt vào quần đảo. Thứ hai, bảo vệ chủ quyền quần đảo. Sau khi được báo cáo về bãi Cát Vàng, quần đảo được nhập vào huyện Bình Sơn thuộc phủ Quảng Ngãi, sau là tỉnh Quảng Ngãi.

Năm 1816, vua Gia Long cử thủy quân và đội Hoàng Sa ra đảo Hoàng Sa kéo cờ và đo đạc thủy trình. Năm 1833, vua Minh Mạng cử đội Hoàng Sa và thủy quân ra xây một miếu, cắm mốc chủ quyền và trồng cây trên đảo để khi cây lớn, tàu thuyền có thể nhận ra đảo từ xa. Như vậy VN đã tổ chức đội Hoàng Sa để xác lập chủ quyền và khai thác quần đảo Hoàng Sa từ nhiều thế kỷ trước.

* Thưa ông, có phải luật pháp quốc tế và nhiều quốc gia đã thừa nhận chủ quyền quần đảo Hoàng Sa thuộc về nước ta?

- Theo luật pháp quốc tế, một quốc gia muốn có danh nghĩa chủ quyền phải có hai thành tố: một, thật sự chiếm đóng (vì thời các nước đi tìm đất mới, có nước tìm ra rồi bỏ hoặc không thật sự đến đó mà chỉ nghe nói); hai, giữ rồi thì phải thật sự thực hiện quyền làm chủ của mình.

Trước đây, Trung Quốc tuy nghe nói đến quần đảo Hoàng Sa từ lâu nhưng chưa hề đến bao giờ, và càng không bao giờ thực hiện chủ quyền gì trên các đảo đó. Trong khi suốt từ các đời chúa Nguyễn về sau, ta tiếp tục quản lý hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và tư liệu mới nhất của ta cho thấy thời vua Bảo Đại, nhà Nguyễn vẫn tiếp tục quản lý quần đảo Hoàng Sa.

Vua Bảo Đại đã quyết định không để Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Ngãi mà đưa về thuộc tỉnh Thừa Thiên, và năm 1939 quân chủng khố xanh Trung kỳ xây dựng công trình phòng thủ trên đảo Hoàng Sa được vua Bảo Đại tặng thưởng huân chương Long tinh.

Trung Quốc đã xây dựng sân bay (dài 2.700m, rộng 120m) tại đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa - Ảnh tư liệu

* Chúng ta đã quản lý Hoàng Sa suốt thời gian rất dài như vậy nhưng vì sao lại bị chiếm mất? Quá trình ấy đã diễn ra như thế nào, thưa ông?

- Trong suốt nhiều thế kỷ Trung Quốc chấp nhận sự chiếm hữu của VN và không phản đối hoạt động của đội Hoàng Sa. Thậm chí có những trường hợp quan chức Trung Quốc nói đảo Hoàng Sa không thuộc Trung Quốc. Thế nhưng đến năm 1909, Trung Quốc cử đô đốc Lý Chuẩn đưa ba pháo thuyền ra Hoàng Sa và đổ bộ lên một đảo kéo cờ, bắn súng và từ đó họ nói là họ có chủ quyền với quần đảo Hoàng Sa mà họ gọi là Tây Sa.

Năm 1956, khi Pháp rút khỏi Đông Dương, Trung Quốc cho quân ra chiếm nửa phía đông của Hoàng Sa và năm 1959, Trung Quốc dùng quân đội giả làm ngư dân tiến ra các đảo phía tây của quần đảo Hoàng Sa nhưng âm mưu chiếm phần còn lại thất bại vì quân đội Sài Gòn trên đảo đã kịp thời đối phó và bắt làm tù binh mấy chục “ngư dân” cùng năm thuyền vũ trang.

Năm 1974, lợi dụng tình hình chính quyền Sài Gòn ở miền Nam suy yếu nên Trung Quốc đã ném bom bốn hòn đảo phía tây Hoàng Sa, cho quân đổ bộ lên và chiếm hữu hoàn toàn quần đảo Hoàng Sa sau cuộc đụng độ với hải quân Sài Gòn. Ở thời điểm này, họ chưa hề đến Trường Sa.

Như vậy với câu hỏi “Ta mất Hoàng Sa như thế nào?”, câu trả lời là vì Trung Quốc dùng vũ trang tấn công. Việc làm của Trung Quốc vi phạm thô bạo bản Tuyên bố ngày 24-10-1970 của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc về các nguyên tắc của công pháp quốc tế
liên quan đến các quan hệ hữu nghị và sự hợp tác giữa các quốc gia.

"Với biển Đông, VN nên dân tộc hóa và quốc tế hóa vấn đề. Dân tộc hóa nghĩa là tiếp tục làm cho cả dân tộc cùng quan tâm. Quốc tế hóa thì như vừa rồi VN đã gửi công hàm lên Liên Hiệp Quốc bác bỏ bản đồ đường lưỡi bò của Trung Quốc"

* Ông có nhận định gì về “đường lưỡi bò” mà Trung Quốc tuyên bố là biên giới trên biển của họ?

- Từ năm 1948, Trung Quốc chính thức tuyên bố cái gọi là “đường lưỡi bò” gồm chín đoạn cách rời nhau, chạy quanh biển Đông làm biên giới trên biển của họ. Tuyên bố đó không có cơ sở pháp lý gì.

Tháng 6 vừa rồi Trung Quốc gửi bản đồ “đường lưỡi bò” đó lên Ủy ban Ranh giới thềm lục địa của Liên Hiệp Quốc với bản giải thích không thể hiểu nổi. Trong đó nêu “Trung Quốc có chủ quyền không ai có thể tranh cãi” đối với các đảo trong biển Đông và “các vùng biển lân cận và có quyền tài phán với các vùng biển liên quan cũng như đáy biển và lòng đất của những vùng biển này”. Nhưng không nói rõ các vùng biển lân cận, liên quan... cụ thể là vùng biển nào và không nêu cơ sở pháp lý nào.

VN đã gửi công hàm cho Liên Hiệp Quốc bác bỏ cái gọi là đường biên giới biển của Trung Quốc.

Như vậy, cơ sở mạnh nhất của VN là có chủ quyền hoàn toàn đúng pháp luật quốc tế với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa là bộ phận chiến lược của lãnh thổ VN nên chúng ta cần kiên quyết đấu tranh để thu hồi hai quần đảo này và giải quyết vấn đề bằng biện pháp hòa bình.

(Theo Báo Tuổi trẻ)
----------------

Công trình nghiên cứu của ông Nguyễn Nhã

HOÀN CẢNH LỊCH SỬ DẪN ĐẾN
TRANH CHẤP CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM
TẠI QUẦN ĐẢO HOÀNG SA & TRƯỜNG SA
NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP

Đây là Công trình nghiên cứu của Tiến sĩ Sử học Hãn Nguyên Nguyễn Nhã (Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam)

Dưới đây là Bản tóm tắt:

Hoàn cảnh lịch sử bắt đầu từ năm 1909, Chinh quyền tỉnh Quảng Đông, Trung Hoa cho rằng Hoàng Sa của Việt Nam là đất vô chủ, nên đã có hành động khảo sát, chiếm hữu theo cung cách của Phương Tây, đã không gặp bất cứ phản ứng nào của Việt Nam vì Việt Nam bị mất hết chủ quyền ngoại giao vào tay người Pháp, trong khi Pháp vốn biết trước ý đồ của chính quyền Quảng Đông, song vẫn không can thiệp ngay vì sợ chủ nghĩa dân tộc sô-vanh (chauvin) bùng dậy ở Trung Hoa , làm ảnh hưởng đến quyền lợi của Pháp ở Trung Hoa .Tùy theo từng thời kỳ lịch sử, từ giai đoạn 1(1909-1930), giai đọan 2 (1930-1945), giai đoạn 3 (1945-1954), giai đoạn 4 (1954-1975) , giai đoạn hiện nay (1975 đến nay), có những hoàn cảnh lịch sử khác nhau, dẫn đến những nguyên nhân tranh chấp khác nhau, tính chất tranh chấp khác nhau, liên tiếp không ngừng cho đến tận ngày nay.

Khi thực dân Pháp rút quân khỏi Việt Nam vào tháng 4/1956 để lại khoảng trống lực lượng bố phòng trong khi đang diễn ra chiến tranh lạnh, thế giới chia hai phe: phe tư bản chủ nghĩa và phe xã hội chủ nghĩa. Việt Nam lại bị chia cắt có hai chính quyền, theo Hiệp định Genève mà Trung Quốc đã ký, phía nam vĩ tuyến 17 trong đó bao gồm quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa do chính quyền Sài Gòn quản lý, đã không thể bảo vệ hiệu quả chủ quyền vốn có của mình tại Hoàng Sa và Trường Sa, khiến Trung Quốc, Đài Loan, Philippines trong bối cảnh chiến tranh lạnh ấy đã vội vã chiếm cứ một số đảo tại Hoàng Sa & Trường Sa. Khi Mỹ ký Thông cáo chung Thượng Hải với Trung Quốc năm 1972 và ký Hiệp định Paris năm 1973, rút quân ra khỏi Việt Nam, không can thiệp để Trung Quốc chiếm toàn thể Hoàng Sa vào tháng 1 năm 1974. Nguyên nhân tranh chấp trong thời kỳ này đã thay đổi về chất, sự đối đầu trong chiến tranh lạnh, và nhất là trong chiến tranh nóng hai chính quyền Nam và Bắc có những đồng minh, đồng chí anh em ủng hộ lẫn nhau trong tranh chấp mang tính quốc tế này.

Sau năm 1975, Việt Nam đã thống nhất , thế lực chính trị quốc tế có nhiều biến động ảnh hưởng đến Việt Nam trong đó có việc tranh chấp về Hoàng Sa và Trường Sa vẫn tiếp tục, không những vì vị trí chiến lược vốn có tầm quan trọng lớn lao cũng như tài nguyên nhất là trữ lượng dầu khí tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ...

Sự thực lịch sử ra sao và giải pháp?

Các tư liệu chứng minh chủ quyền của Việt Nam đã xuất hiện liên tục qua các đời: từ đầu thời Chúa Nguyễn (tức đầu thế kỷ XVII), sang thời Tây Sơn rồi tới triều Nguyễn (từ vua Gia Long) qua đội dân binh Hoàng Sa và đội Bắc Hải được đội Hoàng Sa kiêm quản, Việt Nam có khoảng gần 30 tư liệu các loại, chủ yếu là tài liệu công trong đó có đặc biệt cả châu bản, hội điển chép những hành động của Nhà nước chiếm hữu, thực thi chủ quyền như vẽ bản đồ, cắm mốc, dựng bia, xây miếu thờ (Hoàng Sa Tự - chùa HS), trồng cây, đào giếng… của thủy quân triều Nguyễn chứ không còn ít ỏi như Thư của Toàn quyền Pasquier gửi cho Bộ trưởng Bộ Thuộc địa ngày 18/10/930, mà người Pháp lúc ấy cũng đã khẳng định chủ quyền của Việt Nam hết sức rõ ràng.
Trong khi ấy Tư liệu Phương Tây như Jean Baptiste Chaigneau, Gutzlaff (năm 1849), nhất là Giám mục Taberd xuất bản năm 1833, cho rằng Hoàng đế Gia Long chính thức khẳng định chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa năm 1816 và trong An Nam Đại Quốc Họa Đồ của giám mục Taberd xuất bản năm 1838, phụ bản của cuốn từ điển La tinh- Annam, có ghi rõ «Paracels seu Cát Vàng » với tọa độ rõ ràng như hiện nay chứ không phải như Trung Quốc cho là ven bờ biển.

Ngay tư liệu của Trung Quốc như Hải Ngoại Kỷ Sự của Thích Đại Sán năm 1696, quyển 3, đã ghi chép Chúa Nguyễn đã sai thuyền ra khai thác các sản vật từ các tàu đắm trên quần đảo Vạn Lý Trường Sa tức Hoàng Sa …

Sự thực chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa đã rõ ràng như trên. Nguyên nhân tranh chấp đã không còn nữa. Việt Nam đã độc lập, thống nhất, làm bạn với tất cả các nước kể cả Trung Quốc, Mỹ, Nga…Vì thế không một chính quyền nào cũng như bất cứ người Việt Nam nào dù khác nhau chính kiến lại không coi trọng việc đòi lại Hoàng Sa về với Việt Nam và bảo toàn toàn vẹn Trường Sa. “Cái gì của César phải trả lại cho César”. Đối với các nước Asean trên cơ sở Công ước 1982 về luật biển sẽ tương nhượng trong tinh thần hợp tác giữa các thành viên trong khối càng ngày càng chặt chẽ , đôi bên đều có lợi. Đối với Trung Quốc, như người ta nói “núi liền núi, sông liền sông”, đã có những bài học lịch sử quí giá. Việt Nam với truyền thống hàng ngàn năm luôn kiên quyết bảo vệ quyền độc lập tự chủ của mình, song luôn luôn tôn trọng nước đàn anh Trung Quốc, luôn theo truyền thống làm “phên dậu của Trung Quốc”, không bao giờ làm hại đến quyền lợi Trung Quốc.

Bất cứ giải pháp nào dựa vào sức mạnh như người Nhật đánh chiếm bằng vũ lực Hoàng Sa, Trường Sa năm 1938, 1939; hoặc thực dân Pháp suốt thập niên 20 đến thập niên 50 thế kỷ XX dựa vào ưu thế quân sự của mình, cũng như Trung Quốc dùng võ lực năm 1974,1988 chỉ mang tính nhất thời... chắc chắn không phù hợp với nguyện vọng của nhân dân các dân tộc của thời đại ngày nay.

Toàn bộ công trình, có toàn văn như sau:

Hoàn cảnh lịch sử dẫn đến tranh chấp chủ quyền
của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa & Trường Sa

Nguyên nhân và giải pháp

A- HOÀN CẢNH LỊCH SỬ DẪN ĐẾN VIỆC CHÍNH QUYỀN TỈNH QUẢNG ĐÔNG (TRUNG HOA) KHẢO SÁT TRÁI PHÉP QUẦN ĐẢO HOÀNG SA VÀO NĂM 1909 VÀ TIẾP TỤC LÚN SÂU VÀO VIỆC XÂM PHẠM CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM Ở HOÀNG SA CHO ĐẾN NĂM 1930 KHI CHÍNH QUYỀN THỰC DÂN PHÁP THAY ĐỔI QUAN ĐIỂM

Việt Nam bị Pháp xâm lược năm 1858, mất hết chủ quyền tự chủ ngoại giao theo Hiệp ước cuối cùng ký với Pháp năm 1884, không bảo vệ được chủ quyền của mình tại Hoàng Sa khi bị các nước khác xâm phạm .

Chính trong thời Pháp thuộc đã xảy ra sự kiện chính quyền Quảng Đông (Trung Hoa) do Tổng Đốc Trương Nhân Tuấn đứng đầu vào tháng 6 năm 1909 như báo chí Quảng Châu hồi bấy giờ đưa tin, lần đầu tiên đã cử một hạm đội nhỏ của Nhà Thanh đã đi khảo sát trái phép quần đảo Paracels, vốn của Việt Nam từ lâu, tên chữ là Hoàng Sa hay tên nôm gọi là Cát Vàng hay Cồn Vàng.

Tên Tây Sa mà chính quyền Quảng Đông mới đặt ra sau sự kiện tháng 10 năm 1907, chính quyền Nhà Thanh đuổi được nhóm thương gia người Nhật Nishizawa Yoshiksugu chiếm giữ đảo Pratas trong 3 tháng (từ 2 tháng 7 năm 1907). Cũng bắt đầu từ khi này, chính quyền Quảng Đông đã đặt tên Pratas là Đông Sa vốn là tên một đảo ở ngoài khơi tỉnh Quảng Đông, đã được ghi rất rõ trên bản đồ “Duyên Hải Toàn Đồ” trong sách Hải Quốc Văn Kiến Lục của Trần Luân Quýnh (1730).

Không phải chính quyền thực dân Pháp không biết sự kiện khảo sát trái phép này. Chính bức thư của lãnh sự Pháp Beauvais ở Quảng Châu gửi Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao Pháp ngày 4 tháng 5 -1909 đã nêu ý đồ của Trung Quốc xâm phạm chủ quyền Hoàng Sa của Việt Nam khi viết: "Như tôi đã trình bày với ông khi kết thúc bản báo cáo gần đây của tôi (số 86 ngày 1 tháng 5 năm 1909) về vấn đề các đảo Đông Sa (Pratas), vấn đề này khiến chính phủ Trung Hoa chú ý đến các nhóm đảo khác nằm dọc bờ biển của Thiên Triều và tới một mức độ nhất định có thể được coi như một bộ phận của Thiên triều, trong đó có quần đảo Paracels".[Monique,Chemillier-Gendreau, La souveraineté sur les archipels Paracels et Spratleys, Paris, L’Harmattan,1996,p.206].

Cũng cần lưu ý bức thư trên đã viết khi chính quyền Quảng Châu c̣òn đang chuẩn bị thực hiện chuyến khảo sát . Cuộc khảo sát diễn ra sau đó, có mặt cả người Đức, đã rời Hồng Kông vào ngày 21-5-1909 và về Quảng Châu vào ngày 9-6-1909.

Cũng trong thư trên đề ngày 4 tháng 5 năm 1909, lãnh sự Pháp ở Quảng Châu gửi cho Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao Pháp có một số nội dung đáng lưu ý sau đây:

Do ảnh hưởng của việc Nhật chiếm Pratas (Đông Sa), Trung Quốc muốn chiếm luôn quần đảo Paracels gần Hải Nam.

Cuộc khảo sát trái phép đầu tiên là của Ngô Kính Vinh đã cho thấy ở mỗi đảo Hoàng Sa đều có một ngôi miếu nhỏ xây kiểu nhà đá (tất cả tường mái là đá san hô và vỏ sò). [Monique,Chemillier-Gendreau, sđd, Paris, L’Harmattan,1996,p.207 ]

Các ngư dân Việt Nam mang cả vợ con đến sống ở Hoàng Sa, bị đối xử tàn tệ, vợ con bị bắt đến Hải Nam.[ Monique,Chemillier-Gendreau, sđd, Paris, L’Harmattan, 1996,p. 210]

Như thế chính phủ Pháp ngay tại chính quốc đã rõ ý đồ của chính quyền Trung Hoa dù chỉ là chính quyền địa phương xâm phạm chủ quyền của Việt Nam tại Paracels hay Hoàng Sa của Việt Nam. Sở dĩ Chính quyền Pháp không ngăn chặn hành động khảo sát trên vì nhiều lý do:

Một là khi ấy, Pháp chưa quan tâm đến vấn đề bảo vệ sở hữu quần đảo của nước “An Nam” mà Pháp bảo hộ theo Hiệp ước Patenôtre 1884. Vấn đề ngăn chặn ý đồ của Trung Hoa ngay từ năm 1909 mà Lănh sự Pháp ở Quảng Châu là Beauvais đã báo cáo, bị chính quyền Pháp ở mẫu quốc bỏ qua.

Điều này cũng dễ hiểu, nếu như các đảo ấy vốn thuộc sở hữu của nước Pháp hoặc thuộc đất Nam Kỳ , nhượng địa hay thuộc địa chứ không phải đất bảo hộ, thì chắc chắn chính phủ Pháp sẽ có hành động ngăn chặn ngay và sẽ không thể xảy ra tranh chấp lâu dài về sau. Nếu không chính phủ Pháp sẽ bị kết tội hay sẽ bị lên án do chính người Pháp hoặc giới chính trị hoặc những công dân yêu nước của Pháp.

Hai là chính quyền thực dân Pháp ngại sự ngăn chặn có thể làm phát sinh trong ḷòng dân chúng Trung Hoa một phong trào “sô vanh’ có hại cho quyền lợi Pháp ở Trung Quốc.

Điều này cũng đã được Ông Beauvais nêu ra trong chính văn thư báo cáo ngày 4-5-1909 gửi Ông Bộ trưởng Ngoại Giao Pháp và đã được chính phủ Pháp cân nhắc làm theo:

“ Như vậy , thưa Ông Bộ Trưởng, nếu ta còn lợi ích trong việc ngăn không cho Chính phủ Trung Hoa nắm lấy nhóm các đá ngầm này, có lẽ chúng ta sẽ dễ dàng nghiên cứu, tìm ra các lập luận chứng minh rõ ràng quyền của chúng ta và những bằng chứng không thể bác bỏ về quyền đó. Nhưng nếu việc đó không đáng làm, sau khi đã suy nghĩ chín chắn, có lẽ nên nhắm mắt làm ngơ. Một cuộc can thiệp của chúng ta sẽ có khả năng làm xuất hiện một phong trào sô vanh mới làm cho chúng ta bị thiệt hại nhiều hơn lợi ích mà việc sở hữu được thừa nhận đối với quần đảo Hoàng Sa đem lại( Cf. Monique Chemillier-Gendreau, La Souveraineté sur les Archipels Paracels et Spratleys”, L’Harmattan, 1996, p.211-212).

Trong văn thư đề ngày 14 Janvier 1921 của Ông Chủ Tịch Hội Đồng Cố Vấn của Bộ Ngoại giao Pháp (Le Président du Conseil , Ministre des Affaires Etrangères) gửi Bộ Trưởng Bộ Hải Quân Pháp cũng đã khẳng định Bộ ngoại Giao Pháp đã nghe theo ý kiến của Beauvais (Cf. Monique Chemillier-Gendreau, sđd, tr. 205).

Ba là các quan chức thực dân Pháp từ Phủ Toàn quyền đến Bộ Thuộc Địa hay Bộ Ngoại giao Pháp không biết rõ hoặc rất mơ hồ về sở hữu từ lâu thuộc về Việt Nam.

Có rất nhiều bằng chứng như chính Ông Beauvais trong bản báo cáo trên cũng không chắc chắn mà chỉ nói: “có lẽ sẽ dễ dàng nghiên cứu…”. …

Cho đến ngày 6 tháng 5 năm 1921, có nghĩa sau hơn 1 tháng ngày 30-3-1921, lệnh mang số 831 của Ban Đốc Chính chính quyền quân sự Miền Nam Trung Hoa sau phiên họp ngày 11-3-1921 đã quyết định sáp nhập về mặt hành chính các đảo Hoàng Sa vào huyện Yai Hien (Châu Nhai, đảo Hải Nam),Vụ Các Vấn đề chính trị và Bản Xứ thuộc Phủ Toàn Quyền Đông Dương đã có văn bản ghi chú( Note) ghi rất nhiều điều liên quan đến quần đảo Hoàng Sa lấy từ Hồ sơ hiện có ở Phủ Toàn Quyền Đông Dương, cho biết đã tìm trong kho tư liệu của hải quân Sàig̣òn, lưu trữ của Thống đốc Nam kỳ , của Phủ Toàn quyền không thấy có tư liệu nào có tính chất làm rõ quốc tịch của các đảo Hoàng Sa. Chính lúc Toàn Quyền Đông Dương ra chỉ thị điều tra về vấn đề quốc tịch của Hoàng Sa cũng là lúc nhận được bức thư của Tổng lănh sự Beauvais ở Quảng Châu báo tin có sự kiện chính quyền quân sự Nam Trung Hoa quyết định sáp nhập Hoàng Sa vào tỉnh Quảng Đông.

Rõ ràng sự kiện Chính quyền quân sự Miền Nam Trung Hoa ra tuyên bố sáp nhập Tây Sa tức Hoàng Sa của Việt Nam vào huyện Châu Nhai, đảo Hải Nam thuộc tỉnh Quảng Đông ngày 30 tháng 1 năm 1921 cũng đã xảy ra vào thời Pháp thuộc, khi Việt Nam đã hoàn toàn mất chủ quyền.

Khi c̣òn mơ hồ về chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Ḥoàng Sa, trong khi ấy thực chất quyền lực nhà nước là do chính quyền thực dân Pháp nắm, nên chính quyền thực dân Pháp không tích cực ngăn chặn sự vi phạm chủ quyền của chính quyền Qủang Đông tại quần đảo Hoàng Sa là chuyện đương nhiên. Chắc chắn khi Việt Nam có c̣òn chủ quyền, được độc lập tự chủ hay Hoàng Sa vốn thuộc chủ quyền của Pháp thì chính quyền nào cũng phải lấy nhiệm vụ tối thượng là bảo vệ sự toàn vẹn lănh thổ của nước mình. Vì thế chung qui không có sự ngăn chặn kịp thời sự xâm phạm chủ quyền của chính quyền quân sự Miền Nam Trung Hoa vào năm 1921 cũng như của chính quyền Quảng Đông năm 1909 chính là do Việt Nam bị Pháp đô hộ, không c̣òn chủ quyền để bảo vệ sự toàn vẹn lănh thổ của mình.

Vậy về phía Việt Nam nguyên nhân sâu xa hay khách quan dẫn đến sự tranh chấp không đáng có chính là Việt Nam bị Pháp đô hộ , mất hết chủ quyền để có thể bảo vệ lănh thổ của mình khi bị xâm phạm.

Về phía Trung Hoa , nguyên nhân khách quan là do ảnh hưởng của việc Nhật chiếm Pratas (Đông Sa), Trung Quốc muốn chiếm luôn quần đảo Paracels gần Hải Nam để tránh xảy ra sự kiện bất cứ nước nào nhất là các cường quốc hồi bấy giờ phỗng tay trên, chiếm cứ những đảo ở Nam Hải mà Trung Hoa coi là vô chủ.

Về phía chính quyền thực dân Pháp, nguyên nhân chủ quan chính là do quyền lợi riêng của Chính quyền thực dân Pháp đã khiến
Pháp không phản ứng kịp thời để Trung Hoa cho là đất vô chủ và đi sấu vào hành động xâm phạm chủ quyền của Việt Nam ở Ḥoàng Sa và sự thiếu hiểu biết do hạn chế của người đi đô hộ, không hiểu quan điểm của Nhà nước và nhân dân Việt Nam.
Song sau đó chính quyền thực dân Pháp lại bắt đầu quan tâm đến hành động trái phép của chính quyền Quảng Đông với quấn đảo Hoàng Sa. Vậy thì nguyên nhân nào khiến chính quyền thực dân Pháp bắt đầu quan tâm đến việc bảo vệ chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa trong thời gian từ năm 1921 đến 1930, Pháp bắt đầu thay đổi quan điểm. Đó chính là tầm quan trọng của vị trí chiến lược của quần đảo Hoàng Sa đối với an toàn quyền lực của Chính quyền thực dân Pháp về sự hiểu biết lập trường của Việt Nam (Theo Thượng thư Bộ binh Thân Trọng Huề giải thích).

Trước hết chính vì vị trí chiến lược quan trọng của quần đảo Hoàng Sa & Trường Sa cũng như Biển Đông đối với lănh thổ Pháp đang cai trị, nên thực dân Pháp ở Đông Dương phải cân nhắc lợi hại, đã quyết định đối mặt với những ý đồ tranh chấp chủ quyền của các nước khác trong đó có Trung Quốc.

Lúc ban đầu, trong bản báo cáo ngày 04 tháng 5 năm 1909, của Tổng lănh sự Pháp Beauvais ở Quảng Châu đã đề cập tới tầm quan trọng vị trí của quần đảo Hoàng Sa, song lại chưa sát sườn với lợi ích của chính quyền thực dân, dù có hệ trong đến hàng hải hay
sự đe dọa đối với ngư dân Việt nam như sau:

“Về vấn đề này, nhân viên của chúng tôi nhận xét rằng các đảo Hoàng Sa đối với chúng ta có một tầm quan trọng nhất định: vì nằm giữa tuyến đường đi từ Sàig̣òn đến Hồng Kông, các đảo đó là một mối nguy hiểm lớn đối với hàng hải và việc chiếu sáng ở đó có thể là cần thiết. Ngoài ra, các đảo đó thường có ngư dân An Nam và Trung Quốc qua lại: họ đến đó trong quá trình đánh cá để sơ chế sản phẩm. Đã xảy ra những cuộc đổ máu giữa ngư dân hai nước trong dịp đó (Cf. Monique Chemillier-Gendreau, La
Souveraineté sur les Archipels Paracels et Spratleys”, L’Harmattan, 1996, p.197).

Trong văn thư của Khâm Sứ Trung Kỳ Le Fol gửi Toàn Quyền Đông Dương vào ngày 22 tháng 1 năm 1929 đã nhấn mạnh về vị trí chiến lược của quần đảo Hoàng Sa:

“Trong tình hình hiện nay, không ai có quyền phủ nhận tầm quan trọng chiến lược rất lớn của các đảo Hoàng Sa. Trong trường hợp có xung đột, việc nước ngoài chiếm đóng chúng sẽ là một trong những mối đe dọa nghiêm trọng nhất có thể có đối với việc phòng thủ và sự toàn vẹn lãnh thổ của Liên bang [Đông Dương].

“Thực vậy, các đảo nói trên là sự kéo dài tự nhiên của Hải Nam. Một đối phương có thể thấy ở đó một căn cứ hải quân hùng mạnh nhờ những vụng và nhiều nơi tầu đậu tuyệt vời, và do tính chất của chúng thực tế là không thể đánh bật. Một đội tầu ngầm dựa vào căn cứ đó sẽ có thể, không những phong tỏa cảng Đà Nẵng là cảng quan trọng nhất của Trung Kỳ, mà còn cô lập Bắc Kỳ bằng cách ngăn cản việc đi đến Bắc Kỳ bằng đường biển. Lúc đó để liên lạc giữa giữa Nam Kỳ với Bắc Kỳ ta phải dùng đường sắt hiện có, một con đường rất dễ bị đánh v́ chạy dọc theo bờ biển, pháo hải quân đặt trên các chiến hạm có thể mặc sức phá hủy.”
“Đồng thời, mọi con đường thông thương giữa Đông Dương- Viễn Đông- Thái Bình Dương sẽ bị cắt đứt: hải lộ Sàig̣òn-Hồng Kông đi gần quần đảo Paracels , do đó nằm dưới sự kiểm soát trực tiếp của căn cứu trên các đảo”.(Cf. Monique Chemillier-Gendreau, La Souveraineté sur les Archipels Paracels et Spratleys”, L’Harmattan, 1996, p.174).

Mặc dù có những báo cáo rất rõ về tầm quan trọng của Hoàng Sa đối với việc bảo vệ lănh thổ thuộc địa Đông Dương của Pháp, song phải có sức ép của dư luận báo của người Pháp ở Đông Dương mới làm cho chính quyền thực dân Pháp có những hành động cụ thể để bảo vệ chủ quyền tại Hoàng Sa của nước được Pháp bảo hộ.

Đầu tiên với loạt bài trong các số 606, 622, 623, 627 (tháng 1, 5, 6 năm 1929), nhà báo Henri Cucherousset đã lược qua về chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa với những dẫn chứng hết sức cụ thể như: 1/Jean Baptiste Chaigneau viết năm 1820 dưới nhan đề : Notice sur la Cochinchine cho biết Năm 1816 vua Gia Long thực sự chiếm đảo Hoàng Sa.2/ Giám mục Jean Louis Taberd viết trong Journal of the Asiatic Society of Bengal, tậpVI, măm 1837, tr.737 và những trang kế tiếp, tập VII, năm 1838, tr.317 và những trang kế tiếp đề cập đến quần đảo Hoàng Sa trong mục Géographie de la Cochinchine. 3/ Dubois de Jaucigny viết trong L’Univers – Histoire et Description de tous les peuples de leurs religions. Moeurs, coutumes;Japon, Indochine,Ceylan xuất bản năm 1850 tại Paris, F. Didot xuất bản, có đoạn viết: “ …từ 34 năm về trước quần đảo Hoàng Sa( mà người Annam gọi là Cát Vàng đã được chiếm cứ bởi các người xứ Nam Kỳ”. Cucherousset còn viết những chi tiết về quần đảo Hoàng Sa trong Nam Việt Địa Dư [ Hoàng Việt Địa Dư?] , Minh Mạng năm thứ 14; Đại Nam Nhất Thống Chí, in thời Duy Tân, tập 6, tờ 18b, 19a cùng việc tàu De Lanessan thám sát Hoàng Sa năm 1925.”

Theo tác giả, quần đảo Hoàng Sa quan trọng do 5 đặc tính sau đây:1/ Trạm cho thủy phi cơ Sàig̣òn - Hồng Kông; Tourane- Philippines. 2/ Điểm tựa chiến lược cho tầu ngầm khi có chiến trảnh.3/ Trạm thông báo khí tượng. 4/ Nơi tranh gió băo cho tàu đánh cá. 5/ Giàu phốt phát. Lý do tác giả viết loạt bài vì nhân một đại úy người Anh muốn nhân danh Anh Hoàng đặt chủ quyền Anh lên đảo Sein đồng thời tác giả cực lực phản đối việc hải quân trung tá Rémy ở Sàig̣òn trả lời cho 1 công ty hàng hải Nhật rằng không biết quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của ai và việc ông Monguillot đã viết cho ông Gravereaud nói rằng quần đảo Hoàng Sa thuộc Trung Hoa.

Theo tác giả, chánh quyền bảo hộ Pháp phải chấp hữu chủ quyền trên quần đảo Ḥoàng Sa bằng các hành động:
a/Vẽ bản đồ tổng quát Hoàng Sa tỉ lệ 1/200.000, vẽ bản đồ chi tiết 1/25.000, vẽ bản đố hải quân và bản đồ địa chất.
b/ Đặt đài hải đăng.
c/ Đạt trạm quan sát và thông báo khí tưỡng.4/ Lập đội trú phòng trú đóng tại Hoàng Sa.

Tác giả còn luôn luôn trách cứ chánh quyền Pháp đã quá lơ là trong việc xác nhận và bảo vệ chủ quyền tại Hoàng Sa.

Sau đó chính bức thư của Toàn quyền Pasquier gửi cho Bộ trưởng Bộ Thuộc Địa ngày 18-10-1930 đã chấm dứt thái độ do dự của chính quyền Pháp đối với hành động xâm phạm trái phép của chính quyền Trung Hoa đối với chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa. vTrong bức thư trên, Toàn quyền Pasquier đã gửi tập tư liệu về quần đảo Hoàng Sa bao gồm : vMột đoạn trích bằng chữ Hán với bản dịch bằng tiếng Pháp của Đại Nam Nhất Thống Chí , quyển 6 hay biên niên sử của chính phủ An Nam.2. Một đoạn trích bằng chữ Hán với bản dịch bằng tiếng Pháp của Nam Việt Địa Dư, tập 2 hay Địa dư thời Minh Mạng [ Chú thêm của tác giả : tức Hoàng Việt Địa Dư Chí ].3. Một đoạn trích bằng chữ Hán với bản dịch bằng tiếng Pháp của Đại Nam Nhất Thống Chí hay địa dư thời Duy Tân.

Cùng kèm theo bốn thư phụ lục và bốn bản đồ, Toàn Quyền Pasquier viết: “ Chắc hẳn Ngài cũng đánh giá như tôi rằng chúng ta đã đủ để xác định không thể tranh cãi rằng An Nam đã thực sự nắm sở hữu quần đảo và làm như vậy trước năm 1909 nhiều.” (Cf. Monique Chemillier-Gendreau, La Souveraineté sur les Archipels Paracels et Spratleys”, L’Harmattan, 1996, p.233).

B- HOÀN CẢNH LỊCH SỬ DẪN ĐẾN VIỆC TRUNG HOA VÀ PHÁP TRANH CHẤP CHỦ QUYỀN CỦA HOÀNG SA & TRƯỜNG SA CỦA VIỆT NAM TỪ NĂM 1930 ĐẾN NĂM 1945 , THỜI GIAN PHÁP CÒN ĐÔ HỘ VIỆT NAM

Từ 1931 đến 1933, Cucherousset lại tiếp tục viết 7 bài viết cũng trên báo L’Éveil Économique de L’Indochine trong các số 685 ( 10-5-1931), 688 (31-5-1931), 743(26-6-1932), 744( 03-7-1932), 746( 17-7-1932), 777( 26-02-1933) 790(28-5-1933). Trong loạt bài báo kể trên, không thấy nhắc đến lịch sử xác lập chủ quyền của Việt Nam nữa mà chỉ tập trung vào thái độ của Toàn quyền Pasquier về việc xử lý việc bảo vệ chủ quyền ấy.Tác gia chỉ trích một lá thư của Toàn quyền Pasquier khi Ông này viết: “Chủ quyền của xứ Annam trên quần đảo Hoàng Sa là điều không thể chối căi được nhưng lúc này chưa phải cơ hội để xác nhận chủ quyền ấy .”Tác giả gay gắt chất vấn Ông Toàn Quyền: “Tại sao nay không phải là cơ hội?Trở lực nào đã ngăn cản xứ “Annam” nhìn nhận chủ quyền trên đảo Hoàng Sa mà họ đã chấp hữu từ trăm năm trước? Có phải chăng đợi đến lúc người Nhật khai thác đến tấn phốt phát cuối cùng?Có phải người Nhật đã trả thù lao một phần cho ai chăng?

Vì những bài báo lập luận vững chắc và chỉ trích nặng lời toàn quyền Pasquier, Ṭòa Soạn báo E.E.I bị ông Dự thẩm Bartet ra lệnh khám xét ban đêm buộc nhà báo phải nộp hồ sơ liên quan đến vụ Hoàng Sa. Trong số báo 743, Cucherousset cực lực phản đối và nhất quyết không giao nộp, nếu muốn nghiên cứu thì chỉ cho đọc tại chỗ.Trong số báo 746, Cucherousset viết nếu không có loạt bài của E.E.I thì có lẽ chính quyền Pháp làm ngơ vụ Trung Hoa chiếm hữu Hoàng Sa.

Trong số báo 777, Cucherousset đã trình bày tại sao ông phản đối Toàn quyền Pasquier nhún nhường trước hành động của Tổng Đốc Quảng Đông:
a/ Chính quyền tỉnh Quảng Đông không hề bao giờ được nước Pháp thừa nhận là một chính quyền tự trị.
b/ Chính phủ Trung Hoa ở Bắc Kinh lúc trước , ở Nam Kinh bây giờ, không hề bao giờ lên tiếng tranh giành quần đảo này và không thừa nhận chủ quyền Quảng Đông.
c/ Ngược lại từ hơn 100 năm nay rồi, nước Nam đã chấp hữu chủ quyền trên Hoàng Sa và sự việc này có ghi rõ trong văn khố của triều đình Huế. Hơn nữa chính quyền Quảng Châu không thể dựa vào lý do ngư phủ Trung Hoa thường xuyên ghé đảo để bắt rùa , phơi lưới để bảo Hoàng Sa thuộc Trung Hoa bởi ngư phủ Pháp cũng thường làm như vậy tại bờ biển Terre Neuve nhưng Terre Neuve vẫn thuộc nước Anh. Trong khi ấy trong 1 phiên họp của Hội Đồng Tư Vấn Đông Dương, để trả lời vị đại diện của xứ Annnam là ông Piguax, Toàn Quyền Pasquier cho biết vụ Hoàng Sa đã có tiếng vang tại Pháp và vị Tổng trưởng Bộ Thuộc Địa đã quyết định đưa nội vụ ra Ṭòa án quốc tế La Haye.

Ngoài tờ báo Eveil Economique, c̣òn nhiều báo của người Pháp ở Đông Dương và cả ở Pháp cũng đăng những bài về chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa như Revue Indochinoise Illustrée, số 38, 1929 ( Sàig̣òn), tr.605-616 , P.A. La Picque đã dẫn nhiều tài liệu về chủ quyền của Viêt Nam; việc chính quyền Quảng Đông trả lời không chịu trách nhiệm về việc dân Hải Nam cướp trên các tầu bị đắm Le Bellona năm 1895 và Imezi Maru 1896 vì Hoàng Sa không thuộc chủ quyền Trung Quốc; dịch lại bài báo đăng trên Quảng Châu Báo ngày 10-7-1909 kể chuyện chuyến đi khảo sát Hoàng Sa của hải quân tỉnh Quảng Đông. Mémoire No 3 du Service Océanographique de L’Indochine( Saigon), 1930, 24 tr. do J. de Lacour & Jabouillé kể chuyến đi khảo sát Hoàng Sa 21-7-1926 theo lời mời của M.A.Krempf . Avenir du Tonkin, số 10495( 17-04-1931),tr2 khẳng định năm 1816, vua Gia Long long trọng cho dựng cờ trên đảo vì thế cho nên dù năm 1909, Trung Hoa có muốn dành chủ quyền, chánh phủ Pháp phải lên tiếng xác nhận quyền bảo vệ các đảo ấy. Trong hoàn cảnh hiện nay, không ai có thể phủ nhận sự quan trọng có tính cách chiến lược của Hoàng Sa.
Nature ( Paris), số 2916,01-11-1933, tr.385-387 do Sauvaire-Jourdan viết trên tờ Công báo ngày 19-7-1933 đăng một thông tư về việc hải quân Pháp chiếm cứ một vài đảo ở Phía nam Biển Đông, điểm qua lịch sử chiếm hữu, vua Gia Long cho hải đội đổ bộ và dựng cờ trên đảo năm 1816 rồi đến sự kiện năm 1909 được bài báo ở Quảng Châu ngày 20-6-1909 mà tác giả cho là khôi hài cùng những đề nghị không nên bỏ rơi quyền sở hữu các đảo ấy. La Géographie, bộ LX ( tháng 11-12-1933), tr.232-243, A. Olivier Saix đưa ra những luận cứ theo đó chánh quyền bảo hộ của Pháp tại Việt Nam phải bảo vệ và duy tŕ chủ quyền cho Việt Nam vì:
a/ Hoàng Sa có vị trí rất cần thiết lập hải đăng.
b/ Là vị trí thiết lập đài quan sát khí tượng và trạm vô tuyến kịp thời bào thời tiết băo cho tàu bè.
c/ Hoàng Sa nhiều nguồn lợi kinh tế:phốt phát, cá , rùa..
d/ lợi ích quân sự từ Hoàng Sa phong tỏa Vịnh Bắc Việt , cảng Đà Nẵng, hải lộ quốc tế
e/ Lịch sử xác lập chủ quyền: Vua Gia Long đã cho hải đội Hoàng Sa đổ bộ lên đảo dựng cờ, lập cứ điểm, Thượng thư Bộ binh Thân Trọng Huề ngày 3-3-1925 nói rằng : “Các đảo đó bao giờ cũng là sở hữu của nước Annam, không có gì tranh cãi trong vấn đề này”.
Rõ ràng với sức ép dư luận trên, chính quyền thực dân Pháp đã phải hành động, trước hết khoảng 1930 đến 1933, Pháp đã thiết lập
chủ quyền tượng trưng tại Trường Sa cũng như Hoàng Sa..

Với Hoàng Sa thuộc về Trung Kỳ , đất bảo hộ của Pháp, nên không cần phải hành động xác lập chủ quyền mà chỉ cần những hành động thực thi chủ quyền, tiếp theo những hành động khảo sát Hoảng Sa đầu tiên năm 1925 của Viện Hải Dương Học Nha Trang là những hoạt động thể theo đề nghị của dư luận báo chí thời ấy . Ngày 1 5 – 6 – 1932 , chính quyền Pháp ra nghị định số 156- SC ấn định việc thiết lập một đơn vị hành chánh gọi là quận Hoàng Sa tại quần đảo Hoàng Sa.

Năm 1937, kỹ sư trưởng công chánh Gauthier nghiên cứu khả năng xây dựng một hải đăng trên đảo Pattle ( Hoàng Sa); năm 1938 Pháp bắt đầu phái các đơn vị bảo an tới các đảo và xây dựng môt hải đăng, môt trạm khí tượng (OMM đăng kư số 48860) đặt ở đảo Pattle ( Hoàng Sa) và số 48859 ở đảo Phú Lâm (Ile Boisée), một trạm vô tuyến TSF trên đảo Pattle. Tháng 3-1938, Hoàng đế Bảo Đại ký Dụ số 10 sáp nhập Hoàng Sa vào tỉnh Thừa Thiên thay vì Nam Ngăi như các triều trước. Tháng 6 năm 1938, một đơn vị bảo an lính Việt Nam tới trấn đóng Hoàng Sa. Một bia chủ quyền được dựng trên đảo Pattle với dòng chữ: “République Francaise- Royaume d’Annam- Archipels des Paracels 1816-Ile de Pattle 1938”.

Còn với quần đảo Trường Sa phía Nam thuộc địa giới Nam Kỳ lại là đất thuộc địa của Pháp, nên Pháp có hành động xác lập chủ quyền cho nước Pháp. Song để ngăn chặn nước thứ ba cũng như đối phó với pháp lý quốc tế, Cố vấn pháp luật Bộ Ngoại Giao Pháp đã viết trong Bản Ghi Chú cho Vụ Châu Á Đại dương ngạy-5-1950 rằng”Việc chiếm hữu quần đảo Spratleys do Pháp tiến hành năm 1931-1932 là nhân danh Hoàng Đế “ Annam”.”Ngày 13 tháng 4 năm 1933 ,một hạm đội nhỏ do trung tá hải quân De Lattre chỉ huy từ Sàigòn đến đảo Trường Sa ( Spratley) gồm thông báo hạm La Malicieuse, pháo thuyền Alerte, các tàu thủy văn Astrobale và De Lanessan. Sư chiếm hữu tiến hành theo nghi thức cổ truyền của Phương Tây. Một văn bản được thảo ra và các thuyền trưởng ký thành 11 bản. Mỗi đảo nhận 1 bản, được đóng kín trong 1 chai rồi được gắn trong 1 trụ xi măng xây trên mỗi đảo tại một địa điểm ấn định và cố định trên mặt đất. Người ta kéo cờ Tam tài và thổi kèn trên từng ḥòn đảo…

Ngày 26 tháng 7 năm 1933, Bộ Ngoại Giao Pháp đã có một thông tin đăng trên Công báo Pháp, ghi rõ 6 nhóm hải đảo và tiểu đảo từ nay đã thuộc chủ quyền Pháp quốc, trong đó gồm nhóm Spratley ( 8o39’ B-111 o 55Đ) và các tiểu đảo nhỏ xung quanh được chiếm hữu sớm nhất từ ngày 13-4-1930 và đảo Thị Tứ được chiếm cuối cùng vào ngày 12-4-1933.. Ngày 21 -12-1933, thống đốc Nam Kỳ M.J. Krautheimer ký nghị định số 4762 sát nhập các nhóm hải đảo thuộc quần đảo Pratleys ( Trường Sa ) vào tỉnh Bà Rịa.
Năm 1938 Pháp cũng thiết lập một bia chủ quyền, một hải đăng, một trạm khí tượng và một trạm vô tuyến tại đảo Itu - Aba ( Ba Bình)..

Tất cả những hành động thực thi chủ quyền của Pháp nhân danh “Annam” trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa diễn ra một cách suông sẻ, dù muộn màn, không gặp bất cứ ngăn cản nào, bởi chỉ duy có chính quyền địa phương tỉnh Quảng Đông có ý đồ, có dự án khai thác Tây Sa tức Hoàng Sa của Việt Nam, và muốn chiếm hữu Hoàng Sa khi cho là đất vô chủ, song các dự án của chính quyền địa phương mới chỉ trên giấy tờ, chính quyền trung ương Trung Quốc chưa mặn mà. Tuy vậy Nhật Bản lại dấu mặt về ý đồ chiếm giữ Hoàng Sa và Trường Sa, đã lên tiếng phản đối sự chiếm giữ của Pháp trong thông báo cho chính phủ Pháp vào ngày 24 -7-1933 . Ngày 31 tháng 3 năm 1939, Bô Ngoại giao Nhật Bản ra tuyên bố gửi tới Đại sứ Pháp ở Nhật Bản khẳng định Nhật Bản là người đầu khám phá Trường Sa vào năm 1917 và tuyên bố Nhật kiểm soát Trường Sa. Nhật đã nhanh chóng chiếm đảo Phú Lâm ( Ile Boisée ) của Hoàng Sa và đảo Itu-Aba ( Ba Bình ) của Trường Sa vào năm 1938 , song măi đến ngày 9-3-1945 , Nhật mới bắt làm tù binh những lính Pháp đóng ở các đảo Hoàng Sa cũng như đất liền của Việt Nam.

Luật pháp quốc tế thời đó sau Định ước Berlin năm 1885 được hiểu là:
- Việc thụ đắc lãnh thổ là hành động của quốc gia, chính quyền địa phương (tỉnh Quảng Đông) không đủ danh nghĩa đại diện cho quốc gia.
- Cũng theo Định ước này, hành động của phía Trung Quốc (năm 1909) không đủ mang lại danh nghĩa chủ quyền cho Trung Quốc vì chưa thỏa mãn các tiêu chí về thụ đắc lãnh thổ thời đó. Do vậy, sự im lặng của chính quyền Phpá ở Đông Dương không có nghĩa là sự thừa nhận chủ quyền của phía Trung Quốc và không tạo ra estopel.
Nhật bản đã bại trận và đã đàu hàng vô điều kiện Đồng Minh 16 tháng 8 năm 1945 và đã rút khỏi Hoàng Sa &Trường Sa .

C - HOÀN CẢNH LỊCH SỬ DẪN ĐẾN VIỆC TRUNG HOA, PHÁP TRANH CHẤP CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TẠI HOÀNG SA & TRƯỜNG SA TỪ THÁNG TÁM NĂM 1945 ĐẾN THÁNG 4 NĂM 1956, KHI PHÁP XÂM CHIẾM TRỞ LẠI

Ngày 19 tháng 8 năm 1945 Cách Mạng Tháng Tám thành công, ngày 2 thang 9 năm 1945 Nước Việt nam Dân Chủ Cộng Ḥoà ra đời, chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập ở Quảng Trường Ba Đình, chấm dứt chế độ đô hộ của Pháp.

Sau khi Nhật bại trận, Pháp trở lại đô hộ Việt Nam, Quân Tưởng Giới Thạch tiếp quản nơi quân đội Nhật chiếm đóng từ phía Bắc vĩ tuyến 16, cả hai nước Pháp và Trung Hoa đều tiếp tục tranh chấp Hoàng Sa & Trường Sa của Viêt Nam., vẫn tiếp tục coi trọng vị trí chiến lược Hoàng Sa & Trường Sa.

Việt Nam bận lo kháng chiến chống Pháp trong khi quân Pháp làm chủ Biển Đông.

Quân Nhật đã rút khỏi quần đảo Hoàng Sa cũng như Trường Sa vào năm 1946, Pháp trở lại Việt Nam làm chủ Biển Đông, lập tức cử một phân đội bộ binh Pháp đổ bộ từ tàu Savorgnan de Brazza đến thay thế quân đội Nhật từ tháng 5 năm 1946, nhưng đơn vị này chỉ ở đó trong vài tháng. Trong thời gian từ 20 đến 27 tháng 5 năm 1946, đô đốc D’Argenlieu, cao ủy Đông Dương cũng đã phái tốc hạm L’Escarmouche ra nắm tình hình đảo Hoàng Sa (Pattle ) thuộc quần đảo Hoàng Sa.

Vào lúc quân đội viễn chinh Pháp và Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo đang bận đối phó với cuộc chiến tranh toàn diện sắp xảy ra, thì ngày 26 tháng 10 năm 1946, lợi dụng thời cơ, hạm đội đặc biệt của Trung Hoa Dân Quốc gồm 4 chiến hạm, mỗi chiếc chở một số đại diện của các cơ quan và 59 binh sĩ thuộc trung đội độc lập về cảnh vệ của hải quân (tiền thân của quân thủy đánh bộ) xuất phát từ cảng Ngô Tùng ngày 9 tháng 10. Ngày 29 tháng 11 năm 1946, các tàu Vĩnh Hưng và Trung Kiên tới đảo Hoàng Sa và đổ bộ lên đây. Tàu Thái Bình và Trung Nghiệp đến Trường Sa (mà lúc này Trung Quốc còn gọi là Đoàn Sa chưa phải mang tên Nam Sa (tác giả nhấn mạnh)

Trong phiên họp ngày 11 tháng 10 năm 1946, Uy Ban Liên Bộ về Đông Dương thuộc Chính phủ lâm thời Pháp quyết định cần khẳng định quyền của Pháp đối với quần đảo Hoàng Sa và thể hiện việc tái chiếm bằng việc xây dựng một đài khí tượng. Theo ý kiến của đại tướng Juin cho rằng “lợi ích cao nhất” của nước Pháp là phòng ngừa mọi ý đồ của một cường quốc nào muốn chiếm lại các đảo đó là những đảo kiểm soát việc ra vào căn cứ tương lai Cam Ranh, con đường hàng hải Cam Ranh - Quảng Châu - Thượng Hải (Thư số 199/DN/S. col ngày 7 tháng 10 năm 1946 của Đại tướng Juin, Tổng Tham Mưu Trưởng quân đội Pháp tại Paris). Mãi đến năm 1935, Trung Quốc mới chú ý đến Trường Sa, gọi là Đoàn Sa sau thời điểm năm 1933.

Chính phủ Pháp chính thức phản đối sự chiếm đóng bất hợp pháp trên của Trung Hoa Dân Quớc và ngày 17 tháng 10 năm 1947 thông báo hạm Tonkinois của Pháp được phái đến Hoàng Sa để yêu cầu quân Tưởng Giới Thạch rút khỏi Phú Lâm nhưng họ không rút. Pháp gửi một phân đội lính trong đó có cả quân lính "Quốc gia Việt Nam" đến đóng một đồn ở đảo Pattle ( Hoàng Sa ). Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc phản kháng và các cuộc thương lượng được tiến hành từ ngày 25 tháng 2 đến ngày 4 tháng 7 năm 1947 tại Paris. Tại đây, chính phủ Trung Hoa Dân Quốc đã từ chối không chấp nhận việc nhờ trọng tài quốc tế giải quyết do Pháp đề xuất. Ngày 1 tháng 12 năm 1947, Bộ Nội Vụ chính quyền Tưởng Giới Thạch công bố tên Trung Hoa cho hai quần đảo và đặt chúng thuộc lãnh thổ Trung Hoa.

Trong hoàn cảnh lịch sử cuối năm 1946 đầu năm 1947, Việt Nam đã giành được độc lập từ năm 1945, không còn ràng buộc vào hiệp định Patenôtre (1884) với Pháp song Pháp vẫn cho rằng theo hiệp định sơ bộ ngày 6 tháng 3 năm 1946, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà còn nằm trong khối Liên Hiệp Pháp, về ngoại giao vẫn thuộc về Pháp, nên Pháp vẫn thực thi quyền đại diện Việt Nam trong vấn đề chống lại xâm phạm chủ quyền Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Chính quyền Pháp bổ sung quân sự bằng cách đóng quân và thực hiện quản lý trên hai quần đảo. Điều này chứng tỏ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo đã được củng cố vững chắc từ thời Pháp thuộc.

Do chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥoà kháng chiến chống Pháp và hải quân Pháp làm chủ Biển Đông , nên với hiệp định ngày 8 tháng 3 năm 1949, Pháp gây dựng được chính quyền thân Pháp còn gọi là quốc gia Việt Nam do cựu hoàng Bảo Đại đứng đầu, đối đầu với Chính quyền Cách Mạng do chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo. Trên thực tế, trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, quân Pháp đang làm chủ Biển Đông trong đó có quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thay mặt nhà nước Việt Nam.

Tháng 4 năm 1949, Đổng lý văn phòng của quốc trưởng Bảo Đại là hoàng thân Bửu Lộc, trong một cuộc họp báo tại Sàigòn đã công khai khẳng định lại chủ quyền của Việt Nam đã từ lâu đời trên quần đảo Hoàng Sa.

Vào ngày 1 tháng 10 năm 1949, Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa được thành lập ở lục địa Trung Quốc, Trung Hoa Dân Quốc do Tưởng Giới Thạch cầm đầu đã rút lui ra Đài Loan. Tháng 4 năm 1950, đồn lính Trung Hoa Dân Quốc chiếm đóng bất hợp pháp ở đảo Phú Lâm (Ile Boisée) thuộc quần đảo Hoàng Sa đã rút lui. Còn đồn lính của Pháp đóng ở đảo Hoàng Sa (Pattle) vẫn còn duy trì. Đến năm 1954, Pháp đã chính thức trao lại quyền quản lý cho Chính phủ Việt Nam.

Ngày 14 tháng 10 năm 1950, chính phủ Pháp chính thức chuyển giao cho chính phủ Bảo Đại quyền quản lý các quần đảo Hoàng Sa. Thủ hiến Trung Phần là Phan Văn Giáo đã chủ tọa việc chuyển giao quyền hành ở quần đảo Hoàng Sa.

Hội nghị San Francisco có 51 quốc gia tham dự từ ngày 5 tháng 9 đến ngày 8 tháng 9 năm 1951, ký kết hoà ước với Nhật. Ngày 5 tháng 9 năm 1951, họp khoáng đại, ngoại trưởng Gromyko đề nghị 13 khoản tu chính. Khoản tu chính liên quan đến việc Nhật nhìn nhận chủ quyền của Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa đối với đảo Hoàng Sa và những đảo xa hơn nữa dưới phía Nam. Khoản tu chính này đã bị Hội nghị bác bỏ với 48 phiếu chống và 3 phiếu thuận. Như vậy, cái gọi là danh nghĩa chủ quyền Trung Quốc đối với các quần đảo ngoài khơi Biển Đông đã bị cộng đồng quốc té bác bỏ rõ ràng trong khuôn khổ một Hội nghị quốc tế.

Ngày 7 tháng 9 năm 1951, Thủ tướng kiêm ngoại trưởng Trần Văn Hữu của chính phủ Bảo Đại long trọng tuyên bố rằng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ của Việt Nam : "Et comme il faut franchement profiter de toutes occasions pour étouffer les germes de discorde, nous affirmons nos droits sur les îles Spratley et Paracels qui de tout temps ont fait partie du Viet Nam »
Không một đại biểu nào trong hội nghị bình luận gì về lời tuyên bố này.

Kết thúc hội nghị là ký kết hoà ước với Nhật ngày 8 tháng 9 năm 1951. Trong hoà ước này có điều 2, đoạn 7 ghi rõ:
Nguyên văn là "Nhật Bản từ bỏ mọi quyền, danh nghĩa và tham vọng đối với các quần đảo Paracels và Spratly". Song đến đây, tình hình chính trị thế giới đã bắt đầu biến chuyển, chiến tranh lạnh giữa hai khối Tư bản chủ nghĩa do Mỹ cầm đầu và khối Xă hội Chủ nghĩa do Liên Sô đứng đầu đã bắt đầu tác động đến Việt Nam trong đó có chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa lại tăng lên sự tranh chấp, càng ngày càng phức tạp khiến sự bảo vệ chủ quyền trở nên hết sức khó khăn với nhiều danh nghĩa khác nhau với nhiều thế lực quốc tế can thiệp.

Ngày 24 tháng 8 năm 1951, lần đầu tiên Tân Hoa Xã lên tiếng tranh cãi về quyền của Pháp và những tham vọng của Philippines , thân Mỹ và kiên quyết khẳng định quyền của Trung Quốc.

Khi ra thông báo về bản dự thảo Hiệp Ước với Nhật ở San Francisco, ngày 15 tháng 8 năm 1951, Bộ Trưởng Ngoại Giao nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa Chu An Lai ra bản tuyên bố công khai khẳng định cái gọi là « tính lâu đời » của các quyền của Trung Quốc đối với quần đảo, trong khi Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa và Trung Hoa Dân Quốc không tham dự hội nghị này.
Cũng lợi dụng cục diện chiến tranh lạnh đang xảy ra, sự giành giật thế lực ở một nơi trong đó có Biển Đông, phái đoàn Liên Sô đề xuất giao cho Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa quản lý hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đã không được Hội Nghị chuẩn nhận, song cũng là cái cớ để Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa lên tiếng. Dù sao, sau năm 1950, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa không còn quân nước ngoài chiếm đóng ngoài lực lượng trú phòng Việt Nam của Chính quyền Bảo Đại.

Hiệp định Genève ký kết ngày 20 tháng 7 năm 1954 chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương, công nhận độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và thống nhất của nước Việt Nam. Điều 1 qui định đường ranh tạm thời về quân sự được ấn định bởi sông Bến Hải (ở vĩ tuyến 17). Đường ranh tạm thời này cũng được kéo dài ra trong hai phần bằng một đường thẳng từ bờ biển ra ngoài khơi theo điều 4 của Hiệp định. Cũng theo điều 14 của bản Hiệp định, trong khi chờ đợi cuộc tổng tuyển cử đưa lại sự thống nhất cho Việt Nam, bên đương sự và quân đội do thoả hiệp tập kết ở khu nào sẽ đảm nhiệm việc hành chánh trong khu tập kết đó. Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở Biển Đông ở dưới vĩ tuyến 17 sẽ đặt dưới sự quản lý hành chánh của phía chính quyền quản lý miền Nam vĩ tuyến 17.

Như thế, quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được đặt dưới sự quản lý hành chánh của chính quyền Việt Nam Cộng Hoà, lúc ấy hai quần đảo này chưa có sự chiếm đóng của bất cứ quân đội nước nào ngoài quân đội Pháp. Chính quyền ở Phía Nam vĩ tuyến 17 phải chịu trách nhiệm quản lý hai quần đảo trên ở ngoài khơi bờ biển Việt Nam dưới vĩ tuyến 17.
Tháng 4 năm 1956, khi quân viễn chinh Pháp rút khỏi Miền Nam Việt Nam, Philippines nêu vấn đề chủ quyền.

D - HOÀN CẢNH LỊCH SỬ DẪN ĐẾN VIỆC TRUNG QUỐC , PHÁP, VIỆT NAM CỘNG HÒA VÀ CÁC NƯỚC KHÁC TRONG KHU VỰC TRANH CHẤP CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TẠI HOÀNG SA & TRƯỜNG SA TỪ NĂM 1956 ĐẾN 1975.

Việc Pháp thua trận ở Điện Biên Phủ và ký hiệp định Genève 20 tháng 7 năm 1954, khiến tháng 4- 1956 quân Pháp phải rút lui khỏi Việt Nam và để khoảng trống bố phòng ở Biển Đông khiến các nước trong khu vực trong đó có Cộng Ḥòa Nhân Dân Trung Hoa , Trung Hoa Dân Quốc ( Đài Loan ) và Philippines cho là cơ hội tốt chiếm đóng trái phép Hoàng Sa cũng như Trường Sa của Việt Nam.

Khi ấy, quân đội Quốc Gia Việt Nam sau gọi là Việt Nam Cộng Hoà đã chiếm đóng các đảo phía Tây của quần đảo Hoàng Sa bao gồm đảo Hoàng Sa (Pattle). Ngày 1 tháng 6 năm 1956, Ngoại Trưởng Chính Quyền Việt Nam Cộng Hoà Vũ Văn Mẫu ra tuyên bố tái khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Vài ngày hôm sau, Pháp cũng nhắc lại cho Philippines biết những quyền hạn mà Pháp đã có đối với hai quần đảo trên từ năm 1933.

Ngày 22 tháng 8 năm 1956, lục hải quân Việt Nam Cộng Hoà đổ bộ lên các đảo chính của quần đảo Trường Sa và dựng bia, kéo cờ. Sau khi trấn giữ ở các đảo phía Tây quần đảo Hoàng Sa, ngày 22 tháng 8 năm 1956, lực lượng hải quân của chính phủ Việt Nam Cộng Hoà đã đổ bộ lên các hòn đảo chính của nhóm Trường Sa, dựng một cột đá và trương quốc kỳ.

Tháng 10 năm 1956, hải quân Đài Loan đến chiếm đảo Ba Bình (Itu Aba). Ngày 22 tháng 10 năm 1956, sắc lệnh số 143 – Ncủa Tổng Thống Việt Nam Cộng Hoà thay đổi địa giới các tỉnh và tỉnh lỵ tại « Nam Việt » (Nam Bộ). Trong danh sách các đơn vị hành chánh « Nam Việt » (Nam Bộ) đính kèm theo sắc lệnh có những thay đổi tên mới, trong đó có tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu nay được gọi là tỉnh Phước Tuy và đảo Spratly thuộc tỉnh Phước Tuy được gọi là Hoàng Sa cùng tên với quần đảo phía Bắc là Paracels.
Trong khi ấy, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa cũng đã nhanh chóng chiếm giữ đảo Phú Lâm( Ile Boisée) , đảo lớn nhất của quần đảo Hoàng Sa , song hành với việc Đài Loan chiếm giữ đảo lớn nhất của quần đảo Trường Sa. Một tình hình hết sức phức tạp, đen tối cho chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa & Trường Sa. Song từ sau Hiệp định Genève mà Trung Quốc đã ký, chính quyền phía Nam mới có trách nhiệm quản lý chủ quyền Ḥoàng Sa & Trường Sa vì hai quần đảo này nằm phía dưới vĩ tuyến 17. Vụ việc công hàm của Thủ tướng Phạm văn Đồng năm 1958 chỉ ủng hộ Tuyên bố 12 hải lý về lănh hải của Trung Quốc cũng như những biểu hiện khác thuộc chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥoà vào thời gian này cũng không có giá trị pháp lý quốc tế về sự từ bỏ chủ quyền mà Chính quyền Trung Quốc tố cáo là lật lọc là không đúng sự thực và thực chất về chủ quyền ở Hoàng Sa. Trong bối cảnh chiến tranh lạnh, đối đầu của hai khối chính trị mà Cộng Ḥoà Nhân Dân Trun g Hoa đang là đồng minh chí cốt của Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥoà và cùng thù địch với Mỹ lại là đồng minh của Đài Loan và Việt Nam Cộng Hòa, nên tất cả những hành động đối đầu cũng chỉ là đối sách chính trị thù địch nhất thời.

Ngày 13 tháng 7 năm 1961, sắc lệnh số 174 – N của Tổng thống Việt Nam Cộng Hoà đặt quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam và thành lập tại quần đảo này một xã lấy tên là xã Định Hải trực thuộc quận Hoà Vang.

Trong sắc lệnh trên, ghi rằng: "Quần đảo Hoàng Sa trước kia thuộc tỉnh Thừa Thiên, nay đặt thuộc tỉnh Quảng Nam (điều 1). Đặt đơn vị hành chính xã bao gồm trọn quần đảo này được thành lập và lấy danh hiệu là xã Định Hải, trực thuộc quận Hoà Vang. Xã Định Hải dưới quyền một phái viên hành chính ( điều 2). Tháng 2 năm 1959, nhiều dân chài Trung Quốc định đến đóng trên phần phía Tây quần đảo Hoàng Sa , nhưng không thành công, bị hải quân Việt Nam Cộng Hoà bắt và hoàn trả lại Trung Quốc.
Ngày 13 tháng 7 năm 1971, Bộ Trưởng Ngoại Giao Việt Nam Cộng Hoà, ông Trần Văn Lắm có mặt ở Manila đã lên tiếng nhắc lời yêu sách của Việt Nam và các danh nghĩa làm cơ sở cho những yêu sách đó trên quần đảo Trường Sa.

Ngày 6 tháng 9 năm 1973, Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ của chính quyền Việt Nam Cộng Hoà đã sửa đổi việc quản lý hành chính của Trường Sa vào xã Phước Hải, quận Đất Đỏ, tỉnh Phước Tuy mà trước đây vào năm 1956 , thời chính quyền Ngô Đình Diệm đã có sắc lệnh gọi quần đảo Spratly là quần đảo Hoàng Sa

Trong bối cảnh sau Thông Cáo Chung Thượng Hải năm 1972 giữa Mỹ và Trung Quốc, tạo sự nứt rạn không thể hàn gắn giữa Liên Sô và Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, trong khi Chiến tranh Việt Nam đang ở giai đoạn gần kết thúc, cuộc diện chính trị thế giới biến đổi đã ảnh hưởng đến Việt Nam kể cả về sự bảo vệ chú quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa & Trường Sa. Ngày 11 tháng 1 năm 1974, Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa tuyên bố việc sáp nhập các đảo của quần đảo Trường Sa vào tỉnh Phước Tuy của Việt Nam Cộng Hoà là sự lấn chiếm lãnh thổ Trung Quốc và khẳng định lại các yêu sách của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Ngày 12 tháng 1 năm 1974, chính phủ Việt Nam Cộng Hoà tuyên bố bác bỏ yêu sách của Trung Quốc. Ngày 15 tháng 1 năm 1974, Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa bắt đầu triển khai một lực lượng hải quân mạnh mẽ trong đó có nhiều tàu được ngụy trang thành tàu đánh cá và có phi cơ yểm trợ. Mặt khác, Bộ Tư Lệnh hải quân Việt Nam Cộng Hoà đã điều động tuần dương hạm Lý Thường Kiệt đến Hoàng Sa để tuần phòng và canh chừng.

Sau khi phát hiện sự có mặt của quân đội Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa tại vùng Hoàng Sa với cờ dựng trên các đảo Quang Anh (Money), Hữu Nhật (Robert), lực lượng quân đội Việt Nam Cộng Hoà được tăng cường với khu trục hạm Trần Khánh Dư, tuần dương hạm Trần Bình Trọng, hộ tống hạm Nhật Tảo. Lực lượng tăng cường của Việt Nam Cộng Hoà có các toán biệt hải được lệnh đổ bộ đến các đảo hạ cờ của quân đội Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa. Vài vụ xô xát đã xảy ra, súng đã nổ trên đảo Quang Hoà (Duncan) và một đảo khác.

Tiếp ngày 16 tháng 1 năm 1974, chính phủ Việt Nam Cộng Hoà đã ra tuyên cáo bác bỏ luận cứ của Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa và đưa ra những bằng chứng rõ ràng về pháp lý, địa lý, lịch sử để xác nhận chủ quyền của Việt Nam Cộng Hoà trên hai quần đảo này. Hai bên bắt đầu phối trí toàn bộ lực lượng, các chiến hạm hai bên cách nhau chừng 200m. Sau đó hai bên bỗng tách rời nhau để chuẩn bị, cuộc hải chiến bắt đầu diễn ra vào lúc 10 giờ 25 phút ngày 19 tháng 1 năm 1974. Một chiến hạm Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa bị bốc cháy.. Các chiến hạm Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa mang số 281, 182 dồn sức đánh trả khiến chiến hạm Nhật Tảo bị trúng đạn trên đài chỉ huy và hầm máy chính, hạm trưởng Ngụy Văn Thà hy sinh . Sau hơn 1 giờ giao tranh, 2 chiến hạm Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa chìm, 2 chiếc khác bị bắn cháy. Bên lực lượng Việt Nam Cộng Hoà ngoài hộ tống hạm Nhật Tảo bị chìm, còn có một số chiến hạm bị thương tổn, trong đó có một số binh sĩ bị bắt và mất tích. Một người Mỹ tên Gerald Kosh, một nhân viên dân sự thuộc văn phòng tùy viên quốc phòng toà đại sứ Mỹ ở Sàigòn, được biệt phái làm liên lạc viên cạnh bộ chỉ huy hải quân Quân Khu I Việt Nam Cộng Hoà cũng bị bắt (theo Nhật báo Chính Luận, số 2982, ngày 31 tháng 1 năm 1974). Kosh được trao trả lúc 12 giờ trưa ngày 31 tháng 1 năm 1974. Ngày 17 tháng 2 năm 1974, chính quyền Bắc Kinh trả tự do cho 43 quân nhân và nhân viên của Việt Nam Cộng Hoà tại Tân Giới ( Hồng Kông).

Lầu Năm Góc được chính quyền Sài Gòn yêu cầu can thiệp, quyết định đứng ngoài cuộc xung đột. Trợ lý Bộ Trưởng Ngoại giao Mỹ, Arthur Hummel cho chính quyền Sài Gòn biết Mỹ không quan tâm đến vấn đề Hoàng Sa.

Qua thông điệp ngoại giao được gởi đến tất cả các nước ký Hiệp Định Paris (1973), chính quyền Việt Nam Cộng Hoà nhắc lại sự đảm bảo toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, yêu cầu Hội Đồng Bảo An họp một phiên họp đặc biệt.

Ngày 1 tháng 2 năm 1974, chính quyền Sàigòn quyết định tăng cường phòng thủ các đảo ở quần đảo Trường Sa, đưa lực lượng ra đóng ở 5 đảo thuộc Trường Sa. Qua đại sứ ở Manila, chính quyền Sàigòn khẳng định chủ quyền Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.

Ngày 1 tháng 2 năm 1974, đoàn đại biểu của Việt Nam Cộng Hoà ra tuyên bố tại hội nghị của Liên Hợp Quốc về luật Biển Caracas khẳng định lại chủ quyền của Việt Nam trên các quần đảo, tố cáo Bắc Kinh đánh chiếm Hoàng Sa . Ngày 30 tháng 3 năm1974, đại biểu chính quyền VNCH khẳng định chủ quyền Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa tại Hội Đồng Kinh Tài Viễn Đông họp tại Colombia. Ngày 14 tháng 2 năm 1975, Bộ Ngoại giao chính quyền VNCH công bố Sách Trắng về Hoàng Sa và Trường Sa.

Tóm lại, Pháp xâm chiếm trở lại Việt Nam, dẫn đến cuộc kháng chiến chống Pháp ( 1945-1954), Pháp vẫn làm chủ Biển Đông và thực thi chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa. Hiệp định Genève năm 1954 qui định từ vĩ tuyến 17 trở xuống thuộc chính quyền phía Nam quản lý. Khi Pháp rút quân tháng 4/1956, xảy ra chiến tranh lạnh giữa Liên Xô đứng đấu phe Xă Hội Chủ Nghĩa và Mỹ đứng đầu phe Tư bản Chủ Nghĩa, Việt Nam bị chia cắt khiến hai chính quyền bị cuốn hút vào sự đối đầu, không có điều kiện bảo vệ toàn vẹn được chủ quyền để cho Trung Quốc chiếm từng phần rồi toàn thể Hoàng Sa và Việt Nam Cộng Ḥoà chỉ trấn giữ quần đảo Trường Sa song lại để cho Đài Loan chiêm đảo Ba Bình, lớn nhất của quần đảo Trường Sa cùng Philippines chiếm một số đảo, đá trong đó có Song Tử Đông ở Trường Sa.

Chính vì vậy, chúng ta có thể nói rằng nguyên nhân chủ yếu dẫn đến các nước trong khu vực tranh chấp chủ quyền của Việt Nam cũng như Trung Quốc chiếm giữ trái phép hoàn toàn Hoàng Sa và Trường Sa trong thời kỳ này chính là những biến động chính trị ở Việt Nam cũng như trên thế giới, Mỹ rút quân khỏi Việt Nam , không còn bảo vệ đồng minh Việt Nam Cộng Ḥoà, để cho Trung Quốc chiếm Hoàng Sa bằng vũ lực.

E - HOÀN CẢNH LỊCH SỬ DẪN ĐẾN VIỆC TRUNG QUỐC, VIỆT NAM THỐNG NHẤT CÙNG CÁC NƯỚC TRONG KHU VỰC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TẠI TRƯỜNG SA TỪ NĂM 1975 ĐẾN NAY

- Từ 1975 đến 1990, Việt Nam hợp tác toàn diện với Liên Xô, Trung Quốc đã ký với Mỹ Thông cáo chung ở Thượng Hải năm 1972, mâu thuẫn giữa Trung Quốc và Liên Xô không giảm; Việt Nam và Trung Quốc xảy ra chiến tranh năm 1979 khiến tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc tại Hoàng Sa và Trường Sa trở nên gay gắt.

Chính Quyền Việt Nam thống nhất tiếp tục khẳng định chủ quyền Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, vẫn chịu
những dư âm tác động đối đầu của các thế lực quốc tế trước đây chưa chấm dứt được sự tranh chấp chủ quyền tại Hoàng Sa và Trường Sa .

Sau chiến thắng Buôn Mê Thuột, thời cơ chiến lược giải phóng Miền Nam đã đến. Bộ chính trị quyết định giải phóng hoàn toàn miền Nam ngay trong mùa khô 1975 bao gồm các đảo và các quần đảo Trường Sa, Côn Lôn, Phú Quốc…

Ngày 5 tháng 4 năm 1975, Bộ Tư Lệnh Hải Quân chủ trương chuẩn bị chiến đấu giải phóng quần đảo Trường Sa. Lực lượng tham gia giải phóng gồm có các tàu của đoàn vận tải quân sự 125, đoàn 126 đặc công, tiểu đoàn 471, đặc công quân khu 5 và tiểu đoàn 407 cùng lực lượng đặc công tỉnh Khánh Hoà. Bộ Tư Lệnh Hải Quân chủ trương nhanh chóng đánh đảo Song Tử Tây trước để làm bàn đạp và rút kinh nghiệm đánh tiếp các đảo Nam Yết, Sơn Ca, Sinh Tồn, An Bang, Trường Sa và các đảo còn lại của quần đảo.

Ngày 9 tháng 9 năm 1975, đại biểu chính phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam Việt Nam tại hội nghị khí tượng thế giới tiếp tục đăng ký đài khí tượng Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa.

Ngày 10 tháng 9 năm 1975, Bắc Kinh gửi công hàm cho Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà khẳng định chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (mà Trung Quốc gọi là Tây Sa và Nam Sa).

Ngày 24 tháng 9 năm 1975, trong cuộc gặp đoàn đại biểu Đảng và chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà do Tổng Bí Thư Lê Duẩn dẫn đầu, nhà lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình tuyên bố sau này hai bên sẽ bàn bạc về vấn đề Tây Sa và Nam Sa.
Ngày 12 tháng 5 năm 1977, chính phủ Việt Nam tuyên bố về các vùng biển và thềm lục địa Việt Nam.

Tháng 9 năm 1977, khi thăm Philippines và tháng 10 năm 1977 khi đi thăm Malaysia, thủ tướng Phạm Văn Đồng đồng ý với tổng
thống Ferdinand Marcos và thủ tướng Hussein On rằng hai bên sẽ giải quyết mọi tranh chấp và bất đồng bằng thương lượng hoà bình.

Tháng 3 năm1978, Hội nghị hành chính thế giới về thông tin vô tuyến điện thông qua một nghị quyết cho phép Trung Quốc sử dụng một số tần số trên vùng trời Hoàng Sa.

Ngày 30 tháng 12 năm 1978, người phát ngôn Bộ ngoại giao nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam ra tuyên bố bác bỏ luận điệu nêu trong tuyên bố ngày 29 tháng 2 năm 1978 của người phát ngôn Bộ ngoại giao Trung Quốc về vấn đề quần đảo Trường Sa, khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nhắc lại lập trường của Việt Nam chủ trương giải quyết mọi tranh chấp hoặc bất bình bằng thương lượng hoà bình.

Ngày 30 tháng 7 năm 1979, Trung Quốc đã công bố tại Bắc Kinh tài liệu để chứng minh rằng Việt Nam đã “thừa nhận” chủ quyền Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Ngày 7 tháng 8 năm 1979, Bộ ngoại giao nước Cộng Hoà Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam ra tuyên bố về quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, bác bỏ sự xuyên tạc của Trung Quốc trong việc công bố một số tài liệu củaViệt Nam liên quan đến các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, khẳng định lại chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo này, nhắc lại lập trường của Việt Nam về việc giải quyết sự tranh chấp về 2 quần đảo giữa hai nước bằng thương lượng hoà bình.

Ngày 28 tháng 9 năm 1979, Bộ ngoại giao Việt Nam công bố một số tài liệu về chủ quyền Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa.

Ngày 28 tháng 9 năm 1979, Bộ ngoại giao Việt Nam bác bỏ việc Philippines tuyên bố sát nhập hầu hết lãnh thổ Trường Sa vào lãnh thổ Philippines.

Ngày 30 tháng 1 năm 1980, Bộ ngoại giao Trung Quốc công bố văn kiện về Tây Sa và Nam Sa. Ngày 5 tháng 2 năm 1980, Bộ ngoại giao Việt Nam ra tuyên bố vạch trần thủ đoạn xuyên tạc của Trung Quốc trong văn kiện ngày 30 tháng 1 năm 1980.
Ngày 29 tháng 4 năm 1980, Bộ ngoại giao Việt Nam gửi công hàm cho Malaysia phản đối việc Malaysia công bố bản đồ Malaysia lấn vào vùng biển và thềm lục địa Việt Nam tại vùng Trường Sa.

Ngày 8 tháng 5 năm 1980, nhân chuyến viếng thăm và hội đàm với Malaysia, Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch đã khẳng định đảo An Bang là của Việt Nam.

Tháng 6 năm 1980, tại Hội nghị Khí Tượng Khu Vực Châu Á II họp tại Genève, đại biểu Việt Nam tuyên bố trạm khí tượng của Trung Quốc tại Sanhudao (đảo Hoàng Sa của Việt Nam) là bất hợp pháp. Kết quả là trạm Hoàng Sa của Việt Nam được giữ nguyên trạng trong danh sách các trạm như cũ.

Ngày 13 tháng 6 năm 1980, Việt Nam yêu cầu OMM đăng ký trạm khí tượng Trường Sa vào mạng lưới OMM.
Tháng 12 năm 1981, Tổng cục Bưu Điện Việt Nam điện cho Chủ Tịch Ủy Ban đăng ký tần số tại Genève phản đối việc Trung Quốc được phát một số tần số trên vùng trời Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.

Tháng 12 năm 1981, Bộ Ngoại Giao Việt Nam công bố sách trắng: “Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa , lãnh thổ Việt Nam”.

Tháng 6 năm 1982, Tân Hoa Xã loan tin là một hải cảng lớn được xây dựng tại Hoàng Sa.

Tháng 10, tại Hội Nghị Toàn Quyền của UIT, đại biểu Việt Nam tuyên bố không chấp nhận việc thay đổi phát sóng đã được phân chia năm 1978 tại Genève.

Ngày 12 tháng 11 năm 1982, chính phủ Việt Nam công bố đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải .

Ngày 4 tháng 2 năm 1982, chính phủ Việt Nam thành lập huyện Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng.

Ngày 9 tháng 12 năm 1982, chính phủ Việt Nam lập huyện Trường Sa. Đến ngày 28 tháng 12 năm 1982, chính phủ Việt Nam quyết định huyện Trường Sa được nhập vào tỉnh Phú Khánh.

Tháng 1 năm 1983, Hội Nghị Hành Chính Thế Giới về thông tin vô tuyến đồng ý sẽ xem xét đề nghị của Việt Nam về việc phát sóng trên vùng trời Hoàng Sa và Trường Sa tại hội nghị sắp tới.

Cũng tháng 01 năm 1983, Hội Nghị Hàng Không Khu Vực Châu Á Thái Bình Dương họp ở Singapore. Trung Quốc muốn mở rộng FIR Quảng Châu lấn vào FIR Hà Nộivà FIR TP Hồ Chí Minh, nhưng Hội Nghị quyết định duy trì nguyên trạng.

Từ ngày 4 đến 16 tháng 4 năm 1984, đoàn đại biểu Quốc Hội Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam và đoàn đại biểu tỉnh Phú Khánh thăm huyện Trường Sa. Thứ trưởng Bộ Thủy Sản Việt Nam Vũ Văn Trác đi khảo sát nghề cá tại huyện Trường Sa.
Ngày 25 tháng 4 năm 1984, Uy Ban Địa Danh Trung Quốc công bố tên mới cho các đảo, bãi, đá trong Biển Đông trong đó có đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.

Ngày 6 tháng 5 năm 1984, người phát ngôn Bộ Ngoại Giao Việt Nam phản đối việc đặt tên của Trung Quốc.

Tại Hội Nghị Tổ Chức Thông Tin Vũ Trụ Quốc Tế (INTU SAT) lần thứ 13 họp tại Bangkok, đại biểu Việt Nam đã phản đối việc Trung Quốc sử dụng những bản đồ ghi Hoàng Sa, Trường Sa (mà Trung Quốc gọi là Tây Sa, Nam Sa) là của Trung Quốc.

Bộ Ngoại Giao Việt Nam phản đối Malaysia chiếm đóng đảo Hoa Lau trong quần đảo Trường Sa. Việt Nam phản đối việc ngày 1 tháng 6 năm 1984 Quốc hội Trung Quốc tuyên bố việc thiết lập khu hành chính Hải Nam bao gồm cả hai quần đảo Tây Sa, Nam Sa.

Vào đầu năm 1985, Đại Tướng Văn Tiến Dũng, Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng Việt Nam ra thăm quần đảo Trường Sa.
Sang năm 1986, ông Hồ Diệu Bang, Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Trung Quốc cùng Lưu Hoa Thanh, Trương Trọng Tiến đi thị sát Hoàng Sa.

Tháng 5 năm 1987, đô đốc Giáp Văn Cường, Tư lệnh hải quân Việt Nam ra thăm quần đảo Trường Sa.

Từ 16 tháng 5 đến 6 tháng 6 năm 1987, hải quân Trung Quốc tập trận tại vùng biển Trường Sa.

Tháng 10 năm 1987, hải quân Trung Quốc diễn tập quân sự tại Tây Thái Bình Dương và Nam Biển Đông.

Ngày 10 tháng 11 năm 1987, hải quân Trung Quốc đổ bộ lên đá Louisa (Nandong Jiao) (113° – 6° 8).

Tháng 1 năm 1988, một lực lượng lớn tàu chiến, có nhiều tàu khu trục và tàu tên lửa, đi từ đảo Hải Nam xuống phía Nam, trong đó có bốn chiếc được phái đến khu vực quần đảo Trường Sa, khiêu khích và cản trở hoạt động của hai tàu vận tải Việt Nam trong khu vực bãi đá Chữ Thập và bãi đá Châu Viên là hai bãi san hô còn đang lập lờ mặt nước. Quân lính Trung Quốc cắm cờ trên hai bãi đá trên, đồng thời cho tàu chiến thường xuyên ngăn cản, khiêu khích các tàu vận tải của Việt Nam đang tiến hành những hoạt động tiếp tế bình thường giữa các đảo do quân đội Việt Nam bảo vệ. Trong đợt hoạt động trên, Trung Quốc đã thành lập một bộ tư lệnh đặc biệt, sử dụng lực lượng của hạm đội Nam Hải, được tăng cường một bộ phận của hạm đội Đông Hải và họ thường xuyên dùng trên 20 tàu các loại ở khu vực quần đảo Trường Sa.

Về sự kiện xảy ra ngày 14 tháng 3 năm 1988, Trung Quốc nói rằng: “Trung Quốc buộc phải phản kích để tự vệ”. Theo cách nói đó, có nghĩa là hải quân Việt Nam là kẻ tấn công (bằng hai tàu vận tải!), còn hải quân Trung Quốc là kẻ phòng thủ tự vệ. Trung Quốc sử dụng một biên đội tàu chiến đấu gồm sáu chiếc, trong đó có ba tàu hộ vệ số 502, 509 và 531 trang bị tên lửa và pháo cỡ 100mm, vô cớ tiến công bắn chìm ba tàu vận tải Việt Nam đang làm nhiệm vụ tiếp tế ở các bãi đá Lan Đao, Cô Lin, Gac Ma thuộc cụm đảo Sinh Tồn của Việt Nam.

Ngày 14 tháng 3 năm 1988, giữa Trung Quốc và Việt Nam đã nổ ra cuộc chiến đấu trên biển Nam Trung Quốc. Cuộc chiến đấu này mặc dù chỉ diễn ra trong thời gian 28 phút nhưng nó đã làm cả thế giới quan tâm theo dõi. Tàu vận tải số 64 của hải quân Việt Nam chở đầy binh lính bị bắn chìm tại chỗ, tàu đổ bộ số 505 và một tàu vận tải khác số 605 bị bắn trọng thương, kéo theo đám cháy và cột khói đen ngòm. Tàu đổ bộ số 505 bị chìm trên đường về, còn tàu đổ bộ số 605 thì bị mắc cạn. Cuộc chiến đấu không cân sức trên giữa các tầu vận tải của Việt Nam vời các tầu chiến của Trung Quốc, vẻn vẹn chỉ diễn ra có 28 phút đã kết thúc với kết quả phía Việt Nam có một tàu bị chìm tại chỗ, hai tàu bị thương, chết và bị thương 20 người, mất tích 74 người. Còn phía Trung Quốc chỉ có một số nhân viên khảo sát và nhân viên khác trên đảo bị thương , ngoài ra không bị tổn thất gì, đây là một trận chiến đấu trên biển mà phía Trung Quốc cho là « đánh gọn và đẹp mắt» (sic!). Sau các va chạm trên, hải quân Trung Quốc tiếp tục ngăn cản các hoạt động tiếp tế do tàu Việt Nam thực hiện.

Tính đến ngày 6 tháng 4 năm 1988, Trung Quốc đã chiếm đóng: Đá Chữ Thập, Đá Châu Viên, Đá Ga Ven, Đá Tư Nghĩa, Đá Gạc Ma, Đá Subi.

Ngày 3 tháng 1 năm 1989, Trung Quốc đặt bia chủ quyền trên các bãi họ chiếm được trong năm 1988 : Đá Chữ Thập, Đá Châu Viên, Đá Ga Ven, Đá Tư Nghĩa,Đá Gạc Ma, Đá Subi.

Năm 1988, Chính phủ Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đã thông báo cho Liên Hợp Quốc, gửi nhiều công hàm phản đối đến Bắc Kinh và đặc biệt là các công hàm ngày 16,17, 23 tháng 3 năm 1988 đề nghị hai bên thương lượng giải quyết vấn đề tranh chấp. Trung Quốc tiếp tục chiếm giữ các bãi đá đã chiếm được và khước từ thương lượng. Ngày 14 tháng 4 năm 1988, Bộ ngoại giao Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam phản đối việc Quốc hội Trung Quốc sáp nhập hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vào tỉnh Hải Nam (nghị quyết ngày 13 tháng 4 năm 1988 thành lập tỉnh Hải Nam).

Tháng 4 năm 1988, Bộ Ngoại Giao Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam công bố Sách Trắng "Các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và luật pháp quốc tế".

Ngày 14 tháng 8 năm 1989, chính phủ Việt Nam quyết định thành lập Cụm Kinh Tế Khoa Học Dịch Vụ trên vùng bãi ngầm Tứ Chính, Huyền Trân, Quế Đường, Phúc Tần, Phúc Nguyên thuộc thềm lục địa Việt Nam có toạ độ 7 - 803B , 109 - 112 020 Đ .

Ngày 2 tháng 10 năm1989, người phát ngôn Ngoại giao Việt Nam tuyên bố bác bỏ luận điệu trong bản tuyên bố của Trung Quốc
ngày 28 tháng 4 năm 1989. Người phát ngôn bộ ngoại giao Trung Quốc đã lên án Việt Nam xâm phạm trái phép một số đảo và cù lao tại bãi Vạn An và Bãi Vạn Nhã thuộc “quần đảo Nam Sa” .

Ngày 9 tháng 3 năm 1990, Trung Quốc kết thúc đợt khảo sát khoa học ở quần đảo Trường Sa bắt đầu từ ba năm trước.
Ngày 18 tháng 3 năm 1990, nhiều tàu đánh cá từ Quảng Châu đến đánh cá ở Trường Sa. Ngày 16 tháng 4 năm 1990, Bộ Ngoại Giao Việt Nam gửi bản ghi nhớ cho đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội, phản đối việc Trung Quốc cho nhiều tàu quân sự , tàu khảo sát, tàu đánh cá đến hoạt động trong vùng biển Việt Nam tại quần đảo Trường Sa.

Ngày 28 tháng 4 năm 1990, Bộ Ngoại Giao Việt Nam gửi công hàm cho đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội, phản đối việc Trung Quốc đã cho quân lính xâm chiếm bãi Én Đất trên quần đảo Trường Sa.

- Từ năm 1990 đến nay, khối Liên Sô và Đông Âu sụp đổ, Việt Nam đổi mới, làm bạn với tất cả các nước kể cả Trung Quốc và Mỹ, sự tranh chấp Hoàng Sa và Trường Sa giữa Trung Quốc và Việt Nam không còn gay gắt như trước, song số dự trữ dầu lửa lớn ở Biển Đông khiến Trung Quốc vẫn chưa chịu trả Hoàng Sa cho Việt Nam và các nước khu vực và Trung Quốc vẫn tiếp tục tranh chấp với Việt Nam ở Trường Sa.

Tháng 8 năm 1990, Thủ tướng Trung Quốc Lý Bằng đề nghị tiến hành khai thác chung khu vực quần đảo Trường Sa.

Ngày 1 tháng 12 năm 1990 trong cuộc đi thăm Philippines, Thủ tướng Lý Bằng nói : “Chúng ta có thể tìm ra một giải pháp thích hợp đối với vấn đề Trường Sa với các bên hữu quan vào lúc thích hợp, nếu không phải là vào lúc này, tôi nghĩ chúng ta có thể gác lại vấn đề này và không để nó gây trở ngại trong quan hệ giữa Trung Quốc với các nước láng giềng hữu quan”.

Ngày 1 tháng 2 năm 1991, Trung Quốc xây dựng nhiều hải đăng trên các bãi đá ngầm mới chiếm được trong quần đảo Trường Sa.

Ngày 25 tháng 5 năm 1991, Trung Quốc công bố kết quả 8 năm khảo sát khoa học ở Trường Sa kể từ năm 1984.

Ngày 4 tháng 7 năm 1991 tại KuaLa Lumpur tổ chức một hội thảo không chính thức về giải quyết các tranh chấp trên vùng Biển Đông, Trung Quốc có cử đoàn cán bộ tham gia, người phát ngôn Bắc Kinh tuyên bố việc tham gia như thế không phải là Trung Quốc đã thay đổi lập trường và nói: “Trung Quốc chủ trương giải quyết tranh chấp bằng phương pháp hoà bình, Trung Quốc sẵn sàng cùng các nước liên quan thảo luận con đường và phương pháp cùng khai thác” .

Từ ngày 15 đến 18 tháng 7 năm 1991, do sáng kiến của Indonésia, một hội nghị quốc tế đã được tổ chức giữa các quốc gia trong khu vực về vấn đề quần đảo Trường Sa. Bản thông cáo cuối cùng khuyến khích đối thoại và đàm phán.

Ngày 10 tháng 11 năm 1991, các nhà lãnh đạo Việt Nam và Trung Quốc ký tại Bắc Kinh thông báo chung về bình thường hoá quan hệ giữa hai nước.

Ngày 25 tháng 2 năm 1992, quốc hội Trung Quốc công bố luật lãnh hải và vùng tiếp giáp Trung Quốc, quy định lãnh hải rộng 12 hải lý và lãnh thổ Trung Quốc giữa bốn quần đảo Đông, Tây, Nam, Trung Sa và đảo Điếu Ngư. Việt Nam đã lên tiếng công khai phản đối sự kiện này. Năm 1994, Việt Nam phản đối Trung Quốc đã xâm phạm thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam khi Trung Quốc ký với công ty Crestones ( Mỹ) cho phép thăm dò khai thác dầu mà Trung Quốc gọi là hợp đồng Vạn An Bắc 21. Ngày 18 tháng 4 năm 1994, ông R.C. Thompson, chủ tịch công ty Năng Lượng Crestones (Mỹ) ra thông báo với báo chí, nói rằng họ đang tiến hành khảo sát địa chấn và chuẩn bị thăm đảo để đánh giá tiềm năng dầu khí của khu vực, gọi là hợp đồng "Vạn An Bắc 21". Thông báo nói rằng: "Việc nghiên cứu khoa học và kế hoạch khai thác thương mại trong tương lai là những bước phát triển mới nhất của lịch sử nghiên cứu khoa học và thăm dò ở Biển Nam Trung Hoa và Khu vực vạn An Bắc của Trung Quốc, bắt đầu từ những báo cáo năm 200 trươc Công Nguyên vào thời Hán Vũ Đế!

Trước năm 1957, đã có nhiều công ty nước ngoài khảo sát địa vật lý và khoan thăm dò ở thềm lục địa Nam Việt Nam, trong đó có hai giếng đã phát hiện dầu thương mại. Vào cuối những năm 1970, có nhiều công ty như AGIP (Ý), DIMINEX (CHLB Đức), BOW VALLEY (Canada) đã thăm dò 5 lô dầu ở thềm lục địa miền Nam Việt Nam. Sau đó đến 1979, các công ty trên chấm dứt hoạt động. Tháng 9/1975, Tổng Cục Dầu Khí Việt Nam được thành lập nhằm thúc đẩy hoạt động tìm kiếm thăm dò dầu khí. Thềm lục địa Việt Nam rộng chừng 1,3 triệu km2, được chia thành 171 lô với diện tích trung bình mỗi lô khoảng 8000 km2. Trong đó có 31 lô có độ sâu mực nước biển dưới 50m, 35 lô từ 50 -100m, 10 lô từ 100 - 250m, 38 lô từ 200-2000m và 57 lô là có mực nước sâu trên 2000m.Trong phạm vi thềm lục địa Việt Nam có nhiều bồn trầm tích đệ tam có triền vọng chứa dầu khí.Cho đến cuối những năm 80, trên toàn thềm lục địa Việt Nam, chủ yếu ở phía Nam, đã khảo sát trên 100.000 km tuyến địa vật lý, khoan hàng chục giếng tìm kiếm thăm dò và đã phát hiện được ba mỏ dầu khí (Bach Hổ, Rồng và Đại Hùng). Từ năm 1986, mỏ Bạch Hổ bắt đầu được khai thác. Sản lượng năm 1986: 0,04 triệu tấn, 1988: 0,68 triệu tấn, 1989: 1,5 triệu tấn, 1990: 2,7 triệu tấn, 1991: 3,96 triệu tấn… (PTS Nguyễn Hiệp, Phó Tổng Giám Đốc Công Ty Dầu Khí Việt Nam, " Thăm dò và khai thác dầu khí ở Việt Nam", Khoa học và Tổ Quốc, (số 93), 1992, tr5).

Việc thăm dò và khai thác dầu khí ở thềm lục địa Việt Nam trên khiến người ta thấy tiềm năng vùng Biển Đông có nhiều triển vọng về dầu khí. Các tài liệu của Cộng Ḥoà Nhân Dân Trung Hoa cho con số trữ lượng từ 23 đến 30 tỷ tấn dầu tại vùng Nam Biển Đông.Chính số lượng dự trữ dầu lớn như vậy đã khiến cho sự tranh chấp chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa chưa dễ gì chấm dứt.

F - SỰ THỰC VỀ CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM TẠI HOÀNG SA , TRƯỜNG SA & GIẢI PHÁP BỀN VỮNG CHO HOÀNG SA, TRƯỜNG SA & BIỂN ĐÔNG.

Như trên đã trình bày, Trung Hoa khi bắt đầu khảo sát Tây Sa vào năm 1909 cho rằng Tây Sa là vô chủ . Hồi năm 1898 , Chính quyền Quảng Châu, Trung Hoa đã trả lời các khiếu nại của công sứ Anh ở Bắc Kinh về công ty Bảo hiểm người Anh bảo hiểm các tàu Bellona của Đức ( bị đắm năm 1895) và tàu Humeji- Maru của Nhật (bị đắm năm 1896) đã bị những người Trung Hoa ở Hải Nam cướp phá rằng: “quần đảo Tây Sa là những ḥòn đảo bị bỏ rơi, chúng không phải sở hữu của cả Trung Hoa lẫn An Nam, cũng không sáp nhập về hành chánh vào bất kỳ quận nào của Hải Nam và không có nhà chức trách nào chịu trách nhiệm về cảnh sát của chúng”( Monique Chemillier- Gendreau, sđd,p.158).

Đến khi Pháp bắt đầu đưa ra những bằng chứng lịch sử sự chiếm hữu của Việt Nam, Trung Hoa hồi đó và Trung Quốc bây giờ lại luôn luôn nói rằng Tây Sa ( tức Hoàng Sa ) và Nam Sa ( tức Trường Sa) đã thuộc về Trung Quốc từ lâu, bất khả tranh nghị, khi thì nói từ đời Minh, khi thì nói từ đời Tống. Sự thực thế nào?

Sự thực là quần đảo Hoàng Sa không hề là vô chủ như luận điểm của chính quyền Trung Hoa hồi năm 1909: Các tư liệu chứng minh chủ quyền của Việt Nam đã xuất hiện liên tục qua các đời: từ đầu thời Chúa Nguyễn (tức đầu thế kỷ XVII), sang thời Tây Sơn rồi tới triều Nguyễn (từ vua Gia Long), Việt Nam có khoảng gần 30 tư liệu các loại, không ít ỏi như thư của Toàn Quyền Pasquier gửi cho Bộ Trưởng Bộ Thuộc Địa ngày 18-10-1930, mà đã khẳng định chủ quyền của Việt Nam hết sức rõ ràng.
Thời kỳ Đại Việt, từ thời kỳ Nam Bắc phân tranh và thời Tây Sơn, nguồn tư liệu về Hoàng Sa hầu như chỉ còn lại tư liệu của chính quyền họ Trịnh ở Bắc Hà, chủ yếu là Thiên Nam Tứ Chí Lộ Đồ Thư, Toản Tập An Nam Lộ trong sách Thiên Hạ bản đồ, trong Hồng Đức Bản Đồ năm 1686 và Phủ Biên Tạp Lục năm 1776 của Lê Quý Đôn.

Trong Thiên Nam Tứ Chí Lộ Đồ Thư hay Toản Tập An Nam Lộ, năm 1686 có bản đồ là tài liệu xưa nhất, ghi rõ hàng năm họ Nguyễn đưa 18 chiến thuyền đến khai thác ở Bãi Cát Vàng. Còn tư liệu trong Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quý Đôn, năm 1776 là tài liệu cổ, mô tả kỹ càng nhất về Hoàng Sa, quyển 2 có hai đoạn văn đề cập đến việc Chúa Nguyễn xác lập chủ quyền của Đại Việt tại Hoàng Sa bằng hoạt động của đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải.

Sang thời kỳ triều Nguyễn từ năm 1802 đến năm 1909, có rất nhiều tài liệu chính sử minh chứng chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa:
- Dư Địa Chí trong bộ Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí của Phan Huy Chú (1821) và sách Hoàng Việt Địa Dư Chí (1833). Nội dung về Hoàng Sa của hai cuốn sách trên có nhiều điểm tương tự như trong Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quý Đôn cuối thế kỷ XVIII.
- Đại Nam Thực Lục phần tiền biên, quyển 10 (soạn năm 1821, khắc in năm 1844) tiếp tục khẳng định việc xác lập chủ quyền của Đại Việt cũng bằng hoạt động của đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải.
- Đại Nam Thực Lục Chính biên đệ nhất kỷ (khắc in năm 1848); đệ nhị kỷ (khắc in xong năm 1864); đệ tam kỷ (khắc in xong năm 1879) có cả thảy 11 đoạn viết về quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa với nhiều nội dung mới, phong phú, rất cụ thể về sự tiếp tục xác lập chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
- Tài liệu rất quí gía, châu bản triều Nguyễn (thế kỷ XIX), hiện đang được lưu trữ tại kho lưu trữ trung ương 1 ở Hà Nội. Ở đó người ta tìm thấy những bản tấu, phúc tấu của các đình thần các bộ như Bộ Công, và các cơ quan khác hay những dụ của các nhà vua về việc xác lập chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa dưới triều Nguyễn như việc vãng thám, đo đạc, vẽ họa đồ Hoàng Sa, cắm cột mốc... Năm Thiệu Trị thứ 5 (1845) có chỉ đình hõan kỳ vãng thám, sau đó lại tiếp tục.
- Trong bộ sách Đại Nam Nhất Thống Chí (1882 soạn xong, 1910 soạn lại lần hai và khắc in) xác định Hoàng Sa thuộc về tỉnh Quảng Ngãi và tiếp tục khẳng định hoạt động đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải do đội Hoàng Sa kiêm quản...

Ngoài ra các bản đồ cổ của Việt Nam từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX đều vẽ Bãi Cát Vàng hay Hòang Sa và Vạn Lý Trường Sa trong cương vực của Việt Nam.

Đặc biệt nhất sự kiện năm 1836 Vua Minh Mạng sai suất đội thủy binh Phạm Hữu Nhật , người gốc đảo Lý Sơn chỉ huy thủy quân đi cắm cột mốc, dựng bia chủ quyền tại Hoàng Sa và Trường Sa, sau đó thành lệ hàng năm. Đại Nam Thực Lục Chính Biên đệ nhị kỷ, quyển 165 cũng đã chép rất rõ từ năm Minh Mạng thứ 17 (1836), Bộ Công tâu vua hàng năm cử người ra Hòang Sa ngòai việc đo đạc thủy trình, vẽ bản đồ và còn cắm cột mốc, dựng bia. .Châu ban Tập tấu của Bộ Công ngày 12 tháng 2 năm Minh Mạng 17 (1836) với lời châu phê của vua Minh Mạng cũng đã nêu rất rõ: “Mỗi thuyền vãng thám Hòang Sa phải đem theo 10 tấm bài gỗ (cột mốc) dài 4, 5 thước, rộng 5 tấc". Đại Nam Thực Lục Chinh Biên, đệ nhị kỷ, quyển 6 còn ghi rõ : “Vua Minh Mạng đã y theo lời tâu của Bộ Công sai suất đội thủy quân Phạm Hữu Nhật đưa binh thuyền đi, đem theo 10 cái bài gỗ dựng làm dấu mốc. Mỗi bài gỗ dài 5 thước rộng 6 tấc và dày 1 tấc, mỗt bài khắc những chữ:
“ Minh Mạng Thập Thất Niên Bính Thân thủy quân chánh đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật phụng mệnh vãng Hòang Sa tương đồ chí thử hữu chí đẳngû tư, (tô 25b)”.
( Năm Minh Mạng thứ 17, năm Bính Thân, thủy quân chánh đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật, vâng mệnh ra Hòang Sa xem xét đo đạc, đến đây lưu dấu để ghi nhớ).

Vi sự kiện trên đã thành lệ hàng năm, nên Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ( 1851), quyển 207 , tờ 25b-26a và quyển 221 đã chép lại việc dựng miếu, dựng bia đá , cắm cột mốc năm 1836 và lệ hàng năm phái biền binh thủy quân đi vãng thám, vẽ bản đồ…

Về những tư liệu của Trung Quốc minh chứng chủ quyền Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, người ta thấy:
- Hải Ngoại Ký Sự của Thích Đại Sán (người Trung Quốc) năm 1696. Trong quyển 3 của Hải Ngoại Kỷ Sự đã nói đến Vạn Lý Trường Sa khẳng định Chúa Nguyễn đã sai thuyền ra khai thác các sản vật từ các tàu đắm trên quần đảo Vạn Lý Trường Sa.
- Các bản đồ cổ Trung Quốc do chính người Trung Quốc vẽ từ năm 1909 trở về trước đều minh chứng Tây Sa và Nam Sa không thuộc về Trung Quốc.

Khảo sát tất cả bản đồ cổ của Trung Quốc từ năm 1909 trở về trước, người ta thấy tất cả bản đồ cổ nước Trung Quốc do người Trung Quốc vẽ không có bản đồ nào có ghi các quần đảo Tây Sa, Nam Sa. Tất cả bản đồ cổ ấy đều xác định đảo Hải Nam là cực nam của biên giới phía nam của Trung Quốc.

Sau khi Trung Quốc dùng vũ lực chiếm đóng Hoàng Sa tháng 1-1974, nhiều đoàn khảo cổ Trung Quốc đến các đảo thuộc quần đảo này và gọi là “phát hiện” nhiều cổ vật như tiền cổ, đồ sứ, đồ đá chạm trổ trên các hòn đảo này, song đều không có giá trị gì để minh xác chủ quyền Trung Quốc, trái lại họ lại phát hiện ở mặt bắc ngôi miếu “Hoàng Sa Tự” ở đảo Vĩnh Hưng, tức đảo Phú Lâm (Ile Boisée), lại là bằng chứng hiển nhiên vết tích của việc xác lập chủ quyền của Việt Nam.

Về những tư liệu Phương Tây cũng xác nhận chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa:
* Nhật Ký trên tàu Amphitrite (năm 1701) xác nhận Paracels là một quần đảo thuộc về nước An Nam.* “Le Mémoire sur la Cochinchine” của Jean Baptiste Chaigneau (1769 - 1825) viết vào những năm cuối đời Gia Long (hoàn tất năm 1820) đã khẳng định năm 1816 vua Gia Long đã xác lập chủ quyền Việt Nam trên quần đảo Paracels. * “Univers, histoire et description de tous les peuples, de leurs religions, moeurs et coutumes” của giám mục Taberd xuất bản năm 1833 cho rằng hoàng đế Gia Long chính thức khẳng định chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa năm 1816. * An Nam Đại Quốc Họa Đồ của giám mục Taberd xuất bản năm 1838, phụ bản của cuốn từ điển La tinh- Annam, ghi rõ « Paracels seu Cát Vàng » với tọa độ rõ ràng như hiện nay chứ không phải như Trung Quốc cho là ven bờ biển.( « Seu » tiếng la tinh có nghĩa « hay là », Cát Vàng :chữ nôm, Hoàng Sa : chữ Hán ).. * The Journal of the Asiatic Society of Bengal, Vol VI đã đăng bài của giám mục Taberd xác nhận vua Gia Long chính thức giữ chủ quyền quần đảo Paracels) .* “The Journal of the Geographycal Society of London” (năm 1849) GutzLaff ghi nhận chính quyền An Nam lập ra những trưng thuyền và một trại quân nhỏ để thu thuế ở Paracels...

Về sau Trung Hoa đưa ra những bằng chứng ngụy tạo nói ngược lại luận điệu ban đầu, từng cho là đất vô chủ hồi 1909, cho rằng Tây Sa đã thuộc Trung Quốc từ lâu. Ngay tên Tây Sa và Nam Sa cũng mới đặt từ sau năm 1907 và Nam Sa lại bất nhất khi chỉ Trung Sa , khi chỉ Nam Sa ở vị trí hiện nay ( Spratleys). Có chăng thời Minh hay thời Hán thì cả nước Nam đã bị Trung Hoa đô hộ, Thời Tống Đại Việt cũng bị xâm lược, song đã giành được độc lập rồi!

Sự thực chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa đã rõ ràng như trên. Khi bị Trung Hoa xâm phạm, vào thời điểm ban đầu, với tư cách là người đến xâm chiếm thuộc địa, người Pháp chưa hiểu hết lịch sử chủ quyền lãnh thổ Việt Nam nên có lúc đã không lên tiếng bảo vệ kịp thời. Tuy nhiên, không lâu sau đó, Chính quyền thực dân Pháp đã có đủ thông tin và thay đổi quan điểm, bảo vệ chủ quyền cho Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa.

Sự thực là bất cứ chính quyền nào kể cả chính quyền thuộc địa chịu trách nhiệm về quản lý Hoàng Sa và Trường Sa, chưa bao giờ từ bỏ chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa.

Và nguyên nhân chủ yếu khiến cho Trung Quốc tranh chấp chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa chính là Việt Nam đã bị Pháp đô hộ và chịu ảnh hưởng những biến động chính trị quốc tế cũng như quốc nội, nhất là từ thời chiến tranh lạnh và sau này và tham vọng bành trướng mở rộng yêu sách lãnh thổ bằng vũ lực.

Sự thực lịch sử về chủ quyền và những hoàn cảnh lịch sử dẫn đến sự tranh chấp cùng nguyên nhân xâm phạm chủ quyền của Việt Nam đã quá rõ ràng như thế thì khi Việt Nam không còn bị Pháp đô hộ và tình hình thế giới và Việt Nam đã biến chuyển, khác trước thì giải pháp phải là “cái gì của césar phải trả lại cho césar”.

Bất kỳ chính quyền nào cũng như bất cứ người Việt Nam nào dù khác chính kiến đều coi trọng việc lấy lại Hoàng Sa về với Việt Nam và bảo toàn toàn vẹn Trường Sa. Lịch sử cho biết dù có hàng ngàn năm bị lệ thuộc rồi cũng có ngày với sự kiên cường , bất khuất, khi có thời cơ, sẽ đấu tranh thành công. Đối với các nước Asean trên cơ sở Công ước quốc tế về Luật biển năm 1982, sẽ tương nhượng trong tinh thần hợp tác giữa các thành viên trong khối càng ngày càng chặt chẽ , đôi bên đều có lợi.
Việt Nam và Trung Quốc núi liền núi , sông liền sông, đã có những bài học lịch sử quí giá. Việt Nam với truyền thống hàng ngàn năm luôn kiên quyết bảo vệ quyền độc lập tự chủ của mình, song luôn luôn tôn trọng nước đàn anh Trung Quốc, luôn theo truyền thống làm “phên dậu của Trung Quốc”, không bao giờ làm hại đến quyền lợi Trung Quốc.

Bất cứ giải pháp nào dựa vào sức mạnh như người Nhật đánh chiếm bằng vũ lực Hoàng Sa, Trường Sa năm 1938, 1939 cũng như Trung Quốc dùng võ lực năm 1974 chỉ mang tính nhất thời, không có giá trị pháp lý. Có đế quốc nào mạnh như đế quốc La Mă thời Cổ đại hay đế quốc Mông Cổ thời Trung đại hay đế quốc Anh, Pháp thời cận đại, rồi có ngày cũng suy yếu, phải bỏ những lănh thổ chiếm giữ bằng võ lực.

Bất cứ giải pháp nào muốn vững bền phải dựa trên sự thực lịch sử nhà nước Việt Nam đã chiếm hữu thật sự trước tiên tại Hòang Sa và Trường Sa, chưa có ai tranh chấp và phải dựa vào trật tự thế giới hiện hành khi có Hiến chương Liên Hiệp Quốc năm 1945 và những Nghị quyết của Liên Hiệp Quốc sau đó và Công ước quốc tế về luật biển năm 1982.

Mọi người kể cả người Trung Quốc phải thấy rõ sự thật lịch sử trên!

Việt Nam phải luôn luôn nhắc đi nhắc lại cho cả thế giới được biết rằng vụ Trung Quốc dùng võ lực chiếm đóng Hoàng Sa năm 1974, Trường Sa năm 1988 là trái phép hoàn toàn, trái với Hiến Chương và các nghị quyết của Liên Hiệp Quốc. Không thể để cho Trung Quốc coi vụ chiếm đóng Hoàng Sa như đã xong. Khi nội lực Việt Nam chưa đủ mạnh thì dứt khoát không ký kết bất cứ một hiệp định nào gây sự thiệt hại cho Việt Nam.

Việc cần làm ngay là làm rõ, quảng bá lịch sử nhà nước Việt Nam đã từ lâu chiếm hữu thật sự Hoàng Sa & Trường Sa và xây dựng nội lực Việt Nam vững mạnh, đoàn kết hùng cường.
Sự đấu tranh đòi lại Hoàng Sa cho Việt Nam cũng như sự bảo toàn quần đảo Trường Sa là cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ, nhứt định sẽ thành công cũng như Việt Nam đã từng bị Phong kiến Phương Bắc đô hộ hơn một ngàn năm, khi có thời cơ, sẽ giành được độc lập tự chủ./.

---------------

Ts Nguyễn Quang A đề xuất sáng kiến:

http://trannhuong.com/news_detail/1616/LỜI-NGỎ-NÊU-Ý-KIẾN-THÀNH-LẬP-QUỸ-NGHIÊN-CỨU-HOÀNG-SA-TRƯỜNG-SA
Hưởng ứng sáng kiến trên (bài của Nguyễn Vĩnh):

HÃY CHUNG VAI VỚI MỘT SÁNG KIẾN HAY

Nguyễn Vĩnh


Sáng kiến xây dựng Quỹ nghiên cứu Hoàng Sa, Trường Sa và Biển mà Tiến sĩ Nguyễn Quang A đề xướng (mới đăng trên trannhuong.com) là một sáng kiến rất hay, cần được dư luận xã hội biết đến, càng nhanh càng rộng rãi thì càng tốt. Bản thân tôi hoàn toàn ủng hộ sáng kiến này, nếu làm được gì cho việc nghiên cứu, đóng góp cho các văn bản, tài liệu về HS, TS, nghề nghiệp của tôi làm được, tôi xin góp sức.

Nhà văn Trần Nhương, người chủ Website này có nói tôi viết mấy dòng về một sáng kiến, mà tôi tin chắc rằng nếu thực thi, sẽ nhận được mối quan tâm lớn của xã hội chúng ta.
Là một nhà báo, trải qua nhiều năm công tác trong lĩnh vực thông tin tuyên truyền đối ngoại, tôi thấy chủ trương - về cả nghiên cứu và công bố các công trình, tài liệu về vấn đề này, cũng như cách thức thông tin tuyên truyền về biển đảo, lãnh hải của chúng ta - có sự bất cập, thậm chí có lúc định hướng và chỉ đạo mắc phải sai lầm. Tôi mạnh dạn nói là sai lầm, vì các cơ quan chức năng liên quan đã không có sự nhất quán, không bền bỉ theo đuổi, không đầu tư tiền của con người một cách thích đáng vào một công việc rất hệ trọng như vấn đề biển đảo và lãnh hải. Bên cạnh đó hình như có sự e nể, ngần ngại với đối tượng tranh chấp, rõ nhất là các khía cạnh đối ngoại đã quá đề cao, cân nhắc suy tính quá nhiều. Về điểm này tôi hy vọng còn được đề cập và chứng minh.
Nhìn chung, sau cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, sách báo của chúng ta đã nói rất mạnh, rất thuyết phục về chủ quyền hai quần đảo HS, TS. Đã có những cuốn sách, những công trình nghiên cứu và nhiều bài báo có giá trị hồi thập niên 1980 đề cập đến đề tài này rồi sau không thấy được nhắc lại nữa. Thật là tiếc và tủi phận những tác giả đã bỏ rất nhiều công sức vào các công trình, tác phẩm này.
Gần đây, theo quan sát của tôi, thấy vấn đề nghiên cứu về biển đảo và lãnh hải đã được đề cập chính thức trở lại. Đó là mặt thuận về phương diện quốc gia. Rõ nhất là cuộc hội thảo do Học viện Quan hệ quốc tế của Bộ Ngoại giao tổ chức. Tại đây có nhiều ý kiến hay, có giá trị cả lý luận và thực tiễn. Nhưng một ý mà tôi thấy khá mới mẻ - ít nhất là chính thức nêu công khai ra dư luận - là Việt Nam chúng ta cần có nhiều kênh phát biểu lập trường quan điểm về chủ quyền biển đảo, lãnh hải, không những Nhà nước tuyên bố mà các giới, các tổ chức xã hội cũng bằng nhiều cách khác nhau phát biểu chủ kiến của mình. Và nên chăng vấn đề tranh chấp biển đảo, lãnh hải này cần được quốc tế hóa? Chính vì thế mà tháng 5 vừa qua chúng ta đã cùng Malaysia đăng ký thềm lục địa của chúng ta ra Liên hợp quốc.
Quốc tế hóa, thậm chí đề xuất với tòa án quốc tế thụ lý hồ sơ để phán xét... Tại sao không? Bởi chúng ta có lẽ phải và chính nghĩa kia mà. Tuy nhiên ở thời nay, phải thấy trong các quan hệ quốc tế, lý lẽ tiếc thay lại nằm trong tay kẻ mạnh. Chứng cớ là ngoài biển khơi, càng ngày đối tượng tranh chấp lớn nhất của chúng ta đang cố ý biểu dương sức mạnh. Họ làm thế để làm gì, khỏi phải cần tìm câu trả lời.
Cho nên việc lập một quỹ dân gian tài trợ các công trình nghiên cứu khoa học hữu ích về HS, TS và Biển là một việc làm cần thiết, đúng đắn. Ta xuất phát vậy là chậm, nhưng thà chậm còn hơn không nghĩ gì làm gì phục vụ cho sự nghiệp chung bảo vệ chủ quyền quốc gia thiêng liêng.
NV
--------------

Bài phỏng vấn nhà báo Đinh Phong:
Nhà báo Đinh Phong:"Không nên cấm thông tin nhạy cảm" Từ những ý tưởng mới vì chủ quyền biển đảo Việt Nam đến những vấn đề thời sự nóng bỏng, nhà báo Đinh Phong (nguyên Phó Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam, Ủy viên Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TP Hồ Chí Minh) đề cập đến chuyện ứng xử với thông tin "nhạy cảm".


QUỸ BẢO VỆ HS - TS

Thưa nhà báo Đinh Phong, xuất phát từ đâu ông có ý tưởng về việc Việt Nam cần có quỹ vận động vì Trường Sa - Hoàng Sa?
- Tôi có quen nhà nghiên cứu lịch sử Nguyễn Đình Đầu. Trong nhiều lần, bác có cho tôi xem những tấm bản đồ rất quý giá mà bác sưu tập được về đất liền, biển đảo, trong đó có những bản đồ rất cổ, khẳng định Hoàng Sa - Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam.
Bác Đầu cũng giữ trong tay rất nhiều tài liệu chứng minh được chủ quyền của nước ta về biển đảo là có thực, từng tồn tại trong nhiều năm. Thế nhưng, bác Đầu nay đã ở tuổi cổ lai hy rồi.
Tôi đề nghị nên có một cái quỹ, để chúng ta có chi phí nhất định để cử những người trẻ hơn học hỏi, tiếp thu từ bác Đầu, tiếp tục làm công việc mà bác đang làm.
Thứ hai nữa là chúng ta sẽ in ấn rộng rãi những tư liệu của bác Đầu để nhân dân và lớp trẻ có bằng chứng xác thực khi nói về tổ quốc, biển đảo của đất nước mình.
Thứ ba nữa là từ quỹ ấy, chúng ta cử thêm người đi ra những nước mà trước kia đã từng xâm lược, truyền đạo, buôn bán ở ta, chắc chắn họ có nhiều tư liệu, bản đồ về biển đảo. Chúng ta thu thập, làm kho tư liệu được tổ chức, sắp xếp tốt hơn, để thêm một lần nữa chứng minh rằng Hoàng Sa - Trường Sa là của tổ quốc chúng ta đã được loài người công nhận, có từ 4,5 thế kỷ trước đây chứ không phải từ bây giờ.

Ông có thông tin cụ thể nào về việc có nhiều tư liệu khác về biển đảo Việt Nam nói chung và biển Đông nói chung có thể nằm ở những nơi lưu trữ ở những nước từng có quan hệ với Việt Nam từ xa xưa đến nay?

- Như người Pháp vào xâm lược nước ta, ngoài việc chiếm Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng hay Sài Gòn thì đều là phục vụ cho việc xâm chiếm của họ thôi, nhưng chắc chắn họ có các công trình nghiên cứu về biển đảo, từ đo độ sâu, độ xa, quy mô, biên giới thế nào.
Đến nước ta không chỉ có Pháp mà còn Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha... Họ đến để truyền giáo, thông thương, làm ăn buôn bán, mà để thuận lợi thì họ cần những công trình nghiên cứu về nước đó. Chẳng hạn người Pháp, họ có công trình rất kỹ về biển đảo mà đến nay, chúng ta đã có được; thì những nước khác, chắc chắn họ cũng có. Chỉ có điều chúng ta dự đoán là có, nhưng không có ai đi, không có kinh phí để có thể lục tìm lại những tư liệu, sách vở đó.
Đây là việc làm mà loài người tiến bộ chắc chắn sẽ đứng về phía Việt Nam, vì tính chất bảo vệ chủ quyền cho mỗi dân tộc, là trách nhiệm của cả loài người. Chỉ trừ những kẻ đi xâm lược, còn những người có thiện chí với chúng ta, mong muốn bảo vệ quyền lợi của chúng ta mà bây giờ lại có tổ chức của Liên hợp quốc thì chắc chắn họ sẽ ủng hộ việc này.
Ông có nghĩ đến việc đặt một cái tên cụ thể nào cho quỹ này?
- Đây không phải cuộc bảo vệ mà là một quỹ sưu tầm. Tôi cho rằng có thể gọi là Quỹ bảo tồn tư liệu về biển đảo Việt Nam. Như vậy là đúng tính chất. Đây là chúng ta phát hiện và bảo tồn tư liệu về biển đảo VN, còn cuộc đấu tranh để giành chủ quyền thì phải trên nhiều lĩnh vực.
Có ý kiến cho rằng việc lập quỹ này không chỉ có phần nhân dân đóng góp mà nguồn chính yếu là từ sự đóng góp của nhà nước, là trách nhiệm của nhà nước. Ông nghĩ sao?
- Đây là vấn đề bảo tồn chủ quyền quốc gia thì sẽ do nhà nước hỗ trợ là chính, nhà nước phải đứng ra chủ trì quỹ này; còn nhân dân, với lòng yêu nước của mình chắc chắn người ta sẽ đóng góp.
Đã lập quỹ thì nguyên tắc là phải có ban quản trị và ban này sẽ quyết định dùng quỹ vào những công việc gì.
PHẢI BIẾT LÊN TIẾNG
Ngoài ý tưởng về thành lập quỹ, ông còn đưa ra một đề xuất: Khi báo chí địa phương hay trung ương của Trung Quốc có những thông tin sai lệch về chủ quyền của Việt Nam hay các vấn đề khác về Việt Nam nói chung thì các cơ quan báo chí địa phương, báo chí thuộc các ban, ngành cần lên tiếng tương ứng để phản bác lại các luận điệu sai trái. Theo ông, thời gian qua các cơ quan báo chí - truyền thông Việt Nam có lơ là với việc này?

Những ý kiến của chúng ta nói ra mà họ chưa nghe thì chúng ta kiên trì tiếp tục nói. Đây không phải chúng ta sợ họ, né họ mà việc nói đến đâu, nói thế nào, đó là một nghệ thuật.

Ví dụ có một vấn đề vừa qua có nhiều kiến cho rằng khi ngư dân của chúng ta ra khơi bị bắt giữ, bị đối xử tàn bạo thì chúng ta đã có phản ứng nhưng hơi chậm. Đây là vấn đề về phía đối ngoại cũng như về phía báo chí. Nhìn nhận của ông ra sao?
- Tôi cho rằng phải kịp thời hơn. Đây là chúng ta thông tin cho nhau và kiến nghị chứ không phải là phản đối hay là chủ trương. Có thể thông tin của chúng ta từ các địa phương về là rất chậm, còn tại sao chậm thì phải tìm hiểu.
Đã là sự thật thì việc gì cũng sẽ đưa...

Có nhiều thông tin hiện nay liên quan đến vấn đề chủ quyền biển đảo được cho là chưa vội đưa ra hoặc không nên đưa ra. Ở một số lĩnh vực khác cũng có những thông tin được cho là "nhạy cảm", chưa thể hoặc không được công bố. Ông quan niệm thế nào về thông tin "nhạy cảm" - từ mà chúng ta gần đây hay nhắc đến trước nhiều vấn đề hiện nay?
- Có những cuộc tọa đàm, hội thảo chỉ là thông tin nội bộ thôi, không nên đưa ra ngoài. Chữ mà ta dùng "nhạy cảm" mà ta dùng là thế này: Có những thông tin làm cho quan hệ hữu nghị, đoàn kết được tăng cường thì đó là những thông tin thuận. Có những thông tin chưa có đủ dữ liệu mà mình nói lên, ảnh hưởng đến quan hệ hai nước thì đó là nhạy cảm, cần cẩn trọng. Nhạy cảm tức là anh phải tôn trọng vấn đề đó và xem nó có ảnh hưởng đến sự đoàn kết, tình hữu nghị giữa hai bên không thì hãy nêu lên. Nêu lên mà chưa thẩm định, kiểm tra thì có thể thông tin ấy làm xúc phạm, ảnh hưởng đến hai dân tộc.
Nhưng người ta sẽ băn khoăn thông tin đến mức nào thì thuộc về thông tin "nhạy cảm", nhất là trong chuyện thông tin về tham nhũng, xét xử vụ này vụ kia, nhất là khi có liên quan đến những người có chức quyền hay thông tin về đường lối chính sách, quan hệ bang giao, về các vấn đề lịch sử v.v... Và vì sợ đụng vào từ "nhạy cảm" nên với người làm báo rất dễ dẫn đến việc "tự kiểm duyệt". Theo ông chúng ta có lạm dụng từ "nhạy cảm" và người làm báo trong giai đoạn hiện nay có nên thường xuyên chú ý đến việc "tự kiểm duyệt" mình?
- Chữ nhạy cảm đưa ra ở đây là không đúng. Nhạy cảm không phải hễ không muốn đưa tin, không muốn công bố thì cho đó là thông tin nhạy cảm - hiểu như thế là sai. Ở đây thông tin đưa ra phải đảm bảo: Thứ nhất, thông tin ấy có chính xác không. Thứ hai là có phù hợp với điều kiện, thời điểm, phục vụ cho lợi ích chung hay không.

Chúng ta tuyên truyền thì phải chú ý đến hai yếu tố là thông tin phải chính xác và thông tin đó đưa lúc nào thì phù hợp, có ảnh hưởng đến an toàn, an ninh xã hội, có làm cho xã hội phát triển hay không. Phải cân nhắc đến cái đó chứ không phải cân nhắc có "nhạy cảm" hay không.
Đã là sự thật thì việc gì cũng sẽ đưa, nhưng đưa vào lúc nào thì lại là chuyện khác. Người lãnh đạo thì cần cẩn trọng trong việc vấn đề này đưa ngay, vấn đề kia chưa đưa hay cần bổ sung thêm thông tin thì đưa.
Đó là sự chỉ đạo tuyên truyền mà chúng ta phải biết rằng chúng ta là cơ quan báo chí cách mạng, thông tin mà chúng ta đưa ra phải có lợi cho cách mạng, cho dân tộc.
Cũng như đời tư của chúng ta thôi. Chúng ta cũng có nhiều chuyện lắm, nhưng không phải chuyện gì cũng đưa ra ngoài được cả đâu. Rất đông anh em phóng viên chúng ta cũng như mọi người thường có những chuyện riêng tư, nhảm nhí; nhưng điều đó không có quan hệ với việc chúng ta đang làm này thì không nên đưa thôi. Không phải cứ phải moi tất cả những chuyện xấu của mọi người đưa ra ngoài!
Ông cho rằng người viết báo, làm báo ở Việt Nam nên đem cụm từ "tự kiểm duyệt" ra sử
dụng trong trường hợp nào?
- Chúng ta không có phóng viên tư nhân, không có phóng viên nước ngoài. Chúng ta đều là phóng viên báo chí cách mạng cả. Bất cứ một phóng viên nào trước một thông tin cũng cần hiểu rõ là việc này nên thông tin chưa và thông tin vào lúc nào. Yếu tố quan trọng hàng đầu là phải chính xác. Phóng viên phải cân nhắc có nên viết hay không nên viết và việc đó có lợi cho ai. Cuối cùng ông tổng biên tập cho đưa thông tin ấy nên, quyết định nên đưa hay không thì đó là trách nhiệm của ông ấy. Từ phóng viên đến người tổng biên tập có tiếng nói quyết định trên cơ sở xem xét thông tin đó có chính xác và có đúng thì điểm để công bố hay không.
Đã trải qua hàng chục năm làm báo, nhiều năm là Chủ tịch Hội Nhà báo TPHCM, đã bao giờ ông phải "tự kiểm duyệt" cho những bài viết của mình? Nếu trước một thông tin được cho là "nhạy cảm" nhưng ông cho rằng thông tin đó cần phải chuyển đến bạn đọc ngay lập tức thì khi ấy không sẽ xử sự ra sao?
- Có nhiều kỷ luật về thông tin lắm. Ngày xưa tôi là phóng viên chiến trường thì tôi biết có nhiều trận mình thua chứ không phải trận nào mình cũng thắng. Có lúc cần phải cổ động nhân dân mà mình đem trận thua ra để thông tin thì sẽ làm ảnh hưởng đến chiến trận. Cho nên trận thua đó mình có thể kể, rút kinh nghiệm vào lúc khác. Còn bây giờ, khí thế của nhân dân đang đánh địch như thế, mình không cần thông tin những trận thua hay thiệt hại nặng của mình. Ví dụ tôi không đưa số liệu anh em mình hy sinh. Tôi không đưa cái đó chứ không phải tôi đưa tin cả trung đoàn anh em đều sống sót. Đó không phải giấu sự thật. Cái đó vẫn chính xác, mình cần điều tiết.

Cụ thể, trận Mậu Thân anh em hy sinh rất lớn. Tôi viết, chúng ta đánh thắng ở đâu, nhưng việc hy sinh cũng là rất lớn. Sau này viết hồi ký tôi nó rằng: Không rõ Phadeev viết thế nào về sự hy sinh của quân đội Xô Viết, nhưng tôi biết, khi đứng trước cửa Mậu Thân, đứng trước cửa Sài Gòn tôi thấy anh em hy sinh rất lớn. Đó là những gì được viết vào lúc chiến trận đã kết thúc và đó là sự đau đau xót mà không ai viết ra được ngay lúc đó.

Nhưng trong thời đại ngày hôm nay, thời đại của thông tin và truyền thông với biên độ truyền tin mở rộng, tốc độ truyền tin cũng rất nhanh, bên cạnh tính chính xác thì sự nhanh nhạy luôn được tính đến. Có những khi thông tin chưa kịp truyền đi trên báo chí trong nước thì báo chí nước ngoài đã đưa tin hoặc thông tin đã kịp thời lan truyền trên các trang mạng, bằng rất nhiều phương tiện khác nhau. Liệu điều này có tác động gì đến công tác quản lý báo chí và trong cách làm việc, ứng xử của phóng viên, người truyền tin? Và xét ở một góc độ khác nữa là chúng ta cần phải ứng xử thế nào để dư luận không phải băn khoăn, hoang mang rằng tại sao tôi chưa thấy thông tin đó ở báo chí trong nước, thông tin đó thực hư thế nào, cần đối chiếu, kiểm định tính chính xác ở đâu - khi tôi chỉ là một độc giả - công dân bình thường?
- Từ lâu tôi vẫn cho rằng thế này: Không nên cấm thông tin mà nên làm rõ, nên nói thế nào. Bất cứ điều gì, khi có sự kiện xảy ra đều có thể thông tin được. Vấn đề còn lại là cách thông tin thế nào để anh có thể hướng dẫn dư luận đi vào con đường đúng. Bởi vì anh không đưa thông tin ấy ra thì người khác vẫn nghe được, kênh khác vẫn đưa và có thể sai lệch đi. Bây giờ anh đưa thông tin ấy ra theo cách hướng dẫn dư luận rằng việc ấy xảy ra đúng như thế và cần phải hiểu thế này; như thế mới giỏi, chứ không phải ngăn hay cấm thông tin đó.
Thời đại bây giờ anh không nói thì báo khác nói, các kênh thông tin rất nhiều, Internet rất phổ biến. Chính vì vậy mà các luông thông tin đan xen dễ gây hoang mang. Anh đưa thông tin chính thức thì sẽ định hướng được mọi người hiểu nó là thế này chứ không phải thế kia.
Quan điểm của tôi là chẳng có thông tin nào thuộc diện cấm đưa cả, chỉ là cách đưa thế nào để hướng dẫn dư luận cho đúng và đưa vào thời điểm nào là phù hợp.





VỀ HỘI LÀNG   8 tháng 3 Âm lịch hằng năm là ngày Hội làng truyền thống quê tôi. Năm nay ngày hội rơi vào 2 ngày Nhà nước quy định Quốc tang ...